1. Quyết định của một giám mục
Với việc Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI chính thức cho phép cử hành Thánh Lễ theo Sách Lễ Rôma năm 1962, phụng vụ Thánh Lễ của Giáo Hội đi vào một thời kỳ tạm gọi là trăm hoa đua nở với nhiều hình thức cử hành khác nhau, dù cốt lõi của phụng vụ vẫn là một hành động của cả giáo hội, của cả cộng đoàn. Chính trong chiều hướng ấy, Đức Cha Edward Slattery, giám mục giáo phận Tulsa ở bang Oklahoma, Hoa Kỳ, đã quyết định cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ chính tòa của Giáo Phận bằng cách quay mặt về hướng đông.
Trong một bài đăng trên tờ The Eastern Oklahoma Catholic, số ngày 19 tháng Tám, tức hôm qua, Đức Cha Slattery cho hay đây là một cố gắng nắm bắt hình thức thờ phượng có tính Công Giáo “đích thực hơn”. Bài báo của Đức Cha tựa là: “Ad Orientem: Rivival of Ancient Rite Brings Multiple Advantages, Some Misperceptions” (“Hướng về Phía Đông: Phục Hồi Nghi Thức Xưa Đem Lại Nhiều Lợi Điểm, Một Số Quan Niệm Sai Lầm). Chúng tôi xin chuyển dịch bài của Đức Cha Slattery:
Vì Thánh Lễ hết sức cần thiết và nền tảng đối với kinh nghiệm Công Giáo của chúng ta, nên phụng vụ là đề tài luôn được chúng ta bàn bạc tới. Đó là lý do khiến mỗi lần hội lại với nhau, ta thường hay suy niệm về các lời cầu nguyện và các bài đọc, thảo luận về các bài giảng và tranh luận với nhau về âm nhạc. Yếu tố chủ chốt trong các cuộc thảo luận ấy là để hiểu được rằng sở dĩ chúng ta thờ phượng theo cách của chúng ta là do bản chất của Thánh Lễ: vốn là hy lễ của Chúa Kitô, được dâng lên dưới các dấu chỉ bí tích của bánh và rượu. Muốn cho cuộc thảo luận của chúng ta về Thánh Lễ có một ý nghĩa nào đó, thì ta phải nắm vững chân lý chủ yếu này: Trong Thánh Lễ, Chúa Kitô kết hợp ta với Người khi Người dâng mình làm hy lễ lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Ta có thể dâng mình ta như thế trong Người vì nhờ Phép Rửa, ta đã trở thành chi thể của Thân Thể Người.
Ta cũng cần nhớ rằng mọi tín hữu đều dâng Hy Lễ Thánh Thể trong tư cách là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nghĩ rằng chỉ có các linh mục dâng Thánh Lễ là điều sai lầm. Mọi tín hữu đều dự phần vào lễ dâng ấy, dù linh mục có vai trò độc đáo. Ngài thay mặt Chúa Kitô, theo lịch sử, vốn là Đầu của Nhiệm Thể Người, đến độ, trong Thánh Lễ, toàn bộ Nhiệm Thể Chúa Kitô, gồm Đầu và mọi chi thể cùng nhau dâng lễ lên Chúa Cha.
Cùng hướng về một hướng
Từ thời xa xưa, vị trí của linh mục và của giáo dân đã nói lên cái hiểu về Thánh Lễ trên đây, vì khi giáo dân đứng hay ngồi cầu nguyện, họ có mặt tại một chỗ rõ ràng tương ứng với Nhiệm Thể Chúa, trong khi linh mục đứng trên bàn thờ ở hàng đầu trong tư cách Đầu Nhiệm Thể. Chúng ta hợp thành Chúa Kitô toàn thể, gồm Đầu và tay chân, vừa xét theo tính bí tích nhờ Phép Rửa vừa xét theo tính hữu hình nhờ vị trí và các cử chỉ của chúng ta. Cũng quan trọng không kém là việc mọi người, chủ tế lẫn cộng đoàn, đều cùng quay về một hướng, vì họ đã kết hợp nên một với Chúa Kitô trong việc dâng lên Chúa Cha hy lễ độc nhất, hy lễ không tài nào lặp lại được và là hy lễ được vui lòng nhận của Chúa Kitô.
