(Tạp chí Newsweek, số đề ngày 26 tháng Tám, 2002)
Lê bước chậm chạp qua vùng đất cằn như trên mặt trăng tại Dasht-e Leili, một vùng hoang vắng của những dãy đồi thấp tại miền bắc A Phú Hãn, Bill Haglund phát hiện ra những manh mối vùi lấp trên mặt cát vàng xám. Những chuỗi hột cầu nguyện. Một cái mũ nỉ. Một vài đôi giày. Tất cả những tang vật này, cùng với vết cào và vệt bánh xe ủi đất, cho thấy rằng Haglund đã tìm thấy những gì anh ta đang đi tìm. Và rồi anh ta tìm thấy một mẫu xương ống chân người, ba bộ xương chậu và vài mảnh xương sườn.
Những mồ chôn tập thể không phải bao giờ cũng dễ tìm, tuy nhiên những chuyên viên điều tra được huấn luyện đầy đủ đều biết về những dấu hiệu. Haglund, một nhà khảo cổ hình sự và người tiền phong trong lĩnh vực nghiên cứu khảo cổ về nhân quyền, nói rằng “Bạn tìm những nơi mặt đất bị đụng chạm, sự khác biệt của những loại cây cỏ, những vùng mà máy móc đã được dùng tới” . Tại Dasht-e Leili, khoảng 15 phút lái xe từ trại tù Sheberghan của Liên Minh Phương Bắc, những súc vật đào xới thịt người đã đem những tang chứng này lên mặt đất. Vài mãnh xương đã bị gặm mòn đã cũ và phai màu, nhưng có vài khúc xương rời ra từ những xác chết mới được chôn gần đây nên những xương còn dính thịt người. Vùng đất có dấu tích xe ủi đất làm việc này rộng khoảng một mẫu, cho thấy đây là những mồ chôn tập thể rất lớn. Một chiếc găng tay cao su loại dùng trong phòng mổ đã khiến Haglund chú ý, và đây có thể là bằng chứng, Haglund nghĩ rằng ít nhất đã “có một sự dàn xếp nhỏ nhoi” nào đó.
Haglund đến Sadht-e Leili không phải chỉ vì có linh tính. Hồi tháng Giêng, hai chuyên viên điều tra thuộc tổ chức Y Sĩ Cho Nhân Quyền (PHR), bản doanh từ Boston, đã phải lớn tiếng cãi mới vào được trại tù Sheberghan gần đây. Những gì họ chứng kiến đã làm cho họ hoảng hốt. Hơn 3000 tù binh Taliban - đầu hàng với quân Liên Minh Phương Bắc lúc thị trấn Konduz thất thủ hồi cuối tháng Mười Một - đã bị nhốt chật cứng vào một nơi giam giữ chỉ đủ cho 800 người, đói và bệnh hoạn. Viên chỉ huy Liên Minh Phương Bắc của trại tù thú nhận về tình trạng tồi tệ này, nhưng bào chữa rằng ông ta không có tiền. Ông năn nỉ tổ chức PHR hãy gởi thực phẩm và tiếp liệu cho trại, và yêu cầu LHQ hãy giúp đào một cái giếng để các tù binh có được nước sạch để uống.
NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ MỒ CHÔN TẬP THỂ
Nhưng những câu chuyện kinh hoàng ghê gớm hơn là chính từ các tù nhân thuật lại. Cho dù tình tạng của họ có khốn khổ bao nhiêu, họ vẫn là những kẻ may mắn. Họ đã sống sót. Hằng trăm các đồng chí của họ, theo lời họ, đã bị giết chết trong hành trình từ Konduz đến Sheberghan, bằng cách bị đẩy nhốt vào những thùng kiện hàng hóa containers, bị khóa chặt để cho ngạt thở. Nhân viên cứu tế địa phương và giới chức A Phú Hãn lặng lẽ xác nhận rằng họ đã nghe nói về những chuyện này. Họ cũng xác nhận rằng có những tường trình liên tục về việc thủ tiêu những thi hài tại những mồ chôn tập thể tại Dasht-e Leili.
Ðến lúc đó, Haglund, một chuyên viên từng điều tra những vụ tương tự tại Rwanda, Sri Lanka, bán đảo Balkans và những địa điểm của những cuộc tàn sát khác, được gọi đến. Ðứng trên bìa nơi mà ông ta thấy dấu vết bánh xe ủi đất là bờ của một nơi chôn người, anh ta đào xới một rãnh dài và cạn, vào trong lòng cát. Rồi anh ta đưa mũi ngửi. Mùi cay xè bốc lên không còn lầm lẫn vào đâu được nữa. Haglund và các nhân công địa phương sau đó đào sâu xuống, khoảng năm bộ, họ tìm thấy một lớp thây người đang bị tan rửa, nắm sát cạnh nhau theo một hàng. Họ đào thử một đường hào dài khoảng sáu thước và trong đó - một khoảng cách ngắn đã tìm ra 15 xác chết. Haglund hồi tưởng lại rằng “đây là những xác tương đối còn mới: nhiều thây còn thịt dính trên xương, những thây người ít có quần áo, điều này phù hợp với những báo cáo rằng [trước khi họ chết] họ đã ở một nơi rất nóng.” Một vài xác tay còn bị trói. Haglund đào lên ba xác người, và một đồng sự của anh làm giảo nghiệm tử thi trong một căn lều bên cạnh. Những nạn nhân đều là thanh niên, và xác của họ không thấy có một chấn thương rõ ràng nào - không có vết thương vì đạn, không có dấu vết bị đánh đập bằng vật cứng. Haglund nói rằng, điều này cũng phù hợp với những câu chuyện những người sống sót khai rằng họ chết vì ngạt thở.
Có bao nhiêu người bị chôn tại Dasht-e Leili? Haglund không muốn dự đoán. “ Ðiều duy nhất chúng tôi biết là: đây là một nấm mồ tập thể rất lớn,” theo một viên chức LHQ thân cận với cuộc điều tra, và rằng số tử thi nằm “chất chồng nhiều tại địa điểm khai quật thử”. Những nguồn tin khác điều tra cuộc thảm sát đã không tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi có thể tin tưởng mà nói rằng hơn một ngàn người đã chết trong những thùng hàng hóa containers,” Aziz ur Rahman Razekh, giám đốc tổ chức Nhân Quyền A Phú Hãn nói. Những cuộc thẩm vấn sâu rộng do NEWSWEEK thực hiện với các tù nhân, những người tài xế xe tãi, dân quân A Pú Hãn và dân chúng địa phương - kể cả những cuộc phỏng vấn những người sống sót nhờ họ đã liếm và nhai da của người khác để sống còn - cũng cho thấy rằng hàng trăm người đã chết.
Cái chết tại Dasht-e Leili, và cách thức hành quyết họ một cách ghê gớm - là một trong những bí mật dơ bẩn của cuộc chiến tranh A Phú Hãn. Màn này không những chỉ là một vụ tàn sát khác tại một vùng đất đã từng chứng kiến rất nhiều câu chuyện như thế này. Cuộc tàn sát cho thấy những vấn đề mà Mỹsẽ phải đối đầu nếu họ còn muốn tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh dùng tay kẻ khác đánh, như Hoa Kỳ đã thực hiện tại A Phú Hãn, sử dụng những đơn vị nhỏ của Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ gọi sức mạnh không tập để hỗ trợ cho quân địa phương trên mặt đất. Ðây cũng nêu lên những câu hỏi về trách nhiệm của người Mỹ về hành vi của các đồng minh của mình, những kẻ không muốn thi hành những quyền được bảo vệ do Công Ước Geneva đảm bảo. Lợi thế của việc tham chiến trong cuộc chiến theo kiểu dùng người khác đánh tại A Phú Hãn là chiến thắng với ít máu người Mỹ phải đổ ra, Tổn thất, theo như cuộc điều tra của NEWSWEEK đưa ra, là lực lượng Mỹ làm việc với “những đồng minh” vi phạm những điều có thể gọi là tội ác chiến tranh.
NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ SAI LẠC
Không có điều gì do NEWSWEEK tìm thấy có thể cho rằng lực lượng Mỹ biết trước được những vụ thảm sát, chứng kiến việc các tù nhân bị chất vào trong nhữngxe tãi containers bít bùng không có không khí hay đứng ở vị thế để có thể ngăn ngừa được việc này. Họ có mặt tại trại giam lúc những thùng containers được chở đến, mặc dầu có thể họ không có mặt lúc những thùng này được mở ra. Nhóm nhỏ binh sĩ lực lượng đặc biệt lúc bấy giờ đang chú tâm về vấn đề an ninh trại tù và ngăn ngừa một vụ nổi loạn như vụ đổ máu tại trại tù Qala Jangi. Các binh sĩ Mỹ chắc chắn đã nghe thuật lại những câu chuyện chết chóc trong những thùng containers, nhưng có thể họ nghĩ rằng những chuyện này đã được thổi phồng quá đáng. Cũng có thể họ tin rằng những xác chết là những tổn thất chiến tranh, hoặïc là những binh sĩ bị thương, trong số hàng ngàn quân khác của họ, đã không sống sót được qua cuộc hành trình gian khổ từ địa điểm họ đầu hàng đi đến trại giam. Nhưng cũng có sự thật rằng các phát ngôn nhân Ngũ Giác Ðài đã hoang mang khi bị hỏi về vấn đề này. Các giới chức trong nội các đã không trả lời những lời yêu cầu nhiều lần của NEWSWEEK về một tổng kê chi tiết những hoạt động của Hoa Kỳ tại những vùng Konduz, Mazar-e-Sharif và Sheberghan trong thời gian xảy ra nội vụ, và những phát ngôn nhân quốc phòng đã cho ra những công bố sai lầm. Những câu hỏi tương tự cũng có thể được nêu lên cho các cơ quan quốc tế. LHQ đã thực tâm đến mức nào khi họ điều tra những gì đã xảy ra tại Sheberghan? Những báo cáo về tàn sát đưa ra lúc cộng đồng quốc tế đang hết sức cố gắng mang lại sự ổn định cho A Phú Hãn. Những giới chức thực tâm có thể tự hỏi rằng nếu có một cuộc điều tra tận gốc có thể đưa đến một loạt những tàn sát mới tại A Phú hãn. Như vậy việc này có đáng làm không? Một văn thư mật của LHQ, một phần được tiết lộ cho NEWSWEEK, nói rằng những khám phá do cuộc điều tra về những nấm mồ tại Dasht - e Leili là “đủ để biện minh cho một cuộc điều tra về hình sự.” Văn thư nói rằng dựa trên những “tin tức thu lượm được”, địa điểm naỳ “gồm những xác tù binh Taliban chết vì bị ngạt trong khi di chuyển từ Konduz đến Sheberghan.” Một nhân chứng tường thuật trong một báo cáo rằng con số tử thương lên đến 960 người. Dầu vậy bản báo cáo cũng nêu lên những câu hỏi khẩn cấp. “Xét vì sự nhạy cảm của trường hợp này và những việc bảo vệ liên hệ, cần phải đề nghị mạnh mẽ rằng tất cả những hoạt động liên hệ đến vụ này cần phải ngưng tức khắc cho đến khi có một quyết định liên hệ đến mục tiêu tối hậu cho công tác này: một phiên xử hình sự, một ủy hội tìm sự thật, v.v.”
Vị tư lệnh lực lượng bị tình nghi đã thực hiện những vụ tàn sát này là Tướng Abdul Rashid Dostum, một trong những lãnh binh khát máu và hữu hiệu nhất của A Phú Hãn. Phát ngôn nhân của ông Dostum, Faizullah Zaki nói với NEWSWEEK rằng nhiều người đã chết vì ngạt thở. Nhưng ông này cho rằng con số chỉ vào khoảng “từ 100 đến 120 người”, mỗi thùng container có một ít người”, và nói rằng một số “đã bị trọng thương và chết trên đường di chuyển”. Ông này cho rằng vụ nổi loạn tại Qala Jangi xảy ra chỉ ba ngày trước đó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến việc đối xử như thế. “Nếu sự việc tại Qala Jangi không xảy ra, chắc rằng việc di chuyển tù nhân có thể đãtrật tự hơn, Và có lẽ đã có ít sự cố xảy ra,” theo lời ông này nói thêm rằng: “Họ bị ngạt, chết, chứ không phải bị giết. Không có ai giết ai cả.” Zaki cũng nói rằng Tướng Dostum không có mặt tại chỗ khi các tù nhân bị nhét vào những thùng hàng. “Những chi tiết kỹ thuật về việc chuyển tù đã được giao phó cho các cấp dưới,” Ông nói thêm rằng “Có một số binh sĩ Mỹ vẫn kề cận sát bên cạnh ông Dostum” suốt trong thời gian đang được điều tra.
