PHẦN BỐN: HÔN NHÂN TAN VỠ

CHƯƠNG MƯỜI BA: TAN VỠ HÔN NHÂN

Từ Cựu ước qua Tân ước đến Truyền thống Kitô giáo, việc hôn nhân tan vỡ và ly dị luôn bị coi là những vi phạm đến chính bản chất của hôn nhân, vì bản chất ấy vốn là một liên hệ giao ước, nên không được vi phạm. Tuy nhiên, các cuộc hôn nhân cá biệt vẫn tiếp tục vỡ tan, và trong Chương này, chúng tôi sẽ khảo sát trạng huống hiện nay của khía cạnh ấy. Ba phần đầu của Sách đã phác thảo những khả thể có tính tích cực của hôn nhân; trong phần này, chúng tôi sẽ đưa ra phần bổ túc của bức hoạ. Nó là một thế giới của biến động, của xung khắc và của đau khổ, khi mối liên hệ, khởi đầu mang theo biết bao hy vọng, giờ đây đang lùi dần vào vỡ mộng và cảm thức thua cuộc.

PHƯƠNG DIỆN DÂN SỐ HỌC

Hôn nhân tan vỡ đã xẩy ra theo mức độ nào? Thật ra không thể có được những tín liệu hoàn toàn chắc chắn trong phạm vi này. Ðiều biết rõ chỉ là những đơn xin tiêu hôn và ly dị xẩy ra hàng năm. Những con số này được thu lượm tại Anh và Wales.

Nhìn bảng I, ta sẽ thấy trong thế kỷ này, sự gia tăng khá đều đặn. Nhưng đến năm 1947, bỗng nhiên có sự nhẩy vọt, phản ảnh những bất ổn của thời kỳ chiến tranh. Sau sự gia tăng nhanh chóng ấy, con số ly dị lại giảm xuống, nhưng không trở lại mức trước được. Rồi năm 1961, con số lại gia tăng và từ đó không bao giờ giảm xuống nữa: tăng đến 143,000 vụ năm 1978, giảm chút đỉnh năm 1979, nhưng lại tăng lên trong năm 1980. Nếu quan sát kỹ, ta thấy sự gia tăng gia tốc hẳn sau năm 1971.

BẢNG I

Ðơn xin tiêu hôn và ly dị, theo các năm đã được chọn lựa, tại Anh và Wales.

Năm Đơn Tiêu Hôn Các Vụ Ly Dị
1911 902 650
1921 2,848 2,733
1931 4,784 4,013
1941 8,305 6,368
1947 48,500 60,254
1951 38,382 28,767
1961 31,905 25,394
1971 110,900 74,400
1972 110,700 119,000
1975 140,100 120,500
1976 146,400 126,700
1977 170,000 129,000
1978 163,600 143,700
1979 163,900 138,000
1980 148,200


(Tham Chiếu-Tổng Cục Ðăng Ký)

Năm 1971, có những thay đổi lớn về Luật. Cho đến năm đó, chỉ được phép ly dị khi có những vi phạm trong hôn nhân. Vi phạm hôn nhân là một ý niệm theo đó hôn nhân được nhìn như một khế uớc, nên nếu khế ước bị vi phạm, người ta có cơ sở để xin tiêu hủy. Những vi phạm này bao gồm ngoại tình, bỏ đi trong ba năm, bạo hành và bệnh tâm thần phải nằm bệnh viện năm năm. Năm 1969, đạo luật về Canh Cải Ly Dị được thông qua và có hiệu lực từ tháng Giêng năm 1971. Theo đạo luật này, chỉ cần có bằng chứng là cuộc hôn nhân đã đến hồi không thể hàn gắn được là đủ để xin ly dị. Các căn bản để chứng minh điều ấy có thể là: ngoại tình đến độ người thỉnh nguyện thấy không thể sống chung được nữa; tác phong vô lý của người phối ngẫu làm người thỉnh nguyện không thể sống với họ nữa; bỏ đi hoặc sống xa nhau trong vòng hai năm và người phối ngẫu đồng ý; hoặc sống tách xa nhau 5 năm với sự ưng thuận hoặc không của người phối ngẫu. Ðạo luật này, trong khi coi hôn nhân chủ yếu như một liên hệ, vốn được coi như một kiểu mẫu được nhiều nơi trên thế giới chấp nhận. Chắc chắn nó làm cho những vụ ly dị tương đối dễ dàng hơn mặc dù về phương diện kinh tế nó đòi hỏi hơn nhiều, vì luật không ngừng thay đổi để đảm bảo phúc lợi cho người vợ và con cái. Người chồng vì vậy thường phải chu cấp cho cả hai gia đình, gia đình do hôn nhân trước và gia đình do hôn nhân thứ hai, và đo đó các tài nguyên của họ đôi khi không chịu đựng nổi các phí khỏan này.

Việc gia tăng ly dị tại Anh và Wales trong 20 năm nay đã được phản ảnh cả ở Âu Châu (1) lẫn Hoa Kỳ (2). Trong 10 năm trở lại đây, tỷ lệ ly dị tại Anh và Wales đã tăng gần gấp đôi đối với cỡ tuổi trên 25 và gần gấp ba đối với cỡ tuổi dưới 25 (3). Việc gia tăng ly dị trong các xã hội Phương Tây là một hiện tượng văn hoá có ý nghĩa rất lớn.

Sự tan vỡ xẩy ra khi nào? Cho đến những năm gần đây, người ta thường làm những con tính dựa trên thời gian lúc xẩy ra ly dị, và người ta gọi nó là thời gian kéo dài theo luật (de jure duration). Nhưng thực tế, các cặp vợ chồng đã ngưng sống chung với nhau trước khi ly dị, thành ra thời gian kéo dài trên thực tế mới đáng kể.

Các nghiên cứu tại Hoa kỳ, tại Âu Châu và tại Anh cho thấy đại đa số các vụ ly dị đã xẩy ra trong năm năm đầu của hôn nhân. Ta có Monahan, khi tóm lược những phát hiện của mình và của nhiều nhà điều tra khác, đã cho rằng việc ly thân đã xẩy ra phần nhiều trong năm thứ nhất hoặc năm thứ hai (4). Tại Thụy Ðiển, một bản phân tích về nguy cơ ly dị mỗi năm cho đến năm 40 sau khi cưới cho thấy ly dị bắt đầu gia tăng lúc hôn nhân đạt đến đỉnh cao nhất của nó, tức khoảng 4 năm sau ngày cưới(5). Tại Anh, Chester thấy rằng 38% các cặp ly dị đã không còn sống chung với nhau từ năm thứ năm sau ngày cưới, nhưng chỉ có 16% thực sự ly dị trong khoảng thời gian đó (6). Một cuộc nghiên cứu mới đây cho thấy 34% các cặp ly dị đã ly thân vào năm thứ năm mặc dầu chỉ có 11% đã được phép ly dị; 60% các cặp ly dị đã ly thân vào năm thứ mười sau khi cưới (7). Như thế chứng cớ rõ ràng là dù ly dị có thể xẩy ra bất cứ lúc nào trong chu kỳ hôn nhân, nhưng 5 năm đầu chiếm đến 40% các vụ ly thân, số còn lại trải dài suốt qua chu kỳ ấy với đỉnh cao vào năm 20 sau ngày cưới. Cũng cuộc nghiên cứu này cho thấy bất kể việc ly dị xẩy ra năm nào, 80% những người đàn bà ly dị và 59% những người đàn ông ly dị nghĩ rằng các khó khăn trầm trọng của vợ chồng đã khởi đầu khoảng năm thứ năm sau ngày cưới.

Thành ra nếu muốn phòng ngừa, thì những năm đầu của hôn nhân rất quan trọng, và các bà vợ thường nhậy cảm hơn nhiều về sự có mặt của các trục trặc trầm trọng. Ðây cũng là điểm quan trọng khác trong việc phòng ngừa; người vợ rất thường hay nhận ra những điều không thuận chỉnh ngay từ những ngày đầu mới lấy nhau, nhưng oái ăm thay, chồng bà, linh mục của bà và ngay cả các huấn đạo viên của bà cũng không một ai chú ý đến các than phiền của bà. Dần dà, các niềm hy vọng của bà sẽ bị sói mòn và vì cái động lực tranh đấu cho hôn nhân đã không còn nữa, thì mọi can thiệp hữu ích dù có đưa ra cũng hoàn toàn vô ích.