Khi nghiên cứu các tập tục phụng vụ lâu đời nhất của Giáo Hội, ta thấy rằng linh mục và giáo dân đều quay mặt về cùng một hướng, thường là hướng đông, với niềm hy vọng rằng khi quang lâm, Chúa Kitô sẽ “từ hướng đông” mà tới. Trong Thánh Lễ, Giáo Hội luôn tỉnh thức, mong chờ cuộc quang lâm ấy. Thế quay mặt đó gọi là ad orientem, đơn giản chỉ có nghĩa là hướng về hướng đông.
Nhiều lợi điểm
Linh mục và giáo dân cử hành Thánh Lễ quay mặt về hướng đông là qui phạm phụng vụ đã kéo dài gần 18 thế kỷ. Chắc chắn phải có những lý do vững chắc để Giáo Hội duy trì thế quay đó lâu đời đến thế. Và đúng như vậy! Lý do trước nhất: phụng vụ Công Giáo luôn luôn trung thành một cách kỳ diệu đối với Truyền Thống Tông Đồ. Chúng ta coi Thánh Lễ, và thực ra toàn bộ biểu thức phụng vụ trong đời sống Giáo Hội, như một điều tiếp nhận được từ chính các Tông Đồ và đến lượt ta, ta có nhiệm vụ phải trao tận tay các thế hệ sau một cách tinh tuyền (1 Cor 11:23). Lý do thứ hai, sở dĩ Giáo Hội duy trì thế hướng về hướng đông như thế là vì nó biểu lộ bản chất Thánh Lễ một cách tuyệt hảo. Ngay người không quen thuộc với Thánh Lễ nhưng chịu khó suy tư một chút về việc chủ tế và tín hữu cùng quay về một hướng, cũng sẽ nhận ra rằng linh mục đứng hàng đầu giáo dân, cùng tham dự vào một và cùng một hành động, nghĩa là hành động thờ phượng (họ sẽ thấy ra điều này, nếu chịu khó suy tư thêm một chút nữa).
Một cuộc canh tân với nhiều hậu quả khôn lường
Trong 40 năm qua, việc quay về một hướng ấy đã bị quên lãng. Hiện nay, linh mục và giáo dân đã quen thuộc với việc quay về hai hướng đối nghịch nhau. Linh mục đối diện với giáo dân và giáo dân đối diện với linh mục, mặc dù Kinh Nguyện Thánh Thể quy hướng về Chúa Cha chứ không quy hướng về giáo dân.
Việc canh tanh trên được dẫn khởi vào Giáo Hội sau Công Đồng Vatican II, một phần là để giúp giáo dân hiểu hành động phụng vụ Thánh Lễ bằng cách cho phép họ chứng kiến điều đang diễn ra, và phần khác, là để thích ứng với nền văn hóa hiện đại theo đó, người thi hành quyền bính có nhiệm vụ phải trực tiếp đối diện với dân mà họ phục vụ, như một cô giáo ngồi phía sau bàn giấy của mình. Chẳng may, việc thay đổi này đã đem lại một số hiệu quả bất ngờ và phần lớn có tính tiêu cực. Trước nhất, nó xa lìa một cách nghiêm trọng đối với truyền thống lâu đời của Giáo Hội. Thứ hai, nó cho người ta cảm nghĩ như thể linh mục và giáo dân đang tham dự một cuộc thảo luận về Thiên Chúa, chứ không hẳn đang thờ phượng Người. Thứ ba, nó dành cho con người vị chủ tế một tầm quan trọng quá đáng bằng cách đặt ngài vào một thứ sân khấu phụng vụ.