LIÊN HỆ CỦA HOA KỲ
Quan hệ mật thiết của quân Mỹ với Tướng Dostum chỉ có thể làm cho cuộc điều tra thêm phần tế nhị. Jennifer Leaning, giáo sư tại Ðại Học Y Tế Công Cộng Harvard và là một trong hai bác sĩ điều tra của tổ chức Y Sĩ Cho Nhân Quyền (Physicians for Human Rights), những người đã cố xông vào cho được trại tù Sheberghan, nói rằng “Một vấn đề không ai muốn bàn tới là sự liên hệ của các lực lượng Hoa Kỳ. Quân Mỹ có mặt tại đây lúc xảy ra nội vụ. Binh sĩ Mỹ đã biết những gì, lúc nào và nơi nào, và họ đã làm những gì về vụ này?”
Các lực lượng Taliban và al-Qaeda tại Konduz đầu hàng trong một thỏa hiệp cần tới hai ngày mới đạt được. Theo Shams-ul-Haq (Shamuk) Naseri, một chỉ huy trung cấp của Liên Minh Phương Bắc hiện diện, cuộc thương thuyết diễn ra dưới sự chứng kiến của ba sĩ quan tình báo Mỹ và một tá binh lính Lực Lượng Ðặc Biệt. Các chỉ huy Liên Minh Phương Bắc, kể cả Tướng Dostum, đồng ý cho những điều kiện tương đối rộng lượng: Binh lính A Phú Hãn sẽ được thả cho về nhà về làng họ. Hầu hết binh sĩ người Pakistan cũng có thể được cho về nhà sau khi người Mỹ chọn lựa những nghi can hoạt động cho al-Qaeda. Người Ả Rập và các binh lính có quốc tịch khác sẽ được chuyển giao cho LHQ hay một tổ chức quốc tế khác, theo lời Vasiqullah Sadat, đại diện của Taliban nằng nặc đòi rằng người của họ phải ra hàng với Tướng Dostum, bởi vì họ nghĩ rằng ông ta sẽ là người không trả thù cho những vụ giết chóc từ trước. Cuộc đầu hàng sẽ chính thức bắt đầu vào hôm Chủ Nhật, 25 tháng Mười Một - để cho các lãnh tụ Taliban có thì giờ thông báo thỏa hiệp này cho quân lính của họ tại Konduz.
Một ngày sau khi cuộc thương thuyết chấm dứt, khoảng 400 binh lính cố mở mũi dùi trốn thoát về hướng tây. Nhưng đại đa số những binh lính bị kẹt tại Konduz đã đầu hàng, theo lời Naseri, “giống như những con cừu”. “Một tên ra hàng và tất cả ra theo.” Ðịa điểm được thỏa thuận cho cuộc đầu hàng là Yerganak, một điểm trên sa mạc về hướng tây của Konduz khoảng năm dặm. Hầu hết những chỉ huy cao cấp của Taliban và al-Qaeda đã ngồi trên xe chạy ra và những xe cộ của họ lập tức bị Liên Minh Phương Bắc tịch thu. Số binh sĩ còn lại đi bộ ra. Có bốn địa điểm kiểm soát được lập ra tại Yerganak để giải giới các tù nhân và đưa họ lên bất cứ xe cộ nào có được lúc bấy giờ: Xe pickup, vận tãi, xe chở lính hiệu Kamaz của Nga không có trần, ngay cả những xe có thùng hàng containers. Nhưng những con số tuôn ra từ Konduz quá đông đảo làm ngập tràn các cơ sở, và hầu hết những người đầu hàng phải đợi đến ba bốn ngày trên sa mạc.
SỨC MẠNH ÐÁNG KỂ
Dostum và một chỉ huy khác của Liên Minh Phương Bắc, Atta Mohammed, có mặt tại Yerganak để theo dõi việc đầu hàng. Cũng như hàng chục lính Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ, theo những người Mỹ và A Phú Hãn có mặt cho biết. Vài nhóm LLÐB di chuyển quanh vùng này bằng những xe gắn máy bốn bánh; Dostum được quay phim chụp hình lúc đó đang thưởng thức cho đi một vòng trên xe này. Người Mỹ cung cấp hầu hết thực phẩm và nước uống cho số tù nhân đang chờ đợi. Nhưng họ có mặt với chủ đích chính là dương oai, cung ứng một sức mạnh đáng kể, một thông diệp được củng cố bằng những oanh tạc cơ Mỹ lúc đó đang bay quần trên không.
Ðúng vào thời điểm này, quân lính từ hàng ngũ dân quân của Dostum đến một địa điểm tập trung những thùng containers bên ngoài ngoại vi Mazar-e-Sharif, khoảng 100 dặm về hướng tây, và họ tuyển được một tài xế mà chúng tôi đặt tên là Mohammed, một người mang râu quai nón vào khoảng tứ tuần. (NEWSWEEK đã thay đổi tên họ của vài nhân chứng trong tường trình này để giảm thiểu cơ hội họ bị trả thù.) Mohammed được cho biết xe chở thùng container của anh ta cần đến để chở binh lính Taliban bị giữ đến trại tù Sheberghan. Anh ta sẽ đón họ vào tối hôm đó tại trại binh cũ Qala Zeini, nằm trên đường giữa Mazar-e-Sharif và Sheberghan. Con đường thựïc sự là cắt qua trại binh này: Một cổng vào và một cổng ra.
Mohammed đến Qala Zeini khoảng 7 giờ đêm hôm đó. Ðã có vài xe chở thùng container đang đợi bên trong trại binh. Vào khoảng 150 binh lính, tất cả là người A Phú Hãn. Vào khoảng 9 giờ, tù binh -pha trộn giữa người Pakistan, A Phú Hãn, Ả Rập và Chechen, đến đây từ Yerganak trên những xe không mui và xe pickup. Binh lính ra lệnh các tù nhân xuống khỏi xe vận tãi, và họ bị lột hết những khăn đội đầu, mũ và áo vét. Sau đó họ bị lùa vào trong những thùng containers, khoảng 200 người trên mỗi xe tãi. Những tay súng này đột nhiên biết rằng họ không phải được cho về nhà như đã hứa. Một tài xế thuật lại rằng các tù binh gào lên “Ð.M. Shamuk Naseri, Hắn đã phản chúng ta.” Những cánh cửa thùng hàng bị đóng lại sau đó.
Những tù nhân có thể đã biết số phận của họ. “Chết vì thùng containers”: đã từng là một phương tiện giết người tập thể một cách rẻ tiền của cả hai phe Taliban và Liên Minh Phương Bắc đã sử dụng ít nhất từõ 5 năm nay. Những thùng hàng containers phế thải - có thước tất tiêu chuẩn quốc tế với ba chiều đo được là 40 bộ nhân 8 bộ nhân 8 bộ - nhan nhản khắp trên những con đường tại A Phú Hãn, rỉ sét, nhắc lại những tấn hàng hóa đổ dồn vào nước này trên 40 năm qua. Tương truyền rằng có một viên tướng độc ác người Uzbek tên là Malik Pahlawan là người đầu tiên nghĩ ra tiềm năng của thùng hàng containers như một máy giết người, hồi năm 1997. Sau khi một trận tấn công của Taliban bị đẩy lui, Pahlawan - theo những tường trình của LHQ sau đó - đã giết 1250 quân Taliban bằng cách bỏ họ trong những thùng containers dưới ánh nắng thiêu đốt của sa mạc. Khi mở những thùng này ra, người ta thấy những tù binh đã bị nướng cháy đen. Khi phe Taliban chiếm được Mazar-e-Sharif vào năm 1998, đến lượt họ lại giết chết hàng trăm kẻ thù bằng cách tương tự.
"CHÚNG TÔI SẮP CHẾT, XIN CHO CHÚT NƯỚC"
Trong trường hợp tù binh Taliban tại Konduz, nhiệt độ trong tháng Mười Một không đến nổi nóng đủ để thiêu rụi họ. Nhưng sau vài giờ, họ bắt đầu đánh vào bên hông những thùng container đông kín. Vài người la hét “Chúng tôi sắp chết. Cho chúng tôi nước!” Mohammed dùng một cái búa đục lỗ trên thùng container của anh ta, cho đến khi lính của Dostum nghe tiếng đập và giận dữ hỏi anh ta đang làm gì. Mohammed nói rằng anh ta đang che kín những lỗ hổng để không cho tù nhân trốn thoát.
Sau khi lính đã đi khỏi, một trong những tù binh ghé mặt gần vào một trong những lỗ hổng. Anh ta hỏi “Anh có phải người Hồi Giáo không?” Mohammed trả lời “Vâng”, “Hãy nhìn lưỡi tôi này”, người tù binh nói và thò lưỡi ra. Lưỡi anh ta bị nứt vì thiếu nước. Mohammed đổ đầy nước vào một chai Fanta hai lít và đưa vào bên trong qua lỗ hổng. Anh ta cũng đưa vào mười miếng bánh mì, tất cả lương thực anh có được. Người tù binh nói “Cảm tạ Thượng Ðế Allah, nhờ anh là người Hồi Giáo,”
Một vài tài xế khác mà NEWSWEEK tìm ra tung tích cũng đã cho biết họ cũng đã cố giúp. Một người mô tả cách thức anh ta đục lỗ trên thùng container để cố mang nước cho các tù binh. Nhưng lính của Dostum phát hiện được anh ta, năm người đã đánh anh ta trí mạng bắng báng súng. Chính Mohammed chứng kiến vụ hành hung và suốt đêm đó anh ta nằm bên trong buồng lái khóa chặt cửa lại.
Có một vài người đã chứng kiến cảnh tượng tương tự tại Qala Zeini và đã cố gởi lời báo động. Tháng Mười Hai, Abdullah có mặt tại khu định cư Langar Khaneh, gần với trại binh Qala Zeini. Khi cửa trại Qala Zeini đóng trong một ngày rưỡi, và lưu thông được chuyến hướng qua Langar Khaneh, óc tò mò của Abdullah dâng cao. Anh ta lần mò đến trại binh nhìn vào bên trong. Trong khi anh ta nhìn, có bốn xe thùng containers chạy vào bên trong trại. Không bao lâu sau, các tù binh đến đây bằng xe pickup và xe tải Kamaz. Binh lính trong trại - người của Dostum, Abdullah nói, - ra tay trói những tù binh với chính khăn trùm đầu của họ.
Những người nào chậm chạp hoặc cố kháng cự đều bị đánh. Hầu hết các tù binh, theo Abdullah, cánh tay của họ đều bị trói và bị bịt mắt, nhưng cũng có người bị trói gô lại. Những tù binh phá rối liền bị nắm lấy tay và chân liệng vào bên trong thùng container thẳng cẳng. Khi những thùng container đã đầy, những thùng đều bị khóa lại. Abdullah không nghi ngờ những gì anh ta chứng kiến. Anh nói “Mục đích duy nhất là để giết những tù binh này,”
NHỮNG THÙNG CONTAINERS BỊ MẤT
Anh ta tự hỏi có ai để anh ta có thể báo động những việc chuẩn bị này, Abdullah nhớ lại có một người quen đang làm việc với lực lượng Mỹ đồn trú tại Mazar. Người này là Said Vasiqullah Sadat, người có mặt tại những thương thảo và làm việc với tư cách thông dịch viên cho người Mỹ. Abdullah nói rằng anh ta nói cho Vasiqullah những gì đang xảy ra, và anh ta nói Vasiqullah trả lời rằng: “Chúng ta sẽ hành động.” Ngày hôm sau, Abdullah nói, một nhóm người Mỹ đến Qala Zeini trên hai xe pickup màu bụi. Nhưng những thùng containers đã đi mất, và - Abdullah nói- Người Mỹ quay lui đi trở về lại Mazar.