CÁC LÝ DO VĨ MÔ VỀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI

Ðâu là lý do gây ra sự gia tốc trong các đổ vỡ của hôn nhân trong hai thập niên vừa qua? Ở tâm điểm bất cứ cuộc tan vỡ hôn nhân nào, người ta cũng thấy có sự bất tương hợp về xã hội, về xúc cảm, về tri thức hoặc về tâm linh, hoặc do từng yếu tố hoặc gồm nhiều yếu tố hợp lại. Ðiều khác nhau giữa các thời đại chỉ là sự khác nhau về cơ sở làm nền cho sự bất tương hợp ấy mà thôi. Trong phần này, các lý do thuộc phạm vi hoàn cầu sẽ được khảo sát.

Ðứng đầu các lý do này là phong trào giải phóng phụ nữ và do đó các hậu quả trong việc thay đổi mối tương quan đàn ông đàn bà. Trong cả ngàn năm trước, một cơ cấu có tính tổ phụ vốn hiện diện trong đó người đàn ông giữ vị thế cao hơn. Các cuộc hôn nhân được khuôn định trong những liên hệ có tính phẩm trật trong đó người chồng là đầu còn người vợ là thành viên lệ thuộc. Sự vận hành thực tế của mối liên hệ xã hội này có thể khác nhau tùy theo từng cuộc hôn nhân. Trong một vài cuộc hôn nhân, người chồng chỉ làm đầu cho có vì trong khi người vợ mới là người thực thi quyền hành trong gia đình. Nhưng quyền hành ấy có đi chăng nữa cũng chỉ luẩn quẩn trong khung cảnh gia hộ mà thôi. Nơi công cộng và ngoài xã hội nói chung, người đàn ông vẫn là người lãnh đạo. Mặt khác, có những hạn chế về xã hội và kinh tế khiến cho việc người vợ bỏ chồng cực kỳ khó khăn vì bà phải lệ thuộc hoàn toàn ở ông để được chu cấp.

Chỉ đến thời ta, việc giải phóng phụ nữ mới có được bước nhẩy vọt và xã hội đang nhanh chóng nhìn nhận sự bình đẳng về giá trị giữa hai phái trong phẩm giá và quyền lợi. Các ưu quyền của đàn ông đang từ từ thu nhỏ lại và người ta hy vọng mối liên hệ chồng vợ sẽ là mối liên hệ bình đẳng suốt đời.

Sự bình đẳng này đòi buộc gắt gao phải có thông đạt, phải kính trọng nhau và chia sẻ trách nhiệm với nhau. Những thay đổi này, trong 25 năm chót của thế kỷ, đã xẩy ra một cách nhanh chóng đến độ người ta chuẩn bị không kịp, huấn luyện không kịp và không kịp đưa ra những trợ giúp để đương đầu với chúng. Nói một cách vắn tắt, hoài mong đã đi trước khá xa các khả năng của vợ chồng trong việc đương đầu với những thay đổi lớn lao về xã hội và tâm lý, và hậu quả là những bất tương hợp vĩ đại, những bất tương hợp mà người ta không còn coi là những thánh giá phải vác nữa, mà được giải quyết bằng ly dị và thay đổi người phối ngẫu.

Việc người phụ nữ ào ạt bước vào lực lượng lao động có nghĩa là nay họ được độc lập về kinh tế. Sự độc lập này không còn buộc họ phải tiếp tục sống trong những hoàn cảnh mà bản thân họ thấy không còn chịu đựng nổi. Việc phổ biến các phương tiện ngừa thai cũng có nghĩa là một yếu tố khác từng cột chặt người đàn bà vào khung cảnh gia đình, tức việc thai nghén triền miên, đang dần đần được loại bỏ đi. Gia đình ngày nay thường nhỏ và con cái thường chỉ ra đời khi được hoạch định từ trước. Kết quả là phụ nữ được nhiều tự do bản thân hơn và có khả năng trở lại làm ăn sinh lợi nhuận nhờ thế mà được độc lập hơn.

Các hoài mong sâu sắc hơn không chỉ giới hạn ở bình diện xã hội. Như đã trình bầy ở Phần II, sự kiện các vai trò cố định dần dần mờ nhạt đi đã đem hai vợ chồng đến chỗ thân mật hơn, và nhờ thế các tầng sâu hơn của bản ngã tâm lý được dịp tham dự vào mối liên hệ của họ. Ðây là tầng đã được cả một thế kỷ phát triển tâm lý học tác động đến nhờ đó, tác động của tâm thức (psyche) trên nhân cách ngày càng được hiểu sâu hơn và đánh giá tốt hơn.

Những phát triển tâm lý xã hội này trùng hợp với thời kỳ người ta nhanh chóng tách mình ra khỏi các định chế tôn giáo chính thức. Ðặc biệt là sự cam kết ước nguyền có tính trói buộc nay đang tan biến đi và liên tục tính không còn được coi như nhân đức nữa. Như đã bàn trên đây, liên tục tính có thể đáp ứng các nhu cầu sâu xa nhất của con người, nhưng ngày nay người ta lại đi chuộng những gì có thể vứt bỏ được (disposable), cho nên người ta cần nhiều thì giờ mới có thể đánh giá được rằng chỉ có liên tục tính mới phục vụ tốt nhất các hoài mong về xã hội, xúc cảm và dục tính trong hôn nhân mà thôi. Tóm lại, toàn bộ xã hội Phương Tây đang bị giao động bởi các thay đổi ý thức hệ. Các thay đổi này cuối cùng sẽ tác động trên hôn nhân, một định chế phải thay mặt tập thể chịu đựng các thay đổi ấy.

CÁC LÝ DO TIỂU MÔ VỀ XÃ HỘI

Bên trong các yếu tố vĩ mô đã miêu tả trên đây, ta nhận dạng được những yếu tố đặc thù có thể đem lại những tác động bất lợi riêng. Ðó là tuổi lúc kết hôn, có thai trước khi lấy nhau, nhà ở, giai cấp xã hội, trình độ học vấn, và tôn giáo.

TUỔI

Mối liên hệ giữa tuổi lúc kết hôn và kết quả của cuộc hôn nhân đã được nghiên cứu khá sâu rộng. Kết quả rất đồng bộ cho thấy một cách rõ rệt rằng các cuộc kết hôn lúc còn quá trẻ mang rất nhiều rủi ro (8,9,10). Tạp chí Những Khuynh Hướng Dân Số (Population Trends) đã tóm tắt tình trạng đó như sau: "Dù cuộc hôn nhân đã kéo dài bao lâu chăng nữa, vẫn có nguy cơ ly dị cao nếu cô dâu lấy chồng lúc chưa đầy 20 tuổi. Tỷ dụ, 9% các cuộc hôn nhân cử hành năm 1963 đã kết thúc bằng ly dị sau khi lấy nhau được 11 năm; nhưng khi cô dâu dưới 20 tuổi, 16% đã ly dị trong khoảng thời gian đó, so với 8% khi cô dâu tuổi từ 20 đến 24 lúc kết hôn. Và nếu chú rể cũng dưới 20 khi kết hôn, thì nguy cơ ly dị còn cao hơn nữa” (9).

Mặc dù các cuộc hôn nhân quá trẻ có nguy cơ ly dị cao, nhưng không phải cuộc hôn nhân nào thuộc loại ấy cũng kết thúc bằng ly dị. Thành ra, chắc chắn có những yếu tố làm gia trọng yếu tố tuổi mà cũng có những yếu tố hỗ trợ cho yếu tố tuổi. Hai yếu tố làm gia tăng chính là việc có thai trước khi kết hôn và việc thuộc về giai cấp kinh tế xã hội thấp. Người ta biết rằng các yếu tố này, tự chúng đã mang nhiều rủi ro, lại thường thấy có nhiều trong các cuộc hôn nhân mà vợ chồng đều dưới 20 tuổi. Mặt khác, việc có được cha mẹ giúp đỡ, nhà ở tốt và nhân cách vững ổn là những lợi điểm bảo vệ hai vợ chồng tránh được những nguy cơ lớn hơn trong nhóm tuổi này.