Tìm lại tính thánh thiêng
Cả trước khi được bầu làm người kế nhiệm Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã thúc giục ta rút tỉa các tập tục phụng vụ xưa của Giáo Hội để tìm lại việc thờ phượng có tính Công Giáo đích thực hơn. Chính vì thế, tôi đã phục hồi lối quay về hướng đông đầy đáng kính, khi cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa. Không nên giải thích sai việc thay đổi này, coi nó như việc Đức Cha “quay lưng lại giáo dân”, như thể tôi khinh xuất hay thù nghịch đối với họ. Giải thích như thế là quên mất rằng khi cùng quay về một hướng, thế đứng của chủ tế và của cộng đoàn minh nhiên cho thấy sự kiện này: tất cả chúng ta đang cùng nhau tiến về Thiên Chúa. Linh mục và giáo dân cùng bước đi trên cùng một hành trình. Cũng sẽ là một sai lầm nếu coi việc tìm lại truyền thống xa xưa này nguyên tuyền chỉ là việc vặn ngược lại đồng hồ. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô nhiều lần đề cập tới tầm quan trọng của việc cử hành Thánh Lễ hướng về hướng đông, nhưng ngài không hề có ý định khuyến khích các vị chủ tế trở thành “những người bán đồ cổ phụng vụ”. Đúng hơn, Đức Thánh Cha muốn chúng ta thấy ra điều nằm dưới truyền thống xa xưa kia và từng làm nó sống còn trong nhiều thế kỷ đến thế, tức là, cái hiểu của Giáo Hội rằng việc thờ phượng trong Thánh Lễ trước nhất và chủ yếu nhất là việc thờ phượng mà Chúa Kitô muốn dâng lên Chúa Cha.
2. Đức Hồng Y Ratzinger và Thánh Lễ Hướng Đông
Hướng Đông quả có tính biểu tượng cao cả trong thời Tân Ước lẫn thời Cựu Ước. Theo truyền thống, các bàn thờ đều hướng về phía đông để mọi Thánh Lễ được dâng lên, mặt hướng về phía đông. Các Kitô hữu tiên khởi rất biết ý nghĩa của hướng đông. Giống như mặt trời mọc, Chúa Kitô (được ví như Mặt Trời Công Chính và Ánh Sáng thế gian) đã sống lại vào hừng đông Chúa Nhật Phục Sinh đầu hết. Trong Cựu Ước, Tiên Tri Ezechiel từng viết rằng: “Người ấy đưa tôi tới cổng, cổng quay về phía đông, và này, vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en từ phía đông tiến vào…Vinh quang Thiên Chúa tiến vào Đền Thờ qua cổng quay về phía đông. Thần khí đưa tôi lên và dẫn tôi vào sân trong, và này vinh quang Thiên Chúa tràn ngập Đền Thờ” (Ed 43: 1-5).
Chính vì thế, như vừa nói, các nhà thờ phần lớn đều quay về phía đông, các bàn thờ cũng vậy và cho đến sau Công Đồng Vatican II, mọi người, kể cả chủ tế lẫn cộng đoàn, khi cử hành Thánh Lễ, đều cùng quay về hướng đông. Có người cho rằng Công Đồng Vatican II không những buộc phải dùng ngôn ngữ bình dân trong Thánh Lễ mà còn buộc chủ tế phải đối diện với cử tọa. Theo tiến sĩ Eamon Duffy, giáo sư môn giáo sử tại Đại Học Cambridge, thì điều đó không đúng. Vatican không hề ngăn cấm việc dùng tiếng La Tinh trong Thánh Lễ cũng như không buộc chủ tế phải quay mặt vào cộng đoàn. Theo ông, Thánh Lễ “vòng tròn” hay Thánh Lễ với linh mục đối diện với giáo dân quả có nói lên một chiều kích quan trọng của Thánh Lễ, tức chiều kích trong đó Giáo Hội trong tư cách một cộng đoàn quây quần chung quanh bàn tiệc gia đình, dưới sự hiện diện trọn vẹn của Chúa Kitô. Nhưng đó không phải là chiều kích duy nhất của Thánh Lễ mà cũng không nhất thiết phải là chiều kích quan trọng nhất. Trong Tân Ước và Giáo Hội sơ khai, Thánh Lễ trước hết là đảm bảo cho một hoàn tất đang tới; nó hướng ra khỏi mình, ra khỏi tội lỗi và gẫy đổ của đời này (và của cả Giáo Hội nữa), để hướng tới cuộc tập hợp và chữa lành vĩ đại toàn bộ nhân loại vào ngày thế mạt. Thế giới này đang lao nhọc và rên rỉ hướng tới sự hoàn tất ấy, cả Giáo Hội nữa, cũng đang lữ thứ hướng về vị Chúa của mình. Lời cầu nguyện sâu sắc nhất trong Thánh Lễ là lời cầu nguyện không hẳn xin hiệp nhất và bình an, mà là lời da diết Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến!