Vasiqullah có vẻ thận trọng khi được hỏi về điều anh biết về những sự kiện này. Anh nói vào ngày thứ tư của cuộc đầu hàng tại Yerganak - ngày 28 tháng Mười Một - anh ta trở lại Mazar với vài chiếc xe chở đầy quân Mỹ. Một số binh linh này đồn trú tại hành dinh của Atta Mohammed tại Mazar. Vasiqullah xác nhận rằng gần sau đó anh ta có nghe việc tù nhân bị chuyển vào thùng containers tại Qala Zeini.Nhưng anh ta không xác nhận rằng anh ta nghe được từ nhân chứng tại Langar Khaneh. Anh ta cũng không xác nhận rằng anh ta đã báo tin cho người Mỹ mà anh ta đang làm việc cho họ. Anh ta nói “Người Mỹ lúc đó đang bị phân trí,” Vụ nổi loạn tại trại tù Qala Jangi ở Mazar-e-Sharif, trong đó một sĩ quan CIA bị thiệt mạng và người ta khám phá ra một tù bình Taliban người Mỹ tên John Walker Lindh - xảy ra ngày 25 tháng Mười Một. “Nhiều người đang lo liệu việc di chuyển thi hài của Mike Spann ra khỏi phi trường Mazar.” Vasiqullah nói, nhưng những thùng containers không thể nào nằm trong bí mật lâu được. Anh ta nói “Tôi nghĩ rằng người Mỹ sẽ tìm ra sớm. Họ có mặt tại trại tù Sheberghan từ lúc đầu.”
Vào lúc 11 giờ sáng ngày 29 tháng Mười Một, theo lời anh tài xế tên Mohammed, một đoàn xe 13 chiếc vận tải thùng hàng containers khởi hành đi khỏi Qala Zeini. Mỗi tài xế có một lính ngồi trong phòng lái với họ. Một tài xế mà chúng tôi đặt tên là Ghassan, người tài xế này tiếp nhận kiện hàng người này tại cây cầu cách Mazar-e-Sharif 13 dặm về hướng tây, cũng bắt đầu di chuyển vào thời gian này. Anh ta nhớ lại rằng vài người trong thùng container còn sống, và họ đập vào bên hông thùng. “Họ chỉ muốn có nước... Cứ tiếp tục lái”, anh ta bị ra lệnh như vậy.
Ðến khi xe đến trại tù Sheberghan, nhiều thùng containers đã hoàn toàn yên lặng. Mohammed là tài xế chiếc xe vận tải thứ nhì trong đoàn, nhưng anh ta ra khỏi phòng lái và đi về phía sân trại tù khi cửa thùng chiếc xe đầu mở toang. Trong số khoảng chừng 200 tù binh đã được đưa lên cách đây 24 giờ, nay không còn một ai sống sót. Mohammed nói “Họ mở cửa và xác chết tràn ra ngoài như cá hộp, tất cả quần áo họ đều tơi tả và ướt.”
Mohammed nói rằng tất cả 176 tù binh trên trong xe của anh ta đã thoát nạn vì anh ta đã cưỡng lệnh và đã đục lỗ bên cạnh thùng. (Lời khai này của anh đã được nhân chứng khác xác nhận.) Anh ta và những người khác cũng nói rằng không có người Mỹ nào hiện diện khi những xe tải trong đoàn mở cửa thùng containers.
$750 ÐÔ LA CHO MỘT LỖ KHÔNG KHÍ
Ngày hôm sau, 30 tháng Mười Một, một đoàn xe mới gồm bảy xe vận tải đến Sheberghan. Hôm sau đó, 1 tháng Mười Hai, thêm một đoàn bảy xe nữa đến.
NEWSWEEK đã truy lùng được những tài xế của hai đoàn xe kế tiếp này. Những điều họ nhớ được là hầu hết những thùng containers chứa đầy xác chết. Nhưng không phải tất cả. Những tù binh trong một chiếc xe tải trong những đoàn xe này đưa ra 45.000 rupees, tiền Pakistan (tương đương với $750 đô la) cho tài xế qua một khe hở trên sàn như một món hối lộ để được cắt một lỗ không khí và để được xịt nước vào qua khe hở bằng vòi nước. Tất cả 150 tù binh này thoát chết. Ít nhất trên một thùng container, các tù nhân đã mỡ được những lỗ hổng trên sàn gỗ, và tất cả đã thoát chết.
Abdul, một người Pashtun, 28 tuổi, một trong những người sống sót. NEWSWEEK phỏng vấn anh ta tại trại tù Sheberghan. Anh ta nhớ lại rằng thùng container của anh ta chất cứng đến gần kín nghẹt. Sau gần 24 giờ không có nước uống. Abdul nói rằng tù nhân đã quá tuyệt vọng vì khát nên họ bắt đầu phải liếm mồ hôi từ thân người khác. Nhiều người bắt đầu mê sảng và cắn những người chung quanh. Thùng container của Abdul là một thùng trong chuyến thứ ba đến Sheberghan: Anh ta nói, cho đến khi họ đến trại tù, chỉ còn có khoảng 20 đến 30 người sống sót.
Những tù nhân còn sống sót tại trại Sheberghan kể lại những câu chuyện giống như vậy. Một người 20 tuổi bị tống vào một thùng đầy nhóc. Sau tám tiếng đồng hồ, anh ta nghĩ, các tù nhân bắt đầu đá vào cạnh của thùng và la hét xin không khí và nước. Nhưng họ không được gì cả. Vài tù nhân dùng khăn đội đầu của họ lau mồ hôi người để uống. Sau thêm nhiều giờ, nhiều tù nhân bắt đầu bị mất trí, họ cắn ngón tay, tay và chân người khác. Bất cứ những gì để có thể có được hơi ẩm. Ðến khi đến được Sheberghan, người trẻ này nói rằng chỉ có 40 người trong container của anh ta còn sống.
ÐÓNG NHƯ SÚC VẬT
Ðối với nhiều người khác, thảm cảnh trong thùng container càng thêm bi thảm vì họ bị trói kè. Hình như đây là số phận của những tù nhân người Pakistan - và có lẽ cũng là số phận của những tù nhân không phải người A Phú hãn. Mahsood, 20 tuổi, nói rằng anh đầu hàng tại Konduz cùng với 1500 người Pakistan khác. Tất cả bị trói chân và tay hoặc bằng chính khăn đầu của họ hoặc bằng vải xé từ áo quần họ, anh ta nói. Sau đó tất cả bị đóng vào những thùng container “như súc vật”. Anh ta cho rằng có khoảng 100 người chết trong container của anh.
Những tài xế vẫn còn bị dày vò vì những việc họ đã dự phần vào. Một người hỏi “Tại sao không có người đại diện LHQ nào cả có mặt để chứng kiến những xác chết? Tại sao không làm được gì cả?” Một tài xế khác lắc đầu liên tục như không còn tự kiểm soát được khi anh ta nói chuyện với NEWSWEEK.
Những đoàn xe chở xác chết và những kẻ hấp hối, cùng với nhiều xe vận tải chở tùbinh còn sống, hình như đến Sheberghan trong 10 ngày. Những người tò mò đều bị đẩy lui. Hồng Thập Tự, biết được có tù binh đến từ Konduz, vào ngày 29 tháng Mười Một, đã xin phép vào Sheberghan. Vị chỉ huy của Dostum tại trại này hứa sẽ cho phép họ vào trong vòng 24 giờ. Thực ra, mãi đến ngày 10 tháng Mười Hai, Hồng Thập Tựi mới được vào Sheberghan. Ðến lúc đó, hầu hết các xác chết đã được chôn cất. (Phát ngôn nhân của Dostum phủ nhận việc giới chức trại tù đã không cho phép HTT vào trại).
Những nhân chứng ở gần nơi chôn xác chết đã chú ý đến những điều bất thường. Thôn Lab-e Jar chỉ cách nơi chôn người khoảng nửa dặm. Trong vài đêm trong khoảng nửa tháng đầu của tháng Mười Hai, lính của Dostum không cho phép dân làng rời khỏi nhà họ. Hầu hết dân làng nay quá sợï hãi không chịu nói chuyện. Một người nói “Ðã từ nhiều năm, xác chết vẫn được chôn. Các ông biết những gì xảy ra. Tôi biết những gì xảy ra. Nhưng sẽ không có gì làm thay đổi được nếu chúng tôi nói những chuyền này.” Tuy thế, NEWSWEEK cũng tìm được vài người đồng ý nói ra những gì họ thấy. Một người đàn ông 49 tuổi, nại rằng vào tuần đầu của tháng Mười Hai, lính của Dostum chận con đường đất chạy băng qua Dasht-e Leili trong mấy ngày. Ông nói “Không có xe cộ, không xe lừa, không cho cả khách bộ hành được phép đi xuống con đường này,” Ông ta nói chính ông ta thấy bốn hay năm xe chở thùng containers tại nơi chôn người. Khi các nhân viên điều tra của LHQ nói chuyện với dân chúng tại Lab-e Jar hồi tháng Năm, hai dân làng nói rằng họ thấy xe ủi đất làm việc tại đây, tại địa điểm này vào khoảng trung tuần tháng Mười Hai.
THẨM VẤN NHỮNG NGƯỜI SỐNG SÓT
Một vòng rộng lớn những tổ chức và những cá nhân biết, đại khái rằng, những gì đã xảy ra sau khi Konduz thất thủ. Hồng Thập Tự đã thẩm vấn những người sống sót và đã viết bản tường trình về vụ này; các giới chức cao cấp của Hồng Thập Tự tại hành dinh của họ ở Geneva đã gặp và thảo luận, không có kết quả, về những gì phải làm tiếp. Hai chuyên viên điều tra LHQ hiện diện khi Haglund đào một đường hố thử tại mồ chôn Dasht-e Leili. Sau khi phỏng vấn dân địa phương, họ cũng đúc kết một phúc trình. Hai cơ quan của LHQ, Phái Bộ Viện Trợ A Phú Hãn (Assistance Mission to Afghanistan) và Cao Ủy LHQ về Nhân Quyền (U.N. High Commissioner for Human Rights) vẫn còn suy ngẫm về những gì họ cần phải làm. Một viên chức Hồng Thập Tự tại A Phú Hãn nói, để giải thích tại sao anh ta ngần ngại thảo luận vụ này. Cho đến nay, quân đội Hoa Kỳ vẫn chưa thực hiện một cuộc điều tra toàn diện, và họ cũng chưa được hỏi để tham gia cùng với một hay nhiều cơ quan khác. Nguồn tin LHQ nói rằng những điều tra của họ cho thấy lực lượng Mỹ đã không có can dự gì. Trên phương diện công khai, Ngũ Giác Ðài đã cố giữ một khoảng cách. Hồi cuối tháng Giêng, giới chức Bộ Quốc Phòng được tổ chức PHR cho biết về những khám phá này, về những tin tức của một mồ chôn tập thể. Vào cuối tháng Hai, giới chức Ngũ Giác Ðài và Bộ Ngoại Giao được cung cấp báo cáo mật về tường trình đầu tiên do Haglund và các đồng sự của anh ta đúc kết. Tuy nhiên, Ngũ Giác Ðài phản ứng rằng Bộ Chỉ Huy Vùng Trung Ương đã cho điều tra và xác nhận rằng quân lính Hoa Kỳ đã không biết gì về những tàn sát này - và thật thế, Ngũ Giác Ðài không có lý do gì để tin rằng có những tàn sát như thế đã xảy ra. Hồi tháng Sáu, phát ngôn nhân Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Dave Lapan nói rằng Bộ Chỉ Huy Vùng Trung Ương đã thẩm vấn từng đơn vị tại A Phú Hãn “nhiều tháng trước”: “Bộ Chỉ Huy đã xem xét vụ này và không thấy có bằng chứùng nào về sự tham gia, hiểu biết hay sự hiện diện của lính Mỹ. “Người của chúng tôi không có mặt, không nhìn thấy và không biết gì những vụ này - nếu thật sự có vụ này xảy ra.- Một tuyên bố của Bộ Quốc Phòng một tuần lễ sau đó nhấn mạnh: “Không có quân Mỹ nào hiện diện ở những nơi nào gần địa điểm này hồi tháng Mười Một. Quân Mỹ có mặt khoảng thời gian tháng Mười Hai/tháng Giêng khi những nấm mồ tập thể được phát hiện.”