Tại sao các cuộc hôn nhân quá trẻ lại quá bấp bênh? Vì dù người đàn ông và người đàn bà đã phát triển đầy đủ về phương diện thể lý và tri thức trước tuổi 20, nhưng họ lại chưa hoàn tất được việc phát triển về xúc cảm trước thời gian ấy. Và vì sự thành bại của hôn nhân ngày nay mật thiết liên hệ tới sự ổn định về xúc cảm, nên trách nhiệm đương nhiên do việc thiếu chín chắn về xúc cảm gây ra. Một vài người trẻ tuy còn đang mù mờ về bản sắc như chưa biết mình là ai, mình đang đi về đâu, mình muốn làm gì trong đời, mà đã đi kết hôn chỉ để có được vị thế của những người đã kết hôn. Ðáng tiếc thay, chiếc nhẫn trên bàn tay trái chẳng làm bản sắc họ sáng sủa hơn chút nào, và chính vì vậy cuộc hôn nhân nhanh chóng bị kết liễu sau khi đã thực hiện được mục đích bắc cầu từ tuổi thiếu niên qua tuổi trưởng thành.

CÓ THAI TRƯỚC KHI KẾT HÔN

Cái tai hại của việc có thai trước khi kết hôn đã được nhắc đến trên đây. Các nghiên cứu trong nhiều năm của Christensen ở Mỹ đã chứng minh rằng việc có thai trước khi kết hôn là yếu tố gia tăng nguy cơ ly dị (11). Các nghiên cứu khác cũng xác nhận điều đó (12,13). Lý do thì nhiều. Với một số cặp, việc có thai trói buộc họ trước khi họ sẵn sàng mọi điều kiện để kết hôn. Những cuộc hôn nhân vội vã như thế có thể thiếu nơi ăn chốn ở, thiếu dự trù tài chánh, có khi thiếu luôn sự trợ giúp của thân thuộc. Yếu tố khác là sự hiện diện của đứa con làm hai vợ chồng sao lãng nhau và do đó mất đi mối dây nối kết mạnh mẽ giữa họ với nhau (14).

Cũng như đối với yếu tố tuổi, không phải cuộc hôn nhân nào với cái bào thai sẵn trong bụng trước khi kết hôn cũng kết thúc bằng ly dị. Thí dụ trường hợp những cặp đã từng hẹn hò làm quen với nhau trong một thời gian dài và việc có thai là hành vi cố ý. Cũng có thể là những cuộc hôn nhân được cha mẹ hỗ trợ, ít có trục trặc trong thời gian tiền hôn nhân và ít hiện tượng trầm cảm sau khi sinh con (15).

Tuy nhiên, dù hậu quả có thế nào chăng nữa, những người có thai trước khi kết hôn thường là những người có sung lực tính dục cao trước và trong khi lấy nhau cũng như ngoài hôn nhân. Ðiều ấy chứng tỏ họ có một nhân cách hướng ngoại với các đặc điểm như ham mê các sinh hoạt dục tính và ít quan tâm đến những liên hệ có tính bản thân.

NHÀ Ở

Một trong các ước muốn của vợ chồng mới cưới là có được nơi ăn chốn ở riêng để được tư riêng và đủ tiện nghi xây dựng mối liên hệ của chính họ. Các chứng cớ từ những cuộc nghiên cứu về lịch sử nơi ăn chốn ở của những cặp ly dị cho thấy phần lớn các cặp này đã phải chia chung nơi ăn chốn ở với người khác khi mới kết hôn, và do đó ngay trong năm đầu cuộc sống vợ chồng, họ đã phải sống trong tranh chấp với những người cùng cư ngụ. Thêm vào đó, phần lớn các cặp ly dị phải chuyển nhà nhiều hơn những cặp không ly dị, và những cuộc chuyển nhà này lại không được hoạch định mà là bất chợt và bốc đồng. Với những cuộc chuyển nhà như thế, hai vợ chồng cứ phải nhổ rễ thường xuyên, làm gián đoạn những tiếp xúc với hàng xóm bạn bè, và do đó cứ phải bắt đầu lại từ đầu. Những gián đoạn này gây cho vợ chồng khá nhiều căng thẳng, nhất là người vợ, là người thường mất mát nhiều nhất các trợ giúp và cảm thức an toàn do khu vực sinh sống đem lại, vì vừa thiết lập được một số liên hệ bằng hữu lại đã phải nhổ rễ ra đi.

GIAI CẤP XÃ HỘI VÀ GIÁO DỤC

Những cuộc nghiên cứu liên tục tại Hoa Kỳ cho thấy có một liên hệ đảo ngược giữa giai cấp xã hội và ly dị. Ðiều này có nghĩa là giai cấp kinh tế xã hội càng thấp thì nguy cơ ly dị càng cao. Ðiều ấy cũng đúng với trình độ giáo dục. Các nghiên cứu tại Anh thì ít hơn. Nhưng một nghiên cứu trước đó lại cho thấy không hề có mối liên hệ nào như thế cả (17). Những nghiên cứu gần đây của Gibson xác nhận điều này, nhưng thêm rằng các giai cấp xã hội V và III (không làm việc bằng chân tay) có khuynh hướng dễ ly dị hơn (18). Sự khám phá này sau đó đã được một nghiên cứu khác lặp lại y trang (19).

Ðâu là lý do? Ta biết rằng giai cấp V có nhiều yếu tố dễ đưa đến ly dị, như lấy nhau quá sớm, tỷ lệ có thai trước khi kết hôn cao, nơi ăn chốn ở không thỏai mái, và tài chánh nghèo nàn. Thành thử nếu giai cấp này dễ ly dị, thì đó là điều dễ hiểu. Tuy nhiên ở giai cấp III, ta không thấy những yếu tố đó. Nhưng rõ ràng giai cấp này thiếu gắn bó an toàn. Các thành viên của nó không thuộc về giai cấp trên cũng không thuộc về giai cấp dưới một cách rõ rệt, cho nên các nâng đỡ về xã hội rất yếu. Hơn nữa, nếu người chồng là người thành công về kinh tế, ông ta có thể đi lại thân thiện với những người vốn chẳng có ý nghĩa gì đối với vợ ông ta. Bà này có thể nghĩ rằng chồng đang bỏ rơi mình và bỏ rơi những gì mình đang chủ trương, nói cách khác hy sinh mình cho một thế giới mà mình không được trang bị để chia sẻ hoặc thông cảm. Dần dà bà sẽ cảm thấy xa lạ với chồng, coi chồng như đã đi quá xa các tài nguyên của mình, thực tế bàn chân đã trở nên quá lớn đối với chính đôi giầy của mình.

Trình độ giáo dục, vốn đóng một vai trò quan trọng tại Mỹ với mối liên hệ đảo ngược, thì tại Anh và Wales lại không có vai trò quan trọng như thế.

TÔN GIÁO

Việc là thành viên của một tôn giáo, nếu giống nhau, thường đem lại một sức mạnh phụ trội giúp hai vợ chồng cố gắng tìm ra giải pháp để duy trì cuộc hôn nhân của họ. Mặt khác cũng có thể có ít những tranh chấp về những vấn đề như ngừa thai, phá thai, triệt sản, giáo dục tôn giáo của các con và các giá trị khác mà hai vợ chồng theo đuổi. Tại Mỹ, các cuộc hôn nhân khác đạo thường bị liên kết với ly dị (20). Người ta cũng thấy nếu một trong hai không gắn bó với một tôn giáo nào thì đó là điều dễ đưa đến ly dị (21). Khám phá này cũng đã được xác nhận tại Anh và Wales (22). Gắn bó với một niềm tin không nhất thiết phải được biểu lộ bằng việc đi nhà thờ, nhưng nếu được biểu lộ như thế, thì cuộc hôn nhân được chứng tỏ là bền vững hơn nhiều. Khám phá này xẩy ra cả ở Mỹ (23) lẫn Anh (24). Nó phù hợp với chủ trương của các giáo hội Kitô giáo và Do thái giáo vốn nhấn mạnh đến tính cách bất khả tiêu của hôn nhân. Hơn nữa, nếu hai vợ chồng đều là những người tích cực đi nhà thờ, thì điều chắc là họ sẽ được động cơ thúc đẩy để luôn cố gắng bảo tồn các lý tưởng của hôn nhân.