Giáo Hội, trong hầu hết lịch sử của mình đã nói lên chân lý trên qua thế đứng của mọi người tham dự Thánh Lễ. Linh mục và giáo dân, mọi người quay về hướng đông. Không phải vì linh mục muốn quay lưng lại giáo dân của mình, cho bằng mọi người cùng quay về một hướng, hướng mặt trời mọc, để mong chờ và cầu xin cho hừng đông Nước Thiên Chúa. Ngay trong các Vương Cung Thánh Đường Rôma, dù quay về hướng tây, nhưng khi cử hành Thánh Lễ, các vị giáo hoàng đều quay về hướng mặt trời mọc. Giáo hội Anh Giáo, dù hiện nay mô phỏng kiểu Thánh Lễ “vòng tròn” của Công Giáo hậu Vatican II, nhưng tới phần kinh nguyện Thánh Thể, các “linh mục” và phụ tá đều ra trước bàn thờ để cùng hướng về phía đông với cộng đoàn.
Chính vì thế, năm năm trước khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Hồng Y Ratzinger đã nhắc nhở chúng ta rằng bất chấp các canh tân phụng vụ gần đây, “một điều vẫn còn rõ ràng đối với toàn bộ thế giới Kitô Giáo là: cầu nguyện trong thế hướng về hướng đông là một truyền thống đã có từ thuở ban đầu. Ngài đã viết như sau trong “Tinh Thần Phụng Vụ”: “Việc cùng hướng về hướng đông không phải là một ‘cử hành hướng về bức tường’, nó cũng không có nghĩa là ‘linh mục quay lưng lại giáo dân’… Vì cũng như cộng đoàn hội đường cùng nhau hướng về Giêrusalem thế nào, thì trong phụng vụ Kitô Giáo, cộng đoàn cũng hướng về Chúa như thế… Họ không tự khép kín trong một vòng tròn, cũng không tự ngắm nhìn nhau, nhưng trong tư cách Dân Chúa đang lữ hành, họ lên đường về Phương Đông, vì ở đó Chúa Kitô đang tới để gặp gỡ chúng ta.
3. Bình luận của nhà thần học
Cha Uwe Michael Lang, một linh mục tại London, hiện là thành viên của Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Tài Văn Hóa của Giáo Hội, và là tác giả cuốn “Hướng về Chúa: Hướng Quay Trong Cầu Nguyện Phụng Vụ” được in bằng tiếng Đức trước do nhà Johannes Verlag xuất bản, sau đó được nhà Ignatius Press xuất bản bằng tiếng Anh, và liên tiếp được dịch sang tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Hung Gia Lợi và tiếng Tây Ban Nha. Ngày 21 tháng Chín năm 2007, cha có dành cho Zenit một cuộc phỏng vấn, trong đó cha cho hay những ai phê phán lối cử hành Thánh Lễ hướng về hướng đông là quay lưng lại giáo dân đã không nắm vững vấn đề chi hết vì thực ra Thánh Lễ là hành vi thờ phượng chung, trong đó, linh mục và giáo dân, đại diện cho Giáo Hội lữ hành, cùng nhau vươn tới Thiên Chúa siêu việt.