Nhưng điều đó có hoàn toàn đúng hay không? Ðơn vị Mỹ liên can trực tiếp đến là đội A-Team 595, một phần của Liên Ðoàn Năm Lực Lượng Ðặc Biệt có hành dinh tại Fort Campbell, Kentucky. Chỉ huy trưởng của toán 595, gồm mười hai người này, là Ðại Úy Mark D. Nutsch. Trong suốt chiến dịch tại A Phú Hãn, Ngũ Giác Ðài vẫn yêu cầu các phóng viên chỉ xác nhận danh tính các nhân viên LLÐB bằng tên gọi mà thôi, họ cho rằng việc này cần thiết để bảo vệ cho những gia đình các binh sĩ này ở nha,ø tránh sự trả thù của quân khủng bố. Nhưng Lục Quân đã cho phép miễn trừ điều cấm kỵ này hồi tháng Tư, khi Cơ Quan Lập Pháp tiểu bang Kansas thông qua một nghị quyết tại cả hai viện để vinh danh cho Ðại Úy Nutsch, phu nhân của ông là Amy và cháu gái sơ sinh Kaija, ra đời trong khi ông Nutsch tham chiến tại A Phú Hãn, cả giađình đã hiện diện trong một buổi lễ trước công chúng. Khi NEWSWEEK liên lạc với ông để hỏi về những cái chết trong thùng containers, Nutsch nói rằng ông ta không muốn bàn về chuyện này.
CÔNG TÁC CỦA 595
Những toán A-Team của LLÐB là những toán quân gây hãi hùng của cuộc hành quân Mỹ tại A Phú Hãn. Họ là những mối liên lạc tối cần giữa các dân quân thuộc Liên Minh Phương Bắc dưới đất và sức mạnh trên không của Hoa Kỳ. Mỗi toán A-Team trong chiến dịch tại A Phú Hãn được biệt phái ít nhất là một binh sĩ LLÐB Không Quân gọi là kiểm soát không phận tác chiến (Combat Air Controller - CAC). Chính những phi vụ oanh kích chính xác do những binh sĩ CAC này gọi và định hướng đã hủy diệt lực lượng Taliban. Mỗi toán A-Team được bổ nhiệm cho một chỉ huy địa phương, và công tác của 595 là làm việc với Tướng Dostum.
Vai trò của toán 595 trong cuộc chiến tại A Phú Hãn biến họ trở thành những huyền thoại dưới mắt công chúng. Họ được chở đến A Phú Hãn bằng trực thăng như những toán khác, bằng trực thăng của LLÐB, họ gặp Tướng Dostum ngày 19 tháng Mười tại hành dinh của ông này ở Darra-e Suf trên vùng pháo lũy núi non phía nam của thành phố Mazar-e Sharif. Chính đơn vị 595 này nổi tiếng vì những hình ảnh tham chiến lúc đó trong khi phi ngựa; Chính những mẫu báo cáo vụn vặt của Nutsch đã được Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld phấn khởi đọc cho báo chí nghe trong những buổi thuyết trình tại Ngũ Giác Ðài. Nhờ có sức mạnh không tập do Mỹ làm sống dậy, và nhờ vào những tiền bạc do các sĩ quan CIA Mỹ phân phát hậu hĩ cho các dân quân địa phương - Dostum và các chỉ huy khác của Liên Minh Phương Bắc đã càn quét tiến về phía bắc ra khỏi vùng núi non. Cao điểm của chiến dịch ngắn ngủi này bắt đầu vào ngày 4 tháng Mười Một, khi Liên Minh mở cuộc tấn công gọng kềm ba chiều đánh vào thành phố quan trọng miền bắc, Mazar-e Sharif, cuộc tấn công được ít nhất là hai toán A-Team của LLÐB điều động và phối hợp.
Các thành viên của toán 595 đã có mặt với Dostum tại những cuộc thương thuyết đầu hàng, và sau đó một lần nữa tại địa điểm đầu hàng Yerganak. Hậu quả là họ không có mặt bên cạnh sĩ quan CIA Mike Spann và Dave Tyson khi hai người này đi đến trại tù Qala Jangi để hỏi cung nhóm đầu tiên những tù binh thứ dữ của Taliban và al-Qaeda mới được đưa đến đây sau một vụ vượt ngục không thành taị Konduz. Chỉ huy trưởng của toán 595, Nutsch, cảm thấy cay đắng về cái chết của Spann. Ông ta nói với Robert Young Pelton, một phóng viên CNN và tap chí National Geographic Adventure rằng “Ðây là một người chúng tôi xem như một phần của toán chúng tôi, nếu chúng tôi có mặt tại đó, đã không xảy ra cái chết của Mike.”
Qua ba ngày khi đoàn xe tử thần thứ nhất đến Sheberghan, quân lính LLÐB đã có mặt trong vùng. Ngoài ra còn có một toán tình báo riêng biệt gồm bốán người mang quân trang chiến đấu đầy đủ, có mặt tại trại tù để làm cuộc thanh lọc những nghi can al-Qaeda hầu hỏi cung thêm. Theo Pelton, một phóng viên tự do phiêu lưu mạo hiển, chuyên viết về những nơi chốn hiểm nguy, thì các binh sĩ LLÐB lúc đó có quan tâm chính là về tình trạng an ninh của trại tù. Cùng lúc đo,ù những thùng container chở xác chết cũng đả đến nơi, nhiều chuyến xe tải chở tù binh còn sống cũng đến nơi: Vào đêm 1 tháng Mười Hai, thí dụ, một thùng container đến với 86 người sống sót từ Qala Jangi. Trong số này có John Walker Lindh. Chính người y tá của toán 595 tên Bill, đã điều trị cho Lindh đầu tiên. Pelton lúc đó và ngay lúc này cũng tin rằng con số tử vong từ những thùng container là vào khoảng “hơn 40” và là những người chết vì những thương tích bị thương trong trận bao vây Konduz. Pelton nói rằng “Khi tôi có mặt với toán 595, chúng tôi đã lặp đi lặp lại những sự việc xảy ra. Những gì xảy ra là đại loại những người này chết vì những vết thương.” Một viên chức cao cấp Bộ Quốc Phòng nói với NEWSWEEK về bối cảnh chuyện này rằng họ đã yêu cầu chỉ huy trưởng của Liên Ðoàn Năm LLÐB hãy cho điều tra về vụ những cái chết trong thùng containers. Vị chỉ huy, Ðại Tá John Mulholland tường trình rằng toán A-Team biết rằng có một số, có lẽ là con số còn lớn hơn, những tù binh Taliban đã chết trong cuộc hành trình đến Sheberghan. Nhưng LLÐB tin rằng những cái chết là do vết thương hoặc bệnh trật. NEWSWEEK đã đưa lời khai này đến Ðại Tá Mulholland, qua sĩ quan giao tế của Bộ Chỉ Huy Hành Quân Ðặc Biệt, nhưng cho đến lúc bài này được đưa lên khuôn, NEWSWEEK vẫn chưa nhận được hồi âm.
TÌNH TRẠNG ÐAU KHỔ KHÓ XỬ
Ðối với Hồng Thập tự, việc giết chóc tại Sheberghan đã gây nên một tình trạng đau khổ rất khó xử. Tổ chức này hoạt động dưới mắt kiểm soát của công luận - đây là một đặc quyền cho phép họ được ra vào những nơi mà không có ai khác được phép đến, và cho phép họ cung cấp cứu trợ cho những người trong những hoàn cảnh khó khăn nhất - đã làm cho giới chức HTT e dè không thể công bố những gì họ nghe được. Aziz ur Rahman Razekh của tổ chức Nhân Quyền A Phú Hãn nói rằng “Hơn hai tháng trước, chúng tôi đã liên hệ với hội HTT để họ điều tra vụ này, nhưng họ không có vẻ quan tậm. Chúng tôi đã được tiếp đãi lạnh nhạt.”
Thật thế, Hồng Thập Tự ngay từ đầu đã quan tâm về số phận tù binh đưa đến Sheberghan. Cuộc đầu hàng của quân Taliban tại những thị trấn miền bắc là một tiến trình kéo dài; và những đoàn tù binh từ Konduz - bị bắt bên ngoài vòng đai tỉnh này - bắt đầu đến Sheberghan hôm 22 - 23 tháng Mười Một. Văn phòng HTT tại Mazar- e Sharif biết được những chuyến xe đến nơi này; và vào ngày 29 tháng Mười Một, một nhóm nho ûtìm cách đi vào trại Sheberghan. Họ không được phép vào. Sau này khi được hỏi về việc này, giới chức HTT nói rằng “Giới cầm quyền không muốn chúng tôi đền đấy.” (Phát ngôn nhân của Dostum phủ nhận điều mà họ cho là giời chức trại tù không cho HTT vào.)
Mãi cho đến ngày 10 tháng Mười Hai, HTT mới có cơ hội thuyết phuc để vào đươc trại Sheberghan hầu phỏng vấn các tù binh mới. Khi NEWSWEEK đến gặp giới chức HTT lần đầu để hỏi về việc đối xử với tù binh từ Konduz, câu trả lời lập tức của ông ta là "Tôi không thể nói chuyện về những thùng containers". Khi ông được cho biết những câu chuyện do các tù binh tại Sheberghan nói với NEWSWEEK, ông ta trả lời với nhiều đau khổ: “Nếu quý vị nghe những câu chuyện về những thùng containers bây giờ, quý vị nghĩ gì khi chúng tôi nghe chuyện này vào lúc đó.”
Dường như bị giằng co giữa sỉ nhục trắng trợn và những thông lệ bí mật, Hồng Thập Tự có thể đã cố tìm cách gây sự chú ý đến Sheberghan một cách gián tiếp. Vào trung tuần tháng Giêng, John Heffernan và Jennifer Leaning của tổ chức PHR tình cờ gặp hai viên chức HTT tại Kabul - một người là giới chức cao cấp tại hành dinh HTT tại Geneva. Viên chức từ Geneva nói với họ rằng Hồng Thập Tự đã “rất quan tâm” về việc đối xử tù binh do quân Hoa Kỳ và đồng minh của họ; và bà ta thúc giục hai người này rằng đây là đề tài “đáng được triển khai”. Ðó là lý do tại sao hai nhân viên của tổ chức PHR - chán nản vì không có phản ứng của Hoa Thịnh Ðốn cũng như Kabul về những cuộc thuyết trình riêng biệt của họ về những phát hiện của Haglund tại Dasht-e Leili - đã cho phổ biến một báo cáo mô tả những khám phá này. Hồng Thập Tư cũng hòa âm theo, trưng cho các phóng viên - từ văn phòng HTT tại Kandaher - một nhân chứng sống sót từ một trong những thùng containers: Sardar Mohammed, 23 tuổi, quê quán tại Kandahar. Mohammed kể lại rằng họ đã bị nhét 150 người vào mỗi thùng container. Và anh ta khai rằng anh và các bạn đồng tù sống sót đã đếm được con số hơn 1000 người đã không thoát được cơn kinh hoàng này.
Thật không dễ gì cho người Mỹ có được sự thương cảm đối với tù binh Taliban hay al - Qaeda. Nhưng luật lệ chiến tranh không thể chỉ áp dụng một cách có chọn lựa. Không thể có biện minh luân lý nào cho sự đau khổ và tàn phá của chiến tranh nếu không phải là để bảo vệ cho luật lệ. Thật rất khó giữ lằn ranh này, ngay cả trong một cuộc chiến quy ước. Trong một cuộc chiến dùng người khác đánh thế, điều này càng khó khăn hơn nữa. Những cái chết tại Dasht-e Leili là bắng chứng cho điều này.