Tuy nhiên, các rào cản ly dị này ngày một trở nên yếu hơn vì xã hội ngày một bị tục hóa hơn, cho nên mối liên hệ giữa đức tin và hôn nhân cần được khảo sát luôn. Không ai hoài nghi rằng con số những cặp vợ chồng mà cả hai cùng có đức tin đưa nhau ra toà ly dị ngày càng gia tăng, và do đó việc bảo vệ đức tin tôn giáo ngày nay thấy yếu hơn trước đây.

GIAI ÐOẠN THỨ NHẤT (5 NĂM ÐẦU MỚI LẤY NHAU)

Các yếu tố trên đây đã được nghiên cứu đi nghiên cứu lại và từ những nghiên cứu ấy tầm quan trọng của chúg đã được nhận ra. Từ trước đến nay, các ảnh hưởng tác hại đã được khảo sát dựa trên những biến cố lớn, được những hoàn cảnh xã hội riêng biệt củng cố, tuy nhiên còn yếu tố thứ ba, tức những nét chuyên biệt trong mỗi giai đoạn của cuộc sống hôn nhân dựa trên các chiều kích xã hội, thể lý, xúc cảm, tri thức và tâm linh. Những yếu tố này đã được quan sát nhiều lần về phương diện bệnh nghiệm học (clinically).

CHIỀU KÍCH XÃ HỘI

Các yếu tố xã hội nói ở đây bao gồm việc tách rời khỏi cha mẹ, thiết lập mái ấm và phân chia trách nhiệm tài chánh để quản lý mái ấm ấy, việc xử lý các tình bạn đã có trước khi lấy nhau, công ăn việc làm và nghỉ ngơi giải trí. Các khó khăn liên quan đến các vấn đề này đã được đề cập trong các chương nói về các giai đoạn trong cuộc sống hôn nhân. Ở đây chỉ xin lặp lại những điểm chính và xin được khai triển một vài khía cạnh.

1. TÁCH RỜI KHỎI CHA MẸ: Việc thực sự tách rời khỏi cha mẹ, được diễn tả ở đầu Sách Thánh, là điều rất quan trọng đối với phúc lợi của hôn nhân. Vợ chồng muốn tách rời khỏi cha mẹ mình, và sau này sẽ trở lại với các ngài khi thích hợp.

2. SẮP XẾP VIỂC NHÀ: Theo cách sắp xếp cổ truyền, người vợ thường phải gánh vác phần lớn công việc trong nhà. Nhưng ngày nay, càng ngày người ta càng chờ mong chồng phải tham gia vào công việc ấy, đặc biệt khi người vợ cũng đi làm, một điều thường xẩy ra ngày nay. Tuy nhiên, nói về sự đóng góp của người chồng, ta vẫn thấy có nhiều khó khăn. Ðôi khi, những lời hứa hẹn thuở mới quen nhau không còn được tuân giữ nữa sau khi đã lấy được nhau. Kết quả là bà vợ hoặc bà mẹ đi làm phải quá mệt mỏi, do đó chắc chắn sẽ ác cảm đối với chồng là người cứ nhởn nhơ coi như mình còn độc thân không bằng. Sự phân chia việc nhà do đó vẫn chưa được công bằng và thái độ không chịu giúp một tay của ông chồng sẽ có nghĩa như ông thiếu quan tâm chăm sóc đến vợ.

3. SẮP XẾP TÀI CHÁNH: Khi vợ chồng bất hoà, họ khó mà tránh được những tranh cãi về tiền bạc. Trên thực tế, nếu tiền bạc trở thành đề tài chính để tranh chấp, nó có thể gây hiệu quả tiêu cực sâu sắc và lâu bền. Người vợ có thể than phiền rằng chồng bần tiện và vô trách nhiệm. Chồng thì trái lại chê vợ không biết quản lý hoặc hoang phí trong việc trưng diện. Vợ có thể bẻ lại và cho rằng chồng hay say sưa và ham mê cờ bạc, không biết quản lý vấn đề tiền nong.

Ðôi khi người chồng bất lực không thể thanh toán được các hóa đơn đòi tiền. Thư từ để qua một bên, không chịu mở. Các thư nhắc trả tiền để đó không thèm lưu ý. Rồi thì giấy đe dọa đưa ra tòa. Người vợ nhậy cảm sẽ thấy chuyện thoái thác trách nhiệm như thế là điều không thể chịu được. Bà ta có thể trở nên nóng nẩy, bất an, lên tiếng thúc giục chồng phải hành động. Nhưng ông chồng có thể hoặc trấn an rằng đâu sẽ có đó hoặc la vợ chỉ lắm điều. Cuối cùng, đến đường cùng, người vợ có thể đề nghị để mình lãnh trách nhiệm trả các giấy đòi nợ và như thế sẽ đảm nhiệm một vai trò vốn do người chồng nắm giữ. Dù tự tin là nhờ mình mà các trách nhiệm về tài chánh đã được giải quyết, người vợ hẳn không ưa khi thấy cái gánh nặng tài chánh bỗng rơi xuống vai mình.

Mặc dù tranh chấp về các vấn đề tài chánh sẽ còn tiếp tục trong suốt cuộc hôn nhân, những bất đồng rõ rệt về tiền bạc trong những năm đầu mới lấy nhau có thể khiến người vợ phải ra đi nếu cái bầu khí vô trách nhiệm về tài chánh tỏ ra quá sức chịu đựng của bà.

4. BẠN BÈ: Trong một số hoàn cảnh, các tình bạn trước đây có thể gây khó khăn cho hai vợ chồng. Trước nhất, cũng như đối với cha mẹ, bằng hữu có thể chiếm giữ ảnh hưởng ưu thế trong cuộc sống của một trong hai vợ chồng và cái ảnh hưởng này bị người phối ngẫu kia ghét bỏ. Ðôi khi cũng có thể vì người bạn kia từng đã có lần ăn ở với một trong hai người phối ngẫu. Người phối ngẫu kia có thể bị ray rứt khổ sở, vì cứ phải so sánh tầm mức cũng như khả năng tính dục của người bạn kia với chính mình. Vợ chồng có thể cứ cật vấn nhau hoài xem chồng/vợ mình so sánh được thế nào với người bạn trước khi kết hôn kia về phương diện tính dục. Những cật vấn này có thể cứ thế kéo dài, hoặc được lặp đi lặp lại. Có khi đến tận đêm khuya khiến người phối ngẫu chịu không thấu đành nhận bừa. Khổ nỗi sự nhận bừa ấy có thể càng làm cho bạn mình tò mò hơn và bất an hơn. Vì dù có "tiết lộ" bao nhiêu bí mật đi chăng nữa cũng vẫn không vừa và do đó cật vấn vẫn tiếp diễn, tiếp diễn không phải để có tín liệu khách quan cho bằng chắc mẩm rằng vợ/chồng cũng chẳng thua gì người "tiền nhiệm". Ðôi khi người tiền nhiệm chẳng phải ai khác mà là vợ cũ chồng cũ bị nghi ngờ là vẫn còn ảnh hưởng. Những cật vấn dai dẳng ấy sẽ gậm nhắm dần sự tin tưởng của vợ chồng và sau cùng có thể kết liễu chính cuộc hôn nhân.

Một vấn đề khác của hôn nhân là khi một người có nhiều bạn bè còn người kia có rất ít. Kết quả là việc quan tâm đến bạn bè có thể bị ghét bỏ, và việc tùy thuộc vào họ có thể gây ra ghen tuông, thô bạo hoặc xua đuổi. Người chồng hoặc người vợ cô đơn kia có thể tìm cách tách người phối ngẫu mình ra khỏi vòng bạn bè và do đó biến họ cũng thành cô đơn như chính mình. Cứ kiểu này, hai vợ chồng sẽ trở thành những nhà tu ẩn dật quanh quẩn chỉ còn có nhau mà thôi.