Cha cho hay, bất cứ tôn giáo nào cũng có “một hướng thánh thiêng”. Trong Do Thái Giáo đó là hướng quay về Giêrusalem, nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa siêu việt (“shekinah”) trong nơi Cực Thánh tại Đền Thờ, như đã ghi trong Đanien 6:10. Ngay sau khi Đền Thờ đã bị phá hủy, tập tục hướng về Giêrusalem vẫn được duy trì trong phụng vụ hội đường. Đó là cách người Do Thái Giáo biểu lộ niềm hy vọng cánh chung của họ đối với việc xuất hiện của Đấng Mêxia, việc tái thiết Đền Thờ, và việc tụ tập Dân Chúa từ muôn nẻo đường thế giới. Các Kitô hữu ban đầu không còn quay về Giêrusalem trần thế nữa, nhưng quay về Giêrusalem mới trên trời. Họ vững tin rằng khi Chúa Kitô quang lâm, Người sẽ tập hợp các tín đồ của mình để tạo lập nên Kinh Thành Thiên Quốc. Họ coi mặt trời mọc là biểu tượng cuộc Phục Sinh và Quang Lâm của Người, bởi thế khi cầu nguyện, họ có thói quen hướng mặt về phía đó. Từ thế kỷ thứ hai trở đi, có nhiều bằng chứng cho thấy khuynh hướng đó khắp nơi trong thế giới Kitô Giáo.
Trong Tân Ước, ý nghĩa đặc biệt của việc quay mặt về hướng đông để thờ phượng không minh nhiên lắm. Tuy nhiên, ta vẫn thấy nhiều ám chỉ trong Thánh Kinh nói về tính biểu tượng này. Malakhi 4:2 chẳng hạn nói về “mặt trời công chính”; Luca 1:78 nói tới “Vầng Đông tự chốn cao vời”; Khải Huyền 7:2 nói đến một thiên thần mang Ấn Thiên Chúa, “từ phía mặt trời mọc đi lên”; và Phúc Âm Thánh Gioan hay nói tới hình ảnh ánh sáng. Mátthêu 24:27-30 nói rõ hơn: “Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy”.
Theo Cha Lang, giữa việc cầu nguyện quay mặt về hướng đông và thánh giá có một mối liên hệ gắn bó, ít nhất cũng từ hế kỷ thứ 4, nếu không muốn nói sớm hơn. Vì tới lúc đó, các Kitô hữu thường đánh dấu hướng cầu nguyện bằng dấu thánh giá trên bức tường phía đông của hậu cung các vương cung thánh đường cũng như trong vác phòng riêng của các đan sĩ. Đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất, các nhà thần học thuộc nhiều trường phái khác nhau đều coi việc cầu nguyện quay mặt về hướng đông là một trong các thực hành để phân biệt Kitô Giáo với các tôn giáo khác vùng Cận Đông: người Do Thái Giáo cầu nguyện hướng về Giêrusalem, người Hồi Giáo hướng về Mecca, nhưng các Kitô hữu thì hướng về phía đông.
Cha cũng cho hay phụng vụ hướng về hướng đông vốn có trong các truyền thống Byzantine, Syriac, Armenian, Coptic và Ethiopian. Ngày nay nó vẫn là tập tục của phần lớn các Giáo Hội Đông Phương, ít nhất cũng trong Kinh Nguyện Thánh Thể, như Giáo Hội Anh Giáo. Ngay như đối với các giáo hội đông phương hiệp nhất với Rôma, năm 1996, Tòa Thánh cũng khuyên họ không nên bắt chước lối cử hành Thành Lễ quay mặt vào giáo dân, mà nên duy trì lối cổ truyền quay mặt về hướng đông.