Lê bước chậm chạp qua vùng đất cằn như trên mặt trăng tại Dasht-e Leili, một vùng hoang vắng của những dãy đồi thấp tại miền bắc A Phú Hãn, Bill Haglund phát hiện ra những manh mối vùi lấp trên mặt cát vàng xám. Những chuỗi hột cầu nguyện. Một cái mũ nỉ. Một vài đôi giày. Tất cả những tang vật này, cùng với vết cào và vệt bánh xe ủi đất, cho thấy rằng Haglund đã tìm thấy những gì anh ta đang đi tìm. Và rồi anh ta tìm thấy một mẫu xương ống chân người, ba bộ xương chậu và vài mảnh xương sườn.
Những mồ chôn tập thể không phải bao giờ cũng dễ tìm, tuy nhiên những chuyên viên điều tra được huấn luyện đầy đủ đều biết về những dấu hiệu. Haglund, một nhà khảo cổ hình sự và người tiền phong trong lĩnh vực nghiên cứu khảo cổ về nhân quyền, nói rằng “Bạn tìm những nơi mặt đất bị đụng chạm, sự khác biệt của những loại cây cỏ, những vùng mà máy móc đã được dùng tới” . Tại Dasht-e Leili, khoảng 15 phút lái xe từ trại tù Sheberghan của Liên Minh Phương Bắc, những súc vật đào xới thịt người đã đem những tang chứng này lên mặt đất. Vài mãnh xương đã bị gặm mòn đã cũ và phai màu, nhưng có vài khúc xương rời ra từ những xác chết mới được chôn gần đây nên những xương còn dính thịt người. Vùng đất có dấu tích xe ủi đất làm việc này rộng khoảng một mẫu, cho thấy đây là những mồ chôn tập thể rất lớn. Một chiếc găng tay cao su loại dùng trong phòng mổ đã khiến Haglund chú ý, và đây có thể là bằng chứng, Haglund nghĩ rằng ít nhất đã “có một sự dàn xếp nhỏ nhoi” nào đó.
Haglund đến Sadht-e Leili không phải chỉ vì có linh tính. Hồi tháng Giêng, hai chuyên viên điều tra thuộc tổ chức Y Sĩ Cho Nhân Quyền (PHR), bản doanh từ Boston, đã phải lớn tiếng cãi mới vào được trại tù Sheberghan gần đây. Những gì họ chứng kiến đã làm cho họ hoảng hốt. Hơn 3000 tù binh Taliban - đầu hàng với quân Liên Minh Phương Bắc lúc thị trấn Konduz thất thủ hồi cuối tháng Mười Một - đã bị nhốt chật cứng vào một nơi giam giữ chỉ đủ cho 800 người, đói và bệnh hoạn. Viên chỉ huy Liên Minh Phương Bắc của trại tù thú nhận về tình trạng tồi tệ này, nhưng bào chữa rằng ông ta không có tiền. Ông năn nỉ tổ chức PHR hãy gởi thực phẩm và tiếp liệu cho trại, và yêu cầu LHQ hãy giúp đào một cái giếng để các tù binh có được nước sạch để uống.
NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ MỒ CHÔN TẬP THỂ
Nhưng những câu chuyện kinh hoàng ghê gớm hơn là chính từ các tù nhân thuật lại. Cho dù tình tạng của họ có khốn khổ bao nhiêu, họ vẫn là những kẻ may mắn. Họ đã sống sót. Hằng trăm các đồng chí của họ, theo lời họ, đã bị giết chết trong hành trình từ Konduz đến Sheberghan, bằng cách bị đẩy nhốt vào những thùng kiện hàng hóa containers, bị khóa chặt để cho ngạt thở. Nhân viên cứu tế địa phương và giới chức A Phú Hãn lặng lẽ xác nhận rằng họ đã nghe nói về những chuyện này. Họ cũng xác nhận rằng có những tường trình liên tục về việc thủ tiêu những thi hài tại những mồ chôn tập thể tại Dasht-e Leili.
Ðến lúc đó, Haglund, một chuyên viên từng điều tra những vụ tương tự tại Rwanda, Sri Lanka, bán đảo Balkans và những địa điểm của những cuộc tàn sát khác, được gọi đến. Ðứng trên bìa nơi mà ông ta thấy dấu vết bánh xe ủi đất là bờ của một nơi chôn người, anh ta đào xới một rãnh dài và cạn, vào trong lòng cát. Rồi anh ta đưa mũi ngửi. Mùi cay xè bốc lên không còn lầm lẫn vào đâu được nữa. Haglund và các nhân công địa phương sau đó đào sâu xuống, khoảng năm bộ, họ tìm thấy một lớp thây người đang bị tan rửa, nắm sát cạnh nhau theo một hàng. Họ đào thử một đường hào dài khoảng sáu thước và trong đó - một khoảng cách ngắn đã tìm ra 15 xác chết. Haglund hồi tưởng lại rằng “đây là những xác tương đối còn mới: nhiều thây còn thịt dính trên xương, những thây người ít có quần áo, điều này phù hợp với những báo cáo rằng [trước khi họ chết] họ đã ở một nơi rất nóng.” Một vài xác tay còn bị trói. Haglund đào lên ba xác người, và một đồng sự của anh làm giảo nghiệm tử thi trong một căn lều bên cạnh. Những nạn nhân đều là thanh niên, và xác của họ không thấy có một chấn thương rõ ràng nào - không có vết thương vì đạn, không có dấu vết bị đánh đập bằng vật cứng. Haglund nói rằng, điều này cũng phù hợp với những câu chuyện những người sống sót khai rằng họ chết vì ngạt thở.
Có bao nhiêu người bị chôn tại Dasht-e Leili? Haglund không muốn dự đoán. “ Ðiều duy nhất chúng tôi biết là: đây là một nấm mồ tập thể rất lớn,” theo một viên chức LHQ thân cận với cuộc điều tra, và rằng số tử thi nằm “chất chồng nhiều tại địa điểm khai quật thử”. Những nguồn tin khác điều tra cuộc thảm sát đã không tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi có thể tin tưởng mà nói rằng hơn một ngàn người đã chết trong những thùng hàng hóa containers,” Aziz ur Rahman Razekh, giám đốc tổ chức Nhân Quyền A Phú Hãn nói. Những cuộc thẩm vấn sâu rộng do NEWSWEEK thực hiện với các tù nhân, những người tài xế xe tãi, dân quân A Pú Hãn và dân chúng địa phương - kể cả những cuộc phỏng vấn những người sống sót nhờ họ đã liếm và nhai da của người khác để sống còn - cũng cho thấy rằng hàng trăm người đã chết.
Cái chết tại Dasht-e Leili, và cách thức hành quyết họ một cách ghê gớm - là một trong những bí mật dơ bẩn của cuộc chiến tranh A Phú Hãn. Màn này không những chỉ là một vụ tàn sát khác tại một vùng đất đã từng chứng kiến rất nhiều câu chuyện như thế này. Cuộc tàn sát cho thấy những vấn đề mà Mỹsẽ phải đối đầu nếu họ còn muốn tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh dùng tay kẻ khác đánh, như Hoa Kỳ đã thực hiện tại A Phú Hãn, sử dụng những đơn vị nhỏ của Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ gọi sức mạnh không tập để hỗ trợ cho quân địa phương trên mặt đất. Ðây cũng nêu lên những câu hỏi về trách nhiệm của người Mỹ về hành vi của các đồng minh của mình, những kẻ không muốn thi hành những quyền được bảo vệ do Công Ước Geneva đảm bảo. Lợi thế của việc tham chiến trong cuộc chiến theo kiểu dùng người khác đánh tại A Phú Hãn là chiến thắng với ít máu người Mỹ phải đổ ra, Tổn thất, theo như cuộc điều tra của NEWSWEEK đưa ra, là lực lượng Mỹ làm việc với “những đồng minh” vi phạm những điều có thể gọi là tội ác chiến tranh.
NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ SAI LẠC
Không có điều gì do NEWSWEEK tìm thấy có thể cho rằng lực lượng Mỹ biết trước được những vụ thảm sát, chứng kiến việc các tù nhân bị chất vào trong nhữngxe tãi containers bít bùng không có không khí hay đứng ở vị thế để có thể ngăn ngừa được việc này. Họ có mặt tại trại giam lúc những thùng containers được chở đến, mặc dầu có thể họ không có mặt lúc những thùng này được mở ra. Nhóm nhỏ binh sĩ lực lượng đặc biệt lúc bấy giờ đang chú tâm về vấn đề an ninh trại tù và ngăn ngừa một vụ nổi loạn như vụ đổ máu tại trại tù Qala Jangi. Các binh sĩ Mỹ chắc chắn đã nghe thuật lại những câu chuyện chết chóc trong những thùng containers, nhưng có thể họ nghĩ rằng những chuyện này đã được thổi phồng quá đáng. Cũng có thể họ tin rằng những xác chết là những tổn thất chiến tranh, hoặïc là những binh sĩ bị thương, trong số hàng ngàn quân khác của họ, đã không sống sót được qua cuộc hành trình gian khổ từ địa điểm họ đầu hàng đi đến trại giam. Nhưng cũng có sự thật rằng các phát ngôn nhân Ngũ Giác Ðài đã hoang mang khi bị hỏi về vấn đề này. Các giới chức trong nội các đã không trả lời những lời yêu cầu nhiều lần của NEWSWEEK về một tổng kê chi tiết những hoạt động của Hoa Kỳ tại những vùng Konduz, Mazar-e-Sharif và Sheberghan trong thời gian xảy ra nội vụ, và những phát ngôn nhân quốc phòng đã cho ra những công bố sai lầm. Những câu hỏi tương tự cũng có thể được nêu lên cho các cơ quan quốc tế. LHQ đã thực tâm đến mức nào khi họ điều tra những gì đã xảy ra tại Sheberghan? Những báo cáo về tàn sát đưa ra lúc cộng đồng quốc tế đang hết sức cố gắng mang lại sự ổn định cho A Phú Hãn. Những giới chức thực tâm có thể tự hỏi rằng nếu có một cuộc điều tra tận gốc có thể đưa đến một loạt những tàn sát mới tại A Phú hãn. Như vậy việc này có đáng làm không? Một văn thư mật của LHQ, một phần được tiết lộ cho NEWSWEEK, nói rằng những khám phá do cuộc điều tra về những nấm mồ tại Dasht - e Leili là “đủ để biện minh cho một cuộc điều tra về hình sự.” Văn thư nói rằng dựa trên những “tin tức thu lượm được”, địa điểm naỳ “gồm những xác tù binh Taliban chết vì bị ngạt trong khi di chuyển từ Konduz đến Sheberghan.” Một nhân chứng tường thuật trong một báo cáo rằng con số tử thương lên đến 960 người. Dầu vậy bản báo cáo cũng nêu lên những câu hỏi khẩn cấp. “Xét vì sự nhạy cảm của trường hợp này và những việc bảo vệ liên hệ, cần phải đề nghị mạnh mẽ rằng tất cả những hoạt động liên hệ đến vụ này cần phải ngưng tức khắc cho đến khi có một quyết định liên hệ đến mục tiêu tối hậu cho công tác này: một phiên xử hình sự, một ủy hội tìm sự thật, v.v.”
Vị tư lệnh lực lượng bị tình nghi đã thực hiện những vụ tàn sát này là Tướng Abdul Rashid Dostum, một trong những lãnh binh khát máu và hữu hiệu nhất của A Phú Hãn. Phát ngôn nhân của ông Dostum, Faizullah Zaki nói với NEWSWEEK rằng nhiều người đã chết vì ngạt thở. Nhưng ông này cho rằng con số chỉ vào khoảng “từ 100 đến 120 người”, mỗi thùng container có một ít người”, và nói rằng một số “đã bị trọng thương và chết trên đường di chuyển”. Ông này cho rằng vụ nổi loạn tại Qala Jangi xảy ra chỉ ba ngày trước đó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến việc đối xử như thế. “Nếu sự việc tại Qala Jangi không xảy ra, chắc rằng việc di chuyển tù nhân có thể đãtrật tự hơn, Và có lẽ đã có ít sự cố xảy ra,” theo lời ông này nói thêm rằng: “Họ bị ngạt, chết, chứ không phải bị giết. Không có ai giết ai cả.” Zaki cũng nói rằng Tướng Dostum không có mặt tại chỗ khi các tù nhân bị nhét vào những thùng hàng. “Những chi tiết kỹ thuật về việc chuyển tù đã được giao phó cho các cấp dưới,” Ông nói thêm rằng “Có một số binh sĩ Mỹ vẫn kề cận sát bên cạnh ông Dostum” suốt trong thời gian đang được điều tra.