5. VIỆC LÀM: Những năm đầu mới lấy nhau, thường người chồng vẫn tiếp tục đi làm. Hôn nhân ít khi làm gián đoạn công việc làm ăn của ông. Phần lớn các bà vợ cũng có thể vẫn tiếp tục đi làm một thời gian trước khi sinh con. Tại Anh và Wales, 705 phụ nữ có chồng đã đi làm trong năm đầu mới lấy nhau, nhưng tỷ lệ này tụt xuống còn 30% vào năm thứ năm (25). Việc sụt tỷ lệ này nhất định phải là do vấn đề sinh đẻ khiến người vợ phải tạm nghỉ làm trong một thời gian. Việc người vợ đi làm có một điểm rõ rệt đó là sự mệt mỏi do việc phải cài răng lược giữa việc làm và việc nội trợ, ngoại trừ được chồng giúp đỡ.

Về phần người vợ, việc làm không phải chỉ là phương tiện để đạt độc lập về kinh tế. Nó còn là phương thế mạnh mẽ để duy trì lòng tự hào nơi nàng, một niềm tự hào do cảm thức tức khắc về thành quả đem lại, tức là cảm thấy mình đã thực hiện được một cái gì có giá trị, có bạn bè mới, có cái thích thú do việc làm mang lại. Khi những điều ấy bị hy sinh vì sinh nở và nuôi con, thế giới của nàng trở nên như bị vây hãm. Và lúc đó là lúc nàng cần có sự hiện diện ân cần của chồng hơn bao giờ hết. Nếu sự hiện diện này không có, nàng sẽ cảm thấy mình bị bỏ rơi và không được thương yêu.

6. NGHỈ NGƠI GIẢI TRÍ: Lý tưởng nhất trong việc nghỉ ngơi giải trí là giữ được thế quân bình giữa thì giờ vui chơi với nhau và nhu cầu sống một mình để thư dãn hồi phục. Vợ chồng nào cũng nên sắp xếp trước các hoạt động vui chơi giải trí của riêng mình, thí dụ người chồng sẽ tiếp tục các sở thích thể thao hay đi nhậu nhẹt còn vợ thì đi thăm bạn bè hoặc theo đuổi các sở thích riêng khác. Tuy nhiên, các sinh hoạt riêng rẽ ấy phải đi song song với những sinh hoạt chung với nhau như cùng đi nhậu, coi phim, coi hát, coi đại nhạc hội, thăm viếng bè bạn và thân nhân.

Những kiểu thức giao du quân bình như thế sẽ gặp trục trặc nếu một trong hai người phối ngẫu tìm cách hạn chế tự do của người kia và đòi hỏi bạn mình phải từ bỏ các sở thích riêng để ở nhà với mình. Việc hạn chế các sinh hoạt vui chơi của nhau càng tệ hại hơn khi không ai còn tha thiết gì đến việc phải làm bất cứ cái gì chung với nhau nữa. Người bị hạn chế như thế sẽ cảm thấy mình như bị trói, bị cầm tù vì mọi sinh hoạt xã hội của mình đều đã bị cắt giảm. Họ thấy tù túng và oán hận cái cảnh cô lập. Cứ như gà què ăn quẩn cối xay, anh ách bên mình là cái gọng kềm bất an của vợ hoặc chồng. Người phối ngẫu không thích đi đâu và không thích gặp người khác thường coi bạn mình như một đối tượng phải có mặt ở đó để thoả mãn các đòi hỏi bệnh hoạn của mình. Một người như thế thường có những khuynh hướng sợ sệt (phobic) rõ rệt hoặc tiềm ẩn, thấy mình không dám đi đâu cũng như không dám gặp ai, và dần dà ngăn cản cả người bạn đời mình không được tự do giao du nữa.

CHIỀU KÍCH THỂ LÝ

Những năm đầu mới lấy nhau rất quan trọng trong việc thiết lập mối liên hệ tính dục. Nhiều nghiên cứu liên tiếp cho thấy sự thỏa mãn trong đời sống vợ chồng luôn đi theo sự thoả mãn về tính dục. Như đã nói trên đây, cuộc nghiên cứu tại Mỹ về 100,000 phụ nữ cho thấy 84% các bà vợ tự cho mình rất hạnh phúc đã mô tả đời sống tính dục của mình tốt hoặc rất tốt. Ngược lại, những bà cho rằng cuộc sống hôn nhân của mình bất hạnh thì thường cuộc sống tính dục của họ không được thỏa mãn (26). Một cuộc nghiên cứu tại Anh và tại Wales về 520 người đàn ông và đàn bà ly dị cho thấy 79% cảm thấy thỏa mãn về tính dục lúc ban đầu, và trong số 570 người đàn ông và đàn bà vẫn tiếp tục sống đời hôn nhân, 88% cho biết đã cảm nhận được sự thoả mãn (27). Như thế ta thấy có khoảng 12%-20% đã có những khó khăn về tính dục lúc mới lấy nhau. Các khó khăn này có thể xếp vào hai loại: một do phẩm chất khi ân ái, một do trục trặc trong cơ phận sinh dục.

Phẩm chất lúc ân ái có ý nói đến việc phải biết nhậy cảm trong nhận định (sensitive appreciation) và chính xác đáp ứng các nhu cầu của người bạn đời. Nói cách khác, phải thận trọng nhận ra những dịp người bạn đời mình muốn ân ái, chuẩn bị cẩn thận cho những tiếp xúc về xúc cảm và thể xác và khả năng của vợ chồng biết nói cho nhau nghe những điều mình muốn và mình muốn ân ái ra sao. Người chồng có thể thiếu nhậy cảm, rút ngắn giai đoạn chuẩn bị và không nhận ra việc vợ mình chưa được thoả mãn. Mà người vợ lại không chịu nói cho chồng hay điều đó sợ chồng buồn. Như thế chắc chắn liên hệ tính dục phải nghèo nàn ngay từ buổi đầu. Bên cạnh việc thiếu nhậy cảm ngay trong tác động ân ái, người chồng và cả người vợ nữa đôi lúc lại làm tình trong khi đang say, cho nên đã hành động một cách thô bạo, thiếu cả vệ sinh thân xác.

Ngoài những cách thế làm tình vụng về trên, hai vợ chồng còn có thể có những trục trặc trong cơ phận sinh dục. Một trong những trục trặc nổi bật nhất trong giai đoạn này là việc không hoàn hợp được (28). Kiểu trục trặc này thường xẩy ra như sau: trong thời gian tán tỉnh hẹn hò, hai người thường tránh giao hợp vì lý do luân lý. Sau khi lấy nhau, họ mới bắt đầu ân ái vợ chồng trong thời gian trăng mật. Người chồng ráng giao hợp nhưng cửa mình của vợ quá cứng làm cho việc giao hợp không thành. Người vợ bị căng thẳng quá và có khi kêu la vì đau. Ðứng trước tình thế đó, để tránh đau cho vợ, người chồng có thể bỏ cuộc. Trạng huống này cứ tiếp diễn như thế mãi, kết cuộc hai vợ chồng không còn dám thử chi nữa. Bên cạnh kiểu trục trặc này ta thấy một kiểu trục trặc khác đó là trường hợp một trong hai người, nhất là người chồng, kém hứng khởi làm tình. Họ chỉ làm tình mấy tuần một lần, khiến cho người kia không được thỏa mãn. Một số vấn đề khác hiếm xẩy ra hơn trong giai đoạn đầu mới lấy nhau là việc xuất tinh sớm, đôi lúc người chồng bị bất lực trồi xụt, còn người vợ thì không có khả năng hưởng thú vui ân ái hoặc chả bao giờ có được khoái ngất (29). Những biến thái tính dục ít khi là nguyên nhân gây đổ vỡ cho hôn nhân ngoại trừ trường hợp đồng tính luyến ái.

Những khó khăn trên có thể xẩy ra ngay lúc khởi đầu cuộc sống hôn nhân. Trong quá khứ, khi cơ cấu xã hội trong các vai trò hỗ tương được nhấn mạnh nhiều hơn là nội dung xúc cảm và tính dục của mối liên hệ, thì những trục trặc trong đời sống tính dục được người ta chấp nhận không kêu ca chi cả, và chắc chắn không phải là lý do làm tan vỡ hôn nhân. Nhưng ngày nay người ta chờ mong nhiều ở việc thỏa mãn bản thân, nên những nỗi thất vọng về ân ái chính là những yếu tố mạnh mẽ sẽ đưa lại những tan vỡ sau này.

CHIỀU KÍCH XÚC CẢM

Trong những năm đầu tiên này, về phương diện xúc cảm, hai vợ chồng cần phải tạo lập được một mối liên hệ trong đó họ hành xử như những người đã trưởng thành, biết cho và nhận yêu thương. Trên thực tế, nhiều khi lại không được như vậy. Trái lại có khi thay vì được nhìn như chồng hoặc vợ, người phối ngẫu bị người kia coi như cha hoặc như mẹ. Sự phóng chiếu này có thể do họ quá lệ thuộc vào một người cha hoặc một người mẹ có quá nhiều ảnh hưởng trước đây. Cái mẫu tác phong ấy được chuyên chở qua cuộc sống hôn nhân làm cho họ coi người phối ngẫu của mình như cha như mẹ. Sự phóng chiếu này có thể hữu thức, nhưng phần lớn là vô thức. Ðàng khác, người phối ngẫu của họ cũng có thể muốn được coi như cha như mẹ, có toàn quyền kiểm sóat và coi bạn mình như một đứa con lệ thuộc. Hiện tượng này được gọi là thông đồng (collusion), một kết hợp vô thức các nhu cầu hoặc các vai trò không có lợi gì cho mối liên hệ. Mối liên hệ thông đồng này rõ ràng rất dễ bị tổn thương, vì chẳng chóng thì chày, thực tại sẽ trồi lên, và cuộc hôn nhân sẽ không thể đương đầu nổi sự biến đổi thực tại ấy.

Bên cạnh sự phóng chiếu, vợ chồng còn có những mức độ nhậy cảm bản thân khác nhau. Thí dụ, một trong hai người có thể thấy khó khăn trong liên hệ gần gũi nhưng lại cần được khẳng nhận luôn luôn. Những người đàn ông đàn bà như thế thường rất khát khao được yêu thương và không chịu đựng được chán nản, thất vọng, rẫy bỏ hoặc chỉ trích. Họ rất ít khả năng chịu đựng thất vọng. Họ cảm thấy khó tin cậy người khác và những hy vọng của họ tan biến rất nhanh. Hôn nhân có khả năng đương đầu được một người phối ngẫu dễ bị thương tổn như thế hay không là còn tùy các tài nguyên của người bạn đời. Nếu người bạn đời tỏ ra nhiều thông cảm và âu yếm và nhất quán trong yêu thương, họ có thể vượt thắng được tính dè dặt hay ái ngại của người kia và nhờ thế làm tăng tiến lòng tin cậy của người ấy. Ngược lại, nếu người bạn đời tỏ ra thiếu âu yếm và quan tâm, hoặc chính mình cũng dễ thất vọng chán nản, dễ giận dữ hoặc hờn giận lâu, thì chỉ cần một hai biến cố thuộc loại đó cũng đủ làm tiêu tan lòng tin cậy và hy vọng của người phối ngẫu dễ bị thương tổn. Say sưa hoặc bài bạc có gây trở ngại cho hôn nhân thật đấy, nhưng chưa hẳn bằng cái tác phong qúa tiêu cực này.

Theo lý thuyết tương đồng lôi cuốn, những người dễ bị thương tổn lại hay sáp lại với nhau. Khổ nỗi, hai con người cùng thiếu thốn như nhau kết hôn với nhau, thì làm sao họ tìm được nơi nhau những phẩm tính yêu thương họ cần. Có khi người nhút nhát, nghèo nàn về tình cảm đi kết hôn với một người thực sự biết yêu thương. Nhưng người thực sự biết yêu thương này cũng phải chưng hửng vì người bạn đời mình dù là thiếu thốn về tình cảm vẫn không tiếp nhận được tình yêu của mình. Ngược lại chỉ biết phiền trách và ngúng nguẩy từ khước. Việc vừa ít khả năng đáp ứng yêu thương vừa nhiều khả năng phiền trách ấy chính là một khuôn mẫu xẩy ra rất thường sẽ hủy hoại cuộc sống hôn nhân. Cội rễ của tác phong đó là vì cái quá khứ cá nhân: khi lớn lên đã không được khẳng nhận nhiều, ngược lại cảm nghiệm bị ruồng rẫy lại quá cao. Dù những người như thế rất khao khát được yêu thương, nhưng vì quá tự ruồng bỏ mình và thấy mình vô giá trị, nên họ khó tin rằng có người muốn thực sự yêu thương họ. Ðây là mẫu tác phong rất thích hợp cho việc chữa lành. Người phối ngẫu biết yêu thương sẽ phải kiên trì cho đến khi người bạn đời mình có thể tin được rằng mình yêu thương họ thực sự. Từng bước, sẽ có cơ hội thứ hai để được yêu trở lại và cơ hội này sẽ có với một người phối ngẫu không bị bỏ rơi. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi người phối ngẫu biết yêu thương đâm ra mỏi mệt, cảm thấy mình bị hất hủi nên đành rút lui. Lúc người bạn đời của họ sẵn sàng hơn để tiếp nhận yêu thương, thì họ lại không còn khả năng cung hiến tình yêu nữa, và thế là cái vòng luẩn quẩn của cảnh ruồng rẫy nhau được thiết lập.

Khả năng nhậy cảm, biết tương cảm (empathetic) để nhận ra các nhu cầu của nhau là một đòi hỏi của hôn nhân hiện đại. Nói chung, các bà vợ có khả năng hơn trong việc nhận ra các nhu cầu của chồng; các ông chồng, ngược lại, khó biết lắng nghe và lượng giá cái thế giới bên trong của vợ. Nếu người vợ luôn luôn cảm thấy bị hiểu lầm hoặc không được hiểu chi cả về các nhu cầu xã hội, thể lý, xúc cảm, tri thức và tâm linh, thì chẳng chóng thì chày bà sẽ có cảm thức là mình sống với một anh chàng xa lạ, thực tế bà sẽ thấy mình cô quạnh bên một người chồng không biết đi vào thế giới nội tâm của mình.

CHIỀU KÍCH TRI THỨC VÀ TÂM LINH

Bình thường, hai vợ chồng đều có những mục tiêu tri thức và tâm linh tương tự nhau. Nếu những mục tiêu này quá khác biệt nhau, thì nguy cơ tan vỡ có thể xẩy ra.

CON CÁI

Việc chào đời của đứa con đầu tiên có một tầm quan trọng lớn đối với cuộc hôn nhân. Thường biến cố ấy có nghĩa là người vợ sẽ ngưng làm việc và trở nên tùy thuộc chồng về phương diện kinh tế. Trong những tháng đầu đời của đứa con, phần lớn các cặp vợ chồng chẳng ít thì nhiều đều phải đương đầu với mệt mỏi, cáu giận và mất hứng thú làm tình trong một thời gian. Cộng vào đó, thì giờ vui chơi giải trí cũng như sống riêng với nhau giảm đi nhiều, ngoại trừ khi hai vợ chồng có thể tìm được người tin cậy để trông nom em bé.