LIÊN HỆ CỦA HOA KỲ
Quan hệ mật thiết của quân Mỹ với Tướng Dostum chỉ có thể làm cho cuộc điều tra thêm phần tế nhị. Jennifer Leaning, giáo sư tại Ðại Học Y Tế Công Cộng Harvard và là một trong hai bác sĩ điều tra của tổ chức Y Sĩ Cho Nhân Quyền (Physicians for Human Rights), những người đã cố xông vào cho được trại tù Sheberghan, nói rằng “Một vấn đề không ai muốn bàn tới là sự liên hệ của các lực lượng Hoa Kỳ. Quân Mỹ có mặt tại đây lúc xảy ra nội vụ. Binh sĩ Mỹ đã biết những gì, lúc nào và nơi nào, và họ đã làm những gì về vụ này?”
Các lực lượng Taliban và al-Qaeda tại Konduz đầu hàng trong một thỏa hiệp cần tới hai ngày mới đạt được. Theo Shams-ul-Haq (Shamuk) Naseri, một chỉ huy trung cấp của Liên Minh Phương Bắc hiện diện, cuộc thương thuyết diễn ra dưới sự chứng kiến của ba sĩ quan tình báo Mỹ và một tá binh lính Lực Lượng Ðặc Biệt. Các chỉ huy Liên Minh Phương Bắc, kể cả Tướng Dostum, đồng ý cho những điều kiện tương đối rộng lượng: Binh lính A Phú Hãn sẽ được thả cho về nhà về làng họ. Hầu hết binh sĩ người Pakistan cũng có thể được cho về nhà sau khi người Mỹ chọn lựa những nghi can hoạt động cho al-Qaeda. Người Ả Rập và các binh lính có quốc tịch khác sẽ được chuyển giao cho LHQ hay một tổ chức quốc tế khác, theo lời Vasiqullah Sadat, đại diện của Taliban nằng nặc đòi rằng người của họ phải ra hàng với Tướng Dostum, bởi vì họ nghĩ rằng ông ta sẽ là người không trả thù cho những vụ giết chóc từ trước. Cuộc đầu hàng sẽ chính thức bắt đầu vào hôm Chủ Nhật, 25 tháng Mười Một - để cho các lãnh tụ Taliban có thì giờ thông báo thỏa hiệp này cho quân lính của họ tại Konduz.
Một ngày sau khi cuộc thương thuyết chấm dứt, khoảng 400 binh lính cố mở mũi dùi trốn thoát về hướng tây. Nhưng đại đa số những binh lính bị kẹt tại Konduz đã đầu hàng, theo lời Naseri, “giống như những con cừu”. “Một tên ra hàng và tất cả ra theo.” Ðịa điểm được thỏa thuận cho cuộc đầu hàng là Yerganak, một điểm trên sa mạc về hướng tây của Konduz khoảng năm dặm. Hầu hết những chỉ huy cao cấp của Taliban và al-Qaeda đã ngồi trên xe chạy ra và những xe cộ của họ lập tức bị Liên Minh Phương Bắc tịch thu. Số binh sĩ còn lại đi bộ ra. Có bốn địa điểm kiểm soát được lập ra tại Yerganak để giải giới các tù nhân và đưa họ lên bất cứ xe cộ nào có được lúc bấy giờ: Xe pickup, vận tãi, xe chở lính hiệu Kamaz của Nga không có trần, ngay cả những xe có thùng hàng containers. Nhưng những con số tuôn ra từ Konduz quá đông đảo làm ngập tràn các cơ sở, và hầu hết những người đầu hàng phải đợi đến ba bốn ngày trên sa mạc.
SỨC MẠNH ÐÁNG KỂ
Dostum và một chỉ huy khác của Liên Minh Phương Bắc, Atta Mohammed, có mặt tại Yerganak để theo dõi việc đầu hàng. Cũng như hàng chục lính Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ, theo những người Mỹ và A Phú Hãn có mặt cho biết. Vài nhóm LLÐB di chuyển quanh vùng này bằng những xe gắn máy bốn bánh; Dostum được quay phim chụp hình lúc đó đang thưởng thức cho đi một vòng trên xe này. Người Mỹ cung cấp hầu hết thực phẩm và nước uống cho số tù nhân đang chờ đợi. Nhưng họ có mặt với chủ đích chính là dương oai, cung ứng một sức mạnh đáng kể, một thông diệp được củng cố bằng những oanh tạc cơ Mỹ lúc đó đang bay quần trên không.
Ðúng vào thời điểm này, quân lính từ hàng ngũ dân quân của Dostum đến một địa điểm tập trung những thùng containers bên ngoài ngoại vi Mazar-e-Sharif, khoảng 100 dặm về hướng tây, và họ tuyển được một tài xế mà chúng tôi đặt tên là Mohammed, một người mang râu quai nón vào khoảng tứ tuần. (NEWSWEEK đã thay đổi tên họ của vài nhân chứng trong tường trình này để giảm thiểu cơ hội họ bị trả thù.) Mohammed được cho biết xe chở thùng container của anh ta cần đến để chở binh lính Taliban bị giữ đến trại tù Sheberghan. Anh ta sẽ đón họ vào tối hôm đó tại trại binh cũ Qala Zeini, nằm trên đường giữa Mazar-e-Sharif và Sheberghan. Con đường thựïc sự là cắt qua trại binh này: Một cổng vào và một cổng ra.
Mohammed đến Qala Zeini khoảng 7 giờ đêm hôm đó. Ðã có vài xe chở thùng container đang đợi bên trong trại binh. Vào khoảng 150 binh lính, tất cả là người A Phú Hãn. Vào khoảng 9 giờ, tù binh -pha trộn giữa người Pakistan, A Phú Hãn, Ả Rập và Chechen, đến đây từ Yerganak trên những xe không mui và xe pickup. Binh lính ra lệnh các tù nhân xuống khỏi xe vận tãi, và họ bị lột hết những khăn đội đầu, mũ và áo vét. Sau đó họ bị lùa vào trong những thùng containers, khoảng 200 người trên mỗi xe tãi. Những tay súng này đột nhiên biết rằng họ không phải được cho về nhà như đã hứa. Một tài xế thuật lại rằng các tù binh gào lên “Ð.M. Shamuk Naseri, Hắn đã phản chúng ta.” Những cánh cửa thùng hàng bị đóng lại sau đó.
Những tù nhân có thể đã biết số phận của họ. “Chết vì thùng containers”: đã từng là một phương tiện giết người tập thể một cách rẻ tiền của cả hai phe Taliban và Liên Minh Phương Bắc đã sử dụng ít nhất từõ 5 năm nay. Những thùng hàng containers phế thải - có thước tất tiêu chuẩn quốc tế với ba chiều đo được là 40 bộ nhân 8 bộ nhân 8 bộ - nhan nhản khắp trên những con đường tại A Phú Hãn, rỉ sét, nhắc lại những tấn hàng hóa đổ dồn vào nước này trên 40 năm qua. Tương truyền rằng có một viên tướng độc ác người Uzbek tên là Malik Pahlawan là người đầu tiên nghĩ ra tiềm năng của thùng hàng containers như một máy giết người, hồi năm 1997. Sau khi một trận tấn công của Taliban bị đẩy lui, Pahlawan - theo những tường trình của LHQ sau đó - đã giết 1250 quân Taliban bằng cách bỏ họ trong những thùng containers dưới ánh nắng thiêu đốt của sa mạc. Khi mở những thùng này ra, người ta thấy những tù binh đã bị nướng cháy đen. Khi phe Taliban chiếm được Mazar-e-Sharif vào năm 1998, đến lượt họ lại giết chết hàng trăm kẻ thù bằng cách tương tự.
"CHÚNG TÔI SẮP CHẾT, XIN CHO CHÚT NƯỚC"
Trong trường hợp tù binh Taliban tại Konduz, nhiệt độ trong tháng Mười Một không đến nổi nóng đủ để thiêu rụi họ. Nhưng sau vài giờ, họ bắt đầu đánh vào bên hông những thùng container đông kín. Vài người la hét “Chúng tôi sắp chết. Cho chúng tôi nước!” Mohammed dùng một cái búa đục lỗ trên thùng container của anh ta, cho đến khi lính của Dostum nghe tiếng đập và giận dữ hỏi anh ta đang làm gì. Mohammed nói rằng anh ta đang che kín những lỗ hổng để không cho tù nhân trốn thoát.
Sau khi lính đã đi khỏi, một trong những tù binh ghé mặt gần vào một trong những lỗ hổng. Anh ta hỏi “Anh có phải người Hồi Giáo không?” Mohammed trả lời “Vâng”, “Hãy nhìn lưỡi tôi này”, người tù binh nói và thò lưỡi ra. Lưỡi anh ta bị nứt vì thiếu nước. Mohammed đổ đầy nước vào một chai Fanta hai lít và đưa vào bên trong qua lỗ hổng. Anh ta cũng đưa vào mười miếng bánh mì, tất cả lương thực anh có được. Người tù binh nói “Cảm tạ Thượng Ðế Allah, nhờ anh là người Hồi Giáo,”
Một vài tài xế khác mà NEWSWEEK tìm ra tung tích cũng đã cho biết họ cũng đã cố giúp. Một người mô tả cách thức anh ta đục lỗ trên thùng container để cố mang nước cho các tù binh. Nhưng lính của Dostum phát hiện được anh ta, năm người đã đánh anh ta trí mạng bắng báng súng. Chính Mohammed chứng kiến vụ hành hung và suốt đêm đó anh ta nằm bên trong buồng lái khóa chặt cửa lại.
Có một vài người đã chứng kiến cảnh tượng tương tự tại Qala Zeini và đã cố gởi lời báo động. Tháng Mười Hai, Abdullah có mặt tại khu định cư Langar Khaneh, gần với trại binh Qala Zeini. Khi cửa trại Qala Zeini đóng trong một ngày rưỡi, và lưu thông được chuyến hướng qua Langar Khaneh, óc tò mò của Abdullah dâng cao. Anh ta lần mò đến trại binh nhìn vào bên trong. Trong khi anh ta nhìn, có bốn xe thùng containers chạy vào bên trong trại. Không bao lâu sau, các tù binh đến đây bằng xe pickup và xe tải Kamaz. Binh lính trong trại - người của Dostum, Abdullah nói, - ra tay trói những tù binh với chính khăn trùm đầu của họ.
Những người nào chậm chạp hoặc cố kháng cự đều bị đánh. Hầu hết các tù binh, theo Abdullah, cánh tay của họ đều bị trói và bị bịt mắt, nhưng cũng có người bị trói gô lại. Những tù binh phá rối liền bị nắm lấy tay và chân liệng vào bên trong thùng container thẳng cẳng. Khi những thùng container đã đầy, những thùng đều bị khóa lại. Abdullah không nghi ngờ những gì anh ta chứng kiến. Anh nói “Mục đích duy nhất là để giết những tù binh này,”
NHỮNG THÙNG CONTAINERS BỊ MẤT
Anh ta tự hỏi có ai để anh ta có thể báo động những việc chuẩn bị này, Abdullah nhớ lại có một người quen đang làm việc với lực lượng Mỹ đồn trú tại Mazar. Người này là Said Vasiqullah Sadat, người có mặt tại những thương thảo và làm việc với tư cách thông dịch viên cho người Mỹ. Abdullah nói rằng anh ta nói cho Vasiqullah những gì đang xảy ra, và anh ta nói Vasiqullah trả lời rằng: “Chúng ta sẽ hành động.” Ngày hôm sau, Abdullah nói, một nhóm người Mỹ đến Qala Zeini trên hai xe pickup màu bụi. Nhưng những thùng containers đã đi mất, và - Abdullah nói- Người Mỹ quay lui đi trở về lại Mazar.