Một điểm nổi bật xẩy đến cho người vợ trong thời gian này là hội chứng trầm cảm (depression) sau khi sinh con. Phần lớn các bà mẹ cảm thấy buồn sầu chán nản trong một thời gian ngắn, được mệnh danh là nỗi buồn làm mẹ tím ruột (maternal blues), có thể kéo dài từ vài giờ đến vài ngày (30). Tuy nhiên, một số bà không ra khỏi cơn buồn tím ruột ấy, mà bước vào nhóm những bà trầm cảm, một chứng thường xẩy ra vào ngày thứ mười sau khi sinh. Chứng này có thể kéo dài cả tuần, cả tháng và có khi cả năm. Người vợ luôn thấy mình dễ cáu giận, giao động, mệt mỏi, không tha thiết với chuyện gối chăn và dần dần thay đổi cả nhân cách. Từ một con người hài lòng hạnh phúc, nàng kéo lê thân mình bất cứ nơi nào, trông già trước tuổi hẳn đi, không làm sao có thể đến gần chồng, cảm thấy mệt mỏi kinh niên và hết hứng thú làm tình. Lẽ tự nhiên, nếu người chồng không hiểu biết hoàn cảnh của vợ, thì hẳn không thể nào chịu đựng nổi các hành vi của nàng.

Các yếu tố xã hội có thể làm hội chứng sau khi sinh con này trở nên tồi tệ thêm. Như đã trình bầy trên đây, việc ngưng làm việc không những khiến vợ không còn lợi tức gì nữa, mà còn tước khỏi nàng các sinh hoạt với bạn bè và những nâng đỡ của họ, cũng như các hứng thú do công việc đem lại. Có những người đàn bà thấy việc nuôi con dại là việc quá khó khăn, nên chỉ mong trở lại làm việc để lấy lại sự thoải mái cho tâm hồn. Một số phụ nữ rất cần đến những người đáng tin cậy để trông con cho mình, những ấu trí viện, những vườn trẻ chuyên nghiệp, để họ có thể đi làm lại vì đi làm lại càng sớm thì càng chủ yếu đối với họ (31)

GIAI ÐOẠN HAI (30 ÐẾN 50)

Hai thập niên này là giai đoạn hôn nhân trong đó các con đã lớn, người chồng được thăng tiến nghề nghiệp
và người vợ trở ra đi làm lại. Nhưng trong cốt lõi, ta thấy đây là thời có nhiều thay đổi lớn về xã hội, xúc cảm và tâm linh. Ðây là thời, con người của ta dần dần rút ra khỏi các ảnh hưởng vốn chất chồng từ bên ngoài cũng như từ bên trong và tự ngoi lên như một nhân vị tự điều hướng lấy đời mình. Những cảm nhận, những thái độ cũng như những giá trị vừa xuất hiện có thể đã nên khác một cách căn để so với những cái có lúc mới kết hôn. Các thay đổi ấy thường phù hợp với liên tục tính của hôn nhân, vì hai vợ chồng thường cùng thay đổi theo một cung cách khá đồng nhất. Nếu không, sự lên sắc một chiều của người phối ngẫu có thể dẫn đến việc hai người trở nên tha hóa đến độ liên tục tính không còn nữa.

CHIỀU KÍCH XÃ HỘI

Trong những năm này, ngoài di động tính xã hội và các hậu quả của nó như đã bàn trên này ra, còn có việc con cái lớn lên và khi cha mẹ đến tuổi bốn mươi thì chúng đã vào tuổi thiếu niên. Lúc này là lúc cha mẹ phải chịu thêm nhiều căng thẳng, đặc biệt nếu người mẹ phải chịu quá nhiều trách nhiệm trong việc trông nom chúng. Bà có thể đương đầu với chúng khi chúng còn nhỏ, nhưng nay không còn đương đầu được khi chúng đã trở thành thiếu niên. Người cha có thể bất đắc dĩ phải can dự vào việc kiểm soát và ra kỷ luật cho con cái, và vì thế chúng có thể không ưa sự can thiệp vào một lúc muộn màng như thế của ông. Những va chạm trong gia đình trở nên thường xuyên, và nếu lại còn có những vấn đề khác phụ vào nữa, thì cuộc hôn nhân có thể gặp khó khăn đáng kể.

Những năm bốn mươi thường là những năm cha mẹ đôi bên lâm bệnh và qua đời. Cha mẹ còn lại có thể đến tá túc nơi hai vợ chồng, và điều này cũng có thể đem lại nhiều căng thẳng nếu việc đó không được cả hai nhất trí.

Ðây cũng là những năm phần đông các bà vợ trở ra đi làm lại. Việc phụ giúp để làm bà bớt căng thẳng hoàn toàn tùy thuộc ông chồng. Phần lớn các ông chồng làm được điều đó, nhưng một số ít không làm được như vậy, và điều này sẽ đem lại mệt mỏi ghê gớm cho vợ. Có những hoàn cảnh các bà thấy rằng vai tuồng duy nhất mình có thể cung ứng chỉ là vai trò làm ra tiền và nội trợ mà thôi. Cảm thức không được đánh giá và yêu thương đúng mức trái lại bị sử dụng như những tớ gái không công sẽ càng ngày càng mạnh hơn. Và cảm thức này có thể đưa đẩy họ tìm người khác biết đánh giá mình, và nếu tìm được, thì cuộc hôn nhân chắc chắn tan rã.

CHIỀU KÍCH THỂ LÝ

Giai đoạn này không có những vấn đề tính dục mới. Sự tiếp tục hiện diện của các khó khăn tính dục từ giai đoạn đầu nay bắt đầu sẽ tác động mạnh. Các ông chồng và các bà vợ có thể nhận ra rằng các khó khăn khởi đầu ấy không phải chỉ là tạm bợ. Cảm thức chán nản và thất vọng sâu xa do đó có thể đã bắt đầu từ tuổi ba mươi. Người ta bắt đầu chắc mẩm là đời sống tính dục sẽ không có cơ cải thiện nữa. Trong cái bầu khí thất vọng ấy, người ta có thể đi thử những mối tình vụng trộm xem tính dục thực sự có mùi vị như thế nào. Nếu thấy tốt, diễn trình ly thân giữa hai vợ chồng có thể bắt đầu. Cái khoái cảm của những mối tình vụng trộm có thể tái lập niềm tự hào nơi một người phối ngẫu làm họ không còn muốn trở về với những cố gắng rời rạc của người bạn đời kia nữa.

Một điểm nữa của giai đoạn này đã được nhắc đến trên đây, tức hội chứng trầm cảm kéo dài sau lúc sinh con, làm cho việc làm tình trở nên hiếm hoi hoặc không còn nữa. Ðấy cũng là hoàn cảnh gây thiệt hại lớn cho cuộc hôn nhân, cần được lưu tâm ngay.

CHIỀU KÍCH XÚC CẢM

Trong giai đoạn này, các thay đổi xúc cảm có thể rất rõ. Sự chuyển dịch từ lệ thuộc qua tự lập có thể nổi bật đem theo việc cá thể hóa bản thân và tự khám phá ra các giá trị của mình. Ngày xưa, những thay đổi như thế không đem lại ý nghĩa gì quan trọng đối với việc tồn tại của hôn nhân. Ngày nay, sự tăng trưởng nơi một người phối ngẫu đòi người kia cũng phải đáp ứng tương xứng, nếu không, cuộc hôn nhân có cơ nguy khủng hoảng. Và khủng hoảng này góp phần rất lớn đưa đến ly dị.

CHIỀU KÍCH TRI THỨC VÀ TÂM LINH

Nếu những năm 30 là thập niên thay đổi từ lệ thuộc qua tự lập, thì những năm 40 là thời gian để cái con người đã cá thể hóa kia bắt đầu hội nhập những thành phần khác nhau trong bản ngã mình. Hữu thức và vô thức, cái tốt và cái xấu (bóng tối), nam tính và nữ tính, phần giận và phần êm, mọi yếu tố lưỡng tính (ambivalences) bên trong bản ngã mình bắt đầu được giải quyết và hội nhập. Ðiều này đem lại an bình và toàn vẹn cho cá nhân, khiến họ có thể thay đổi mục tiêu trong đời (32). Họ có thể thấy cần phải thay đổi việc làm, bỏ những công việc nặng tính vật chất để theo đuổi những công việc có tính nhân đạo. Một cảm thức mới về chiều kích tâm linh có thể bùng lên, và đời họ có thể xoay qua hướng khác ở đó họ tìm được an bình nội tâm khiến họ sống một lối sống khác hẳn. Tất cả những thay đổi này không nhất thiết đe doạ cuộc sống hôn nhân ngoại trừ các người phối ngẫu thất bại hoàn toàn trong việc chia sẻ các khát vọng của nhau.