Vasiqullah có vẻ thận trọng khi được hỏi về điều anh biết về những sự kiện này. Anh nói vào ngày thứ tư của cuộc đầu hàng tại Yerganak - ngày 28 tháng Mười Một - anh ta trở lại Mazar với vài chiếc xe chở đầy quân Mỹ. Một số binh linh này đồn trú tại hành dinh của Atta Mohammed tại Mazar. Vasiqullah xác nhận rằng gần sau đó anh ta có nghe việc tù nhân bị chuyển vào thùng containers tại Qala Zeini.Nhưng anh ta không xác nhận rằng anh ta nghe được từ nhân chứng tại Langar Khaneh. Anh ta cũng không xác nhận rằng anh ta đã báo tin cho người Mỹ mà anh ta đang làm việc cho họ. Anh ta nói “Người Mỹ lúc đó đang bị phân trí,” Vụ nổi loạn tại trại tù Qala Jangi ở Mazar-e-Sharif, trong đó một sĩ quan CIA bị thiệt mạng và người ta khám phá ra một tù bình Taliban người Mỹ tên John Walker Lindh - xảy ra ngày 25 tháng Mười Một. “Nhiều người đang lo liệu việc di chuyển thi hài của Mike Spann ra khỏi phi trường Mazar.” Vasiqullah nói, nhưng những thùng containers không thể nào nằm trong bí mật lâu được. Anh ta nói “Tôi nghĩ rằng người Mỹ sẽ tìm ra sớm. Họ có mặt tại trại tù Sheberghan từ lúc đầu.”
Vào lúc 11 giờ sáng ngày 29 tháng Mười Một, theo lời anh tài xế tên Mohammed, một đoàn xe 13 chiếc vận tải thùng hàng containers khởi hành đi khỏi Qala Zeini. Mỗi tài xế có một lính ngồi trong phòng lái với họ. Một tài xế mà chúng tôi đặt tên là Ghassan, người tài xế này tiếp nhận kiện hàng người này tại cây cầu cách Mazar-e-Sharif 13 dặm về hướng tây, cũng bắt đầu di chuyển vào thời gian này. Anh ta nhớ lại rằng vài người trong thùng container còn sống, và họ đập vào bên hông thùng. “Họ chỉ muốn có nước... Cứ tiếp tục lái”, anh ta bị ra lệnh như vậy.
Ðến khi xe đến trại tù Sheberghan, nhiều thùng containers đã hoàn toàn yên lặng. Mohammed là tài xế chiếc xe vận tải thứ nhì trong đoàn, nhưng anh ta ra khỏi phòng lái và đi về phía sân trại tù khi cửa thùng chiếc xe đầu mở toang. Trong số khoảng chừng 200 tù binh đã được đưa lên cách đây 24 giờ, nay không còn một ai sống sót. Mohammed nói “Họ mở cửa và xác chết tràn ra ngoài như cá hộp, tất cả quần áo họ đều tơi tả và ướt.”
Mohammed nói rằng tất cả 176 tù binh trên trong xe của anh ta đã thoát nạn vì anh ta đã cưỡng lệnh và đã đục lỗ bên cạnh thùng. (Lời khai này của anh đã được nhân chứng khác xác nhận.) Anh ta và những người khác cũng nói rằng không có người Mỹ nào hiện diện khi những xe tải trong đoàn mở cửa thùng containers.
$750 ÐÔ LA CHO MỘT LỖ KHÔNG KHÍ
Ngày hôm sau, 30 tháng Mười Một, một đoàn xe mới gồm bảy xe vận tải đến Sheberghan. Hôm sau đó, 1 tháng Mười Hai, thêm một đoàn bảy xe nữa đến.
NEWSWEEK đã truy lùng được những tài xế của hai đoàn xe kế tiếp này. Những điều họ nhớ được là hầu hết những thùng containers chứa đầy xác chết. Nhưng không phải tất cả. Những tù binh trong một chiếc xe tải trong những đoàn xe này đưa ra 45.000 rupees, tiền Pakistan (tương đương với $750 đô la) cho tài xế qua một khe hở trên sàn như một món hối lộ để được cắt một lỗ không khí và để được xịt nước vào qua khe hở bằng vòi nước. Tất cả 150 tù binh này thoát chết. Ít nhất trên một thùng container, các tù nhân đã mỡ được những lỗ hổng trên sàn gỗ, và tất cả đã thoát chết.
Abdul, một người Pashtun, 28 tuổi, một trong những người sống sót. NEWSWEEK phỏng vấn anh ta tại trại tù Sheberghan. Anh ta nhớ lại rằng thùng container của anh ta chất cứng đến gần kín nghẹt. Sau gần 24 giờ không có nước uống. Abdul nói rằng tù nhân đã quá tuyệt vọng vì khát nên họ bắt đầu phải liếm mồ hôi từ thân người khác. Nhiều người bắt đầu mê sảng và cắn những người chung quanh. Thùng container của Abdul là một thùng trong chuyến thứ ba đến Sheberghan: Anh ta nói, cho đến khi họ đến trại tù, chỉ còn có khoảng 20 đến 30 người sống sót.
Những tù nhân còn sống sót tại trại Sheberghan kể lại những câu chuyện giống như vậy. Một người 20 tuổi bị tống vào một thùng đầy nhóc. Sau tám tiếng đồng hồ, anh ta nghĩ, các tù nhân bắt đầu đá vào cạnh của thùng và la hét xin không khí và nước. Nhưng họ không được gì cả. Vài tù nhân dùng khăn đội đầu của họ lau mồ hôi người để uống. Sau thêm nhiều giờ, nhiều tù nhân bắt đầu bị mất trí, họ cắn ngón tay, tay và chân người khác. Bất cứ những gì để có thể có được hơi ẩm. Ðến khi đến được Sheberghan, người trẻ này nói rằng chỉ có 40 người trong container của anh ta còn sống.
ÐÓNG NHƯ SÚC VẬT
Ðối với nhiều người khác, thảm cảnh trong thùng container càng thêm bi thảm vì họ bị trói kè. Hình như đây là số phận của những tù nhân người Pakistan - và có lẽ cũng là số phận của những tù nhân không phải người A Phú hãn. Mahsood, 20 tuổi, nói rằng anh đầu hàng tại Konduz cùng với 1500 người Pakistan khác. Tất cả bị trói chân và tay hoặc bằng chính khăn đầu của họ hoặc bằng vải xé từ áo quần họ, anh ta nói. Sau đó tất cả bị đóng vào những thùng container “như súc vật”. Anh ta cho rằng có khoảng 100 người chết trong container của anh.
Những tài xế vẫn còn bị dày vò vì những việc họ đã dự phần vào. Một người hỏi “Tại sao không có người đại diện LHQ nào cả có mặt để chứng kiến những xác chết? Tại sao không làm được gì cả?” Một tài xế khác lắc đầu liên tục như không còn tự kiểm soát được khi anh ta nói chuyện với NEWSWEEK.
Những đoàn xe chở xác chết và những kẻ hấp hối, cùng với nhiều xe vận tải chở tùbinh còn sống, hình như đến Sheberghan trong 10 ngày. Những người tò mò đều bị đẩy lui. Hồng Thập Tự, biết được có tù binh đến từ Konduz, vào ngày 29 tháng Mười Một, đã xin phép vào Sheberghan. Vị chỉ huy của Dostum tại trại này hứa sẽ cho phép họ vào trong vòng 24 giờ. Thực ra, mãi đến ngày 10 tháng Mười Hai, Hồng Thập Tựi mới được vào Sheberghan. Ðến lúc đó, hầu hết các xác chết đã được chôn cất. (Phát ngôn nhân của Dostum phủ nhận việc giới chức trại tù đã không cho phép HTT vào trại).
Những nhân chứng ở gần nơi chôn xác chết đã chú ý đến những điều bất thường. Thôn Lab-e Jar chỉ cách nơi chôn người khoảng nửa dặm. Trong vài đêm trong khoảng nửa tháng đầu của tháng Mười Hai, lính của Dostum không cho phép dân làng rời khỏi nhà họ. Hầu hết dân làng nay quá sợï hãi không chịu nói chuyện. Một người nói “Ðã từ nhiều năm, xác chết vẫn được chôn. Các ông biết những gì xảy ra. Tôi biết những gì xảy ra. Nhưng sẽ không có gì làm thay đổi được nếu chúng tôi nói những chuyền này.” Tuy thế, NEWSWEEK cũng tìm được vài người đồng ý nói ra những gì họ thấy. Một người đàn ông 49 tuổi, nại rằng vào tuần đầu của tháng Mười Hai, lính của Dostum chận con đường đất chạy băng qua Dasht-e Leili trong mấy ngày. Ông nói “Không có xe cộ, không xe lừa, không cho cả khách bộ hành được phép đi xuống con đường này,” Ông ta nói chính ông ta thấy bốn hay năm xe chở thùng containers tại nơi chôn người. Khi các nhân viên điều tra của LHQ nói chuyện với dân chúng tại Lab-e Jar hồi tháng Năm, hai dân làng nói rằng họ thấy xe ủi đất làm việc tại đây, tại địa điểm này vào khoảng trung tuần tháng Mười Hai.
THẨM VẤN NHỮNG NGƯỜI SỐNG SÓT
Một vòng rộng lớn những tổ chức và những cá nhân biết, đại khái rằng, những gì đã xảy ra sau khi Konduz thất thủ. Hồng Thập Tự đã thẩm vấn những người sống sót và đã viết bản tường trình về vụ này; các giới chức cao cấp của Hồng Thập Tự tại hành dinh của họ ở Geneva đã gặp và thảo luận, không có kết quả, về những gì phải làm tiếp. Hai chuyên viên điều tra LHQ hiện diện khi Haglund đào một đường hố thử tại mồ chôn Dasht-e Leili. Sau khi phỏng vấn dân địa phương, họ cũng đúc kết một phúc trình. Hai cơ quan của LHQ, Phái Bộ Viện Trợ A Phú Hãn (Assistance Mission to Afghanistan) và Cao Ủy LHQ về Nhân Quyền (U.N. High Commissioner for Human Rights) vẫn còn suy ngẫm về những gì họ cần phải làm. Một viên chức Hồng Thập Tự tại A Phú Hãn nói, để giải thích tại sao anh ta ngần ngại thảo luận vụ này. Cho đến nay, quân đội Hoa Kỳ vẫn chưa thực hiện một cuộc điều tra toàn diện, và họ cũng chưa được hỏi để tham gia cùng với một hay nhiều cơ quan khác. Nguồn tin LHQ nói rằng những điều tra của họ cho thấy lực lượng Mỹ đã không có can dự gì. Trên phương diện công khai, Ngũ Giác Ðài đã cố giữ một khoảng cách. Hồi cuối tháng Giêng, giới chức Bộ Quốc Phòng được tổ chức PHR cho biết về những khám phá này, về những tin tức của một mồ chôn tập thể. Vào cuối tháng Hai, giới chức Ngũ Giác Ðài và Bộ Ngoại Giao được cung cấp báo cáo mật về tường trình đầu tiên do Haglund và các đồng sự của anh ta đúc kết. Tuy nhiên, Ngũ Giác Ðài phản ứng rằng Bộ Chỉ Huy Vùng Trung Ương đã cho điều tra và xác nhận rằng quân lính Hoa Kỳ đã không biết gì về những tàn sát này - và thật thế, Ngũ Giác Ðài không có lý do gì để tin rằng có những tàn sát như thế đã xảy ra. Hồi tháng Sáu, phát ngôn nhân Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Dave Lapan nói rằng Bộ Chỉ Huy Vùng Trung Ương đã thẩm vấn từng đơn vị tại A Phú Hãn “nhiều tháng trước”: “Bộ Chỉ Huy đã xem xét vụ này và không thấy có bằng chứùng nào về sự tham gia, hiểu biết hay sự hiện diện của lính Mỹ. “Người của chúng tôi không có mặt, không nhìn thấy và không biết gì những vụ này - nếu thật sự có vụ này xảy ra.- Một tuyên bố của Bộ Quốc Phòng một tuần lễ sau đó nhấn mạnh: “Không có quân Mỹ nào hiện diện ở những nơi nào gần địa điểm này hồi tháng Mười Một. Quân Mỹ có mặt khoảng thời gian tháng Mười Hai/tháng Giêng khi những nấm mồ tập thể được phát hiện.”