GIAI ÐOẠN BA (TỪ TUỔI 50 ÐẾN LÚC MỘT TRONG HAI QUA ÐỜI)

CHIỀU KÍCH XÃ HỘI

Diễn trình tự thể hiện và tự cá thể hoá mình, đã bắt đầu trong tuổi 40, nay vẫn tiếp tục trong tuổi 50. Ðây là thời gian sự ý thức mới về bản ngã có thể dẫn người ta đến việc chọn một nghề nghiệp mới hẳn, gây cho người vợ một tương lai không chắc chắn. Biến động ấy có thể bà chịu không được. Những người đàn ông thành công trong thương trường, các công chức về hưu sớm, tất cả những loại người này thường hay muốn thay việc mới. Ðôi khi người vợ thuận theo, đôi khi không.

Những thay đổi kiểu này chỉ ảnh hưởng một số ít. Phần đông quan tâm đến việc hoàn tất chặng cuối công việc mình đang làm, trong đó một số ít phải về hưu sớm hoặc bị thải việc. Hai trường hợp sau có thể làm người chồng ngỡ ngàng vì tự ái của mình bị đe doạ. Cảm thức tự ti có thể xâm nhập cuộc sống tư riêng và ông có thể trở nên bẳn gắt, hay gây gổ, đôi lúc lại ảo não buồn sầu và hết khả năng làm tình. Trong hoàn cảnh này, người vợ cần nâng đỡ ông rất nhiều. Nếu bà lại tỏ ra kêu ca chỉ trích hoặc thù ghét, thì cuộc hôn nhân khó tránh khỏi sóng gió nặng nề.

CHIỀU KÍCH THỂ LÝ

Một vài vấn đề đã có từ hai giai đoạn trước có thể vẫn còn tiếp diễn qua giai đoạn này với việc từ từ chấm dứt giao hợp. Thường ra thì giao hợp vẫn tiếp tục tuy có thưa thớt hơn, nhưng không có trở ngại. Vấn đề chính có thể gây ra tan vỡ cho hôn nhân là người chồng bất lực vĩnh viễn hoặc người vợ từ chối giao hợp sau khi tắt kinh.

CHIỀU KÍCH XÚC CẢM

Vấn đề quan trọng nhất trong các năm này có lẽ là hệ lụy của việc các con rời bỏ gia đình đối với tác phong xúc cảm của cha mẹ. Việc ra đi ấy khiến cha mẹ phải sống tay đôi với nhau trung bình từ 20 đến 25 năm. Ðối với một số vợ chồng, việc ra đi của các con cũng là ngày khởi đầu sự tàn lụi trong mối ien hệ của họ. Những cặp vợ chồng này rất có thể đã có ý chờ khi các con ra đi là mình sẽ chia tay nhau. Ðối với một số vợ chồng khác, cái cảnh trơ trụi của tổ ấm (empty nest), như người ta thường nói, làm họ sững sờ hoàn toàn. ien hi các con ra đi, họ nhìn nhau và ngạc nhiên thấy người bạn đời của mình như một kẻ xa lạ. Dù đã chung sống với nhau, đã ăn, đã ngủ, đã làm tình với nhau, họ vẫn chưa bao giờ thiết lập được một mối dây xúc cảm đáng tin cậy. Một hoặc cả hai chỉ đã sống qua các con chứ không hề sống qua nhau, nên khi các con lên đường, họ thấy họ có rất ít hoặc không có chi chung với nhau cả, có chăng chỉ là những kỷ niệm cùng dưỡng nuôi con cái. Khổ nỗi những kỷ niệm này mà thôi không bao giờ mạnh đủ để giữ họ ở lại với nhau.

CHIỀU KÍCH TRI THỨC VÀ TÂM LINH

Như đã nói, giai đoạn này trùng lắp giai đoạn trước. Ðây là thời kỳ tái thẩm định các giá trị sau cùng của đời người. Các kiến thức trở thành túi khôn và túi khôn này lên khuôn lại các ưu tiên trong đời đôi bạn. Vấn đề chỉ xẩy ra khi các ưu tiên này đi theo những hướng hoàn toàn khác nhau.

TÓM LƯỢC

Trong chương này chúng tôi đã trình bày tan vỡ hôn nhân như một gián đoạn lớn về xã hội đang xẩy ra trong toàn thể các xã hội phương tây. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tan vỡ ấy biến thiên từ các thay đổi vĩ mô về xã hội trong mối tương quan nam nữ, đến những yếu tố tác hại riêng rẽ về xã hội, cuối cùng bị trầm trọng hơn do các vấn đề thuộc lãnh vực ien hệ bản ngã trồi xụt tùy theo mỗi giai đoạn của cuộc sống hôn nhân. Việc hiểu biết các yếu tố này, nếu được sử dụng một cách hữu hiệu, sẽ, và thực ra đã, giúp các cặp vợ chồng tìm ra được những cách thế ngăn cản cho cuộc hôn nhân khỏi tan vỡ.

Tài liệu Tham khảo

1. Chester, R. (Ed.), Divorce in Europe. Martinus Nijhoff (Social Science Division, London) 1977.

2. Glick, P.C. and Morton, A.J., ‘Perspective on the Recent Upturnin Divorce and Remarriage’. Demography (1973) 10, 301.

3. Population Trends, No. 18. Office of Population Censuses and Surveys, HMSO, 1979.

4. Monahan, T.P. in American Sociological Review (1962) 27, 625.

5. Dahlberg, G., Acta Genetica et Statistica Medica (1948-51) 1-2, 319.

6. Chester, R. ‘The Duration of Marriage to Divorce’, British Journal of Sociology (1971) 22, 172.

7. Thornes, B. and Collard, J., Who Divorces? Routledge and Kegan Paul, 1979.

8. Ibid., p.71

9. Population Trends, No. 3. Office of Population Censuses and Surveys, HMSO, 1976.

10. Glick, P.C., American Families. Wiley, New York, 1957.

11. Christensen, H.T., ‘Time of the First Pregnancy as a Factor oin Divorce’, Eugenic Review (1963) 10, 119.

12. Thornes and Collard, p.71.

13. Population Trends, No. 3.

14. Pohlman, E.H., Psychology of Birth Planning. Shenkman, Cambridge, Mass., 1969.

15. Thornes and Collard, p.71.

16. Ibid., p. 81.

17. Rowntree, G. And Carrier, N.H., ‘The Resort to Divorce in England and Wales 1857-1957’,

Population Studies (1958) 2, 188.

18. Gibson, C., ‘The association between Divorce and Social Class in England and Wales’, British Journal of Sociology (1974) 25, 79.

19. Thornes and Collard, p.37.

20. Landis, J.T., ‘Marriage of Mixed and Non-Mixed Religious Faith’ in Selected Studies in Marriage and the Family. Holt, Rinehart and Winston, New York, 1962.

21. Landis, J.T., ‘Some Correlates of Divorce and Non-divorce in the Unhappily Married’, Marriage and Family Living (1963) 25, 178.

22. Thornes and Collard, p. 52.

23. Goode, W.J., After Divorce. Free Press. Chicago, 1956.

24. Thornes and Collard, p.52.

25. Population Trends, No. 2. Office of Population Censuses and Surveys, HMSO, 1975.

26. Levin, R.J. and Levin, A., Sexual Pleasure: The Surprising Preference of 100,000 Women. Redbook. 1975, p.52.

27. Thornes and Collard, p. 97.

28. Friedman, L.J., Virgin Wives. Tavistock Publications, 1971.

29. John, D., Sexual Dysfunction. John Wiley, 1979.

30. Pitt, B., ‘Maternity Blues’, British Journal of Psychiatry (1973) 122, 431.

31. Rapport, R., Fathers, Mothers and Others. Routledge and Kegan Paul, 1977.

32. O’Collins, G., The Second Journey. Villa Books, Dublin, 1979.