Nhưng điều đó có hoàn toàn đúng hay không? Ðơn vị Mỹ liên can trực tiếp đến là đội A-Team 595, một phần của Liên Ðoàn Năm Lực Lượng Ðặc Biệt có hành dinh tại Fort Campbell, Kentucky. Chỉ huy trưởng của toán 595, gồm mười hai người này, là Ðại Úy Mark D. Nutsch. Trong suốt chiến dịch tại A Phú Hãn, Ngũ Giác Ðài vẫn yêu cầu các phóng viên chỉ xác nhận danh tính các nhân viên LLÐB bằng tên gọi mà thôi, họ cho rằng việc này cần thiết để bảo vệ cho những gia đình các binh sĩ này ở nha,ø tránh sự trả thù của quân khủng bố. Nhưng Lục Quân đã cho phép miễn trừ điều cấm kỵ này hồi tháng Tư, khi Cơ Quan Lập Pháp tiểu bang Kansas thông qua một nghị quyết tại cả hai viện để vinh danh cho Ðại Úy Nutsch, phu nhân của ông là Amy và cháu gái sơ sinh Kaija, ra đời trong khi ông Nutsch tham chiến tại A Phú Hãn, cả giađình đã hiện diện trong một buổi lễ trước công chúng. Khi NEWSWEEK liên lạc với ông để hỏi về những cái chết trong thùng containers, Nutsch nói rằng ông ta không muốn bàn về chuyện này.
CÔNG TÁC CỦA 595
Những toán A-Team của LLÐB là những toán quân gây hãi hùng của cuộc hành quân Mỹ tại A Phú Hãn. Họ là những mối liên lạc tối cần giữa các dân quân thuộc Liên Minh Phương Bắc dưới đất và sức mạnh trên không của Hoa Kỳ. Mỗi toán A-Team trong chiến dịch tại A Phú Hãn được biệt phái ít nhất là một binh sĩ LLÐB Không Quân gọi là kiểm soát không phận tác chiến (Combat Air Controller - CAC). Chính những phi vụ oanh kích chính xác do những binh sĩ CAC này gọi và định hướng đã hủy diệt lực lượng Taliban. Mỗi toán A-Team được bổ nhiệm cho một chỉ huy địa phương, và công tác của 595 là làm việc với Tướng Dostum.
Vai trò của toán 595 trong cuộc chiến tại A Phú Hãn biến họ trở thành những huyền thoại dưới mắt công chúng. Họ được chở đến A Phú Hãn bằng trực thăng như những toán khác, bằng trực thăng của LLÐB, họ gặp Tướng Dostum ngày 19 tháng Mười tại hành dinh của ông này ở Darra-e Suf trên vùng pháo lũy núi non phía nam của thành phố Mazar-e Sharif. Chính đơn vị 595 này nổi tiếng vì những hình ảnh tham chiến lúc đó trong khi phi ngựa; Chính những mẫu báo cáo vụn vặt của Nutsch đã được Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld phấn khởi đọc cho báo chí nghe trong những buổi thuyết trình tại Ngũ Giác Ðài. Nhờ có sức mạnh không tập do Mỹ làm sống dậy, và nhờ vào những tiền bạc do các sĩ quan CIA Mỹ phân phát hậu hĩ cho các dân quân địa phương - Dostum và các chỉ huy khác của Liên Minh Phương Bắc đã càn quét tiến về phía bắc ra khỏi vùng núi non. Cao điểm của chiến dịch ngắn ngủi này bắt đầu vào ngày 4 tháng Mười Một, khi Liên Minh mở cuộc tấn công gọng kềm ba chiều đánh vào thành phố quan trọng miền bắc, Mazar-e Sharif, cuộc tấn công được ít nhất là hai toán A-Team của LLÐB điều động và phối hợp.
Các thành viên của toán 595 đã có mặt với Dostum tại những cuộc thương thuyết đầu hàng, và sau đó một lần nữa tại địa điểm đầu hàng Yerganak. Hậu quả là họ không có mặt bên cạnh sĩ quan CIA Mike Spann và Dave Tyson khi hai người này đi đến trại tù Qala Jangi để hỏi cung nhóm đầu tiên những tù binh thứ dữ của Taliban và al-Qaeda mới được đưa đến đây sau một vụ vượt ngục không thành taị Konduz. Chỉ huy trưởng của toán 595, Nutsch, cảm thấy cay đắng về cái chết của Spann. Ông ta nói với Robert Young Pelton, một phóng viên CNN và tap chí National Geographic Adventure rằng “Ðây là một người chúng tôi xem như một phần của toán chúng tôi, nếu chúng tôi có mặt tại đó, đã không xảy ra cái chết của Mike.”
Qua ba ngày khi đoàn xe tử thần thứ nhất đến Sheberghan, quân lính LLÐB đã có mặt trong vùng. Ngoài ra còn có một toán tình báo riêng biệt gồm bốán người mang quân trang chiến đấu đầy đủ, có mặt tại trại tù để làm cuộc thanh lọc những nghi can al-Qaeda hầu hỏi cung thêm. Theo Pelton, một phóng viên tự do phiêu lưu mạo hiển, chuyên viết về những nơi chốn hiểm nguy, thì các binh sĩ LLÐB lúc đó có quan tâm chính là về tình trạng an ninh của trại tù. Cùng lúc đo,ù những thùng container chở xác chết cũng đả đến nơi, nhiều chuyến xe tải chở tù binh còn sống cũng đến nơi: Vào đêm 1 tháng Mười Hai, thí dụ, một thùng container đến với 86 người sống sót từ Qala Jangi. Trong số này có John Walker Lindh. Chính người y tá của toán 595 tên Bill, đã điều trị cho Lindh đầu tiên. Pelton lúc đó và ngay lúc này cũng tin rằng con số tử vong từ những thùng container là vào khoảng “hơn 40” và là những người chết vì những thương tích bị thương trong trận bao vây Konduz. Pelton nói rằng “Khi tôi có mặt với toán 595, chúng tôi đã lặp đi lặp lại những sự việc xảy ra. Những gì xảy ra là đại loại những người này chết vì những vết thương.” Một viên chức cao cấp Bộ Quốc Phòng nói với NEWSWEEK về bối cảnh chuyện này rằng họ đã yêu cầu chỉ huy trưởng của Liên Ðoàn Năm LLÐB hãy cho điều tra về vụ những cái chết trong thùng containers. Vị chỉ huy, Ðại Tá John Mulholland tường trình rằng toán A-Team biết rằng có một số, có lẽ là con số còn lớn hơn, những tù binh Taliban đã chết trong cuộc hành trình đến Sheberghan. Nhưng LLÐB tin rằng những cái chết là do vết thương hoặc bệnh trật. NEWSWEEK đã đưa lời khai này đến Ðại Tá Mulholland, qua sĩ quan giao tế của Bộ Chỉ Huy Hành Quân Ðặc Biệt, nhưng cho đến lúc bài này được đưa lên khuôn, NEWSWEEK vẫn chưa nhận được hồi âm.
TÌNH TRẠNG ÐAU KHỔ KHÓ XỬ
Ðối với Hồng Thập tự, việc giết chóc tại Sheberghan đã gây nên một tình trạng đau khổ rất khó xử. Tổ chức này hoạt động dưới mắt kiểm soát của công luận - đây là một đặc quyền cho phép họ được ra vào những nơi mà không có ai khác được phép đến, và cho phép họ cung cấp cứu trợ cho những người trong những hoàn cảnh khó khăn nhất - đã làm cho giới chức HTT e dè không thể công bố những gì họ nghe được. Aziz ur Rahman Razekh của tổ chức Nhân Quyền A Phú Hãn nói rằng “Hơn hai tháng trước, chúng tôi đã liên hệ với hội HTT để họ điều tra vụ này, nhưng họ không có vẻ quan tậm. Chúng tôi đã được tiếp đãi lạnh nhạt.”
Thật thế, Hồng Thập Tự ngay từ đầu đã quan tâm về số phận tù binh đưa đến Sheberghan. Cuộc đầu hàng của quân Taliban tại những thị trấn miền bắc là một tiến trình kéo dài; và những đoàn tù binh từ Konduz - bị bắt bên ngoài vòng đai tỉnh này - bắt đầu đến Sheberghan hôm 22 - 23 tháng Mười Một. Văn phòng HTT tại Mazar- e Sharif biết được những chuyến xe đến nơi này; và vào ngày 29 tháng Mười Một, một nhóm nho ûtìm cách đi vào trại Sheberghan. Họ không được phép vào. Sau này khi được hỏi về việc này, giới chức HTT nói rằng “Giới cầm quyền không muốn chúng tôi đền đấy.” (Phát ngôn nhân của Dostum phủ nhận điều mà họ cho là giời chức trại tù không cho HTT vào.)
Mãi cho đến ngày 10 tháng Mười Hai, HTT mới có cơ hội thuyết phuc để vào đươc trại Sheberghan hầu phỏng vấn các tù binh mới. Khi NEWSWEEK đến gặp giới chức HTT lần đầu để hỏi về việc đối xử với tù binh từ Konduz, câu trả lời lập tức của ông ta là "Tôi không thể nói chuyện về những thùng containers". Khi ông được cho biết những câu chuyện do các tù binh tại Sheberghan nói với NEWSWEEK, ông ta trả lời với nhiều đau khổ: “Nếu quý vị nghe những câu chuyện về những thùng containers bây giờ, quý vị nghĩ gì khi chúng tôi nghe chuyện này vào lúc đó.”
Dường như bị giằng co giữa sỉ nhục trắng trợn và những thông lệ bí mật, Hồng Thập Tự có thể đã cố tìm cách gây sự chú ý đến Sheberghan một cách gián tiếp. Vào trung tuần tháng Giêng, John Heffernan và Jennifer Leaning của tổ chức PHR tình cờ gặp hai viên chức HTT tại Kabul - một người là giới chức cao cấp tại hành dinh HTT tại Geneva. Viên chức từ Geneva nói với họ rằng Hồng Thập Tự đã “rất quan tâm” về việc đối xử tù binh do quân Hoa Kỳ và đồng minh của họ; và bà ta thúc giục hai người này rằng đây là đề tài “đáng được triển khai”. Ðó là lý do tại sao hai nhân viên của tổ chức PHR - chán nản vì không có phản ứng của Hoa Thịnh Ðốn cũng như Kabul về những cuộc thuyết trình riêng biệt của họ về những phát hiện của Haglund tại Dasht-e Leili - đã cho phổ biến một báo cáo mô tả những khám phá này. Hồng Thập Tư cũng hòa âm theo, trưng cho các phóng viên - từ văn phòng HTT tại Kandaher - một nhân chứng sống sót từ một trong những thùng containers: Sardar Mohammed, 23 tuổi, quê quán tại Kandahar. Mohammed kể lại rằng họ đã bị nhét 150 người vào mỗi thùng container. Và anh ta khai rằng anh và các bạn đồng tù sống sót đã đếm được con số hơn 1000 người đã không thoát được cơn kinh hoàng này.
Thật không dễ gì cho người Mỹ có được sự thương cảm đối với tù binh Taliban hay al - Qaeda. Nhưng luật lệ chiến tranh không thể chỉ áp dụng một cách có chọn lựa. Không thể có biện minh luân lý nào cho sự đau khổ và tàn phá của chiến tranh nếu không phải là để bảo vệ cho luật lệ. Thật rất khó giữ lằn ranh này, ngay cả trong một cuộc chiến quy ước. Trong một cuộc chiến dùng người khác đánh thế, điều này càng khó khăn hơn nữa. Những cái chết tại Dasht-e Leili là bắng chứng cho điều này.