Về những lý do khiến cho có việc dù Công Đồng Vatican II không minh nhiên đề cập tới, nhưng sau Công Đồng ấy đã có việc xoay bàn thờ hướng về cộng đoàn, Cha Lang cho hay có thể có hai lý do. Lý do thứ nhất: có người cho rằng lối cử hành quay về phía cộng đoàn hay đứng vòng tròn là tập tục có từ thời Giáo Hội sơ khai. Bản văn Lễ Quy trước năm 1962 có lời nguyện nguyên văn như sau: “Meménto, Dómine, famulórum famularúmque tuárum, N. et N.; et ómnium circumstántium, quorum tibi fides cógnita est…” (Lạy Chúa xin nhớ tới các tôi tá nam nữ Chúa là N. và N.; và mọi người đang đứng quanh đây mà Chúa rất biết lòng tin của họ…). Có người căn cứ vào chữ circumstantium, một chữ vốn gồm chữ circum: chung quanh và stantes: người đứng, mà cho rằng ngày xưa Thánh Lễ được cử hành theo kiểu đứng vòng tròn. Nhưng theo cha Lang, các cuộc nghiên cứu cẩn thận đã không ủng hộ quan điểm ấy và ngày nay, trong bản Lễ Quy Rôma, kiểu nói ấy cũng đã được bỏ qua. Lý do thứ hai: nguyên tắc “tham dự tích cực” được Thánh Giáo Hoàng Piô X dẫn nhập và hết sức chủ yếu đối với sắc lệnh "Sacrosanctum Concilium" về phụng vụ của Công Đồng Vatican II đòi phải quay mặt về giáo dân khi cử hành Thánh Lễ. Nhưng theo cha Lang, trong cuốn “Tinh Thần Phụng Vụ”, Đức Hồng Y Ratzinger đưa ra một phân biệt rất hữu ích giữa việc tham dự Phụng Vụ Lời Chúa, là một phụng vụ đòi có những hành động bên ngoài, và phụng Vụ Thánh Thể, trong đó, các hành động bên ngoài chỉ có tính phụ thuộc, vì việc tham dự nội tâm mới là tâm điểm của vấn đề. Trong tông huấn hậu thượng hội đồng mới đây tựa là "Sacramentum Caritatis", Đức Bênêđíctô XVI đã đề cập đến vấn đề này ở đoạn 52. Theo đó, người ta đã hiểu lầm thuật ngữ “tham dự tích cực”. Việc tham dự ấy không hề hàm ý các hành động bên ngoài, mà là phải ý thức nhiều hơn tới mầu nhiệm đang cử hành và mối tương quan của nó với cuộc sống hằng ngày.
Về khía cạnh này, Cha Lang nhấn mạnh rằng thực ra trong qui luật cử hành Thánh Lễ mới do Đức Phaolô VI công bố năm 1970, linh mục được phép quay mặt về phía giáo dân trong lúc cử hành phụng vụ Lời Chúa và cùng quay lên bàn thờ với giáo dân trong lúc cử hành phụng vụ Thánh Thể, nhất là phần Lễ Quy.
Cha cũng cho hay Bản Huấn Thị Tái Duyệt Sách Lễ Rôma, được công bố lần đầu năm 2000 để nghiên cứu, dường như đã cho rằng việc cử hành Thánh Lễ quay về hướng đông là việc không nên làm. Nhưng khi trả lời một câu hỏi của Đức Hồng Y Christoph Schonborn, TGM Vienna, vào ngày 25 tháng Chín năm 2000, Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích đã bác bỏ lối giải thích này. Như thế phải hiểu tinh thần của Huấn Thị dưới ánh sáng của bản trả lời này.
Cha cũng hy vọng rằng với việc cho phép cử hành Thánh Lễ theo Sách Lễ Rôma năm 1962, các nghi ngại đối với việc hướng về hướng đông dần dần sẽ được đánh tan, giúp người ta tái khám phá và biết đánh giá đúng lối cử hành truyền thống này.
Với việc Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI chính thức cho phép cử hành Thánh Lễ theo Sách Lễ Rôma năm 1962, phụng vụ Thánh Lễ của Giáo Hội đi vào một thời kỳ tạm gọi là trăm hoa đua nở với nhiều hình thức cử hành khác nhau, dù cốt lõi của phụng vụ vẫn là một hành động của cả giáo hội, của cả cộng đoàn. Chính trong chiều hướng ấy, Đức Cha Edward Slattery, giám mục giáo phận Tulsa ở bang Oklahoma, Hoa Kỳ, đã quyết định cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ chính tòa của Giáo Phận bằng cách quay mặt về hướng đông.
Trong một bài đăng trên tờ The Eastern Oklahoma Catholic, số ngày 19 tháng Tám, tức hôm qua, Đức Cha Slattery cho hay đây là một cố gắng nắm bắt hình thức thờ phượng có tính Công Giáo “đích thực hơn”. Bài báo của Đức Cha tựa là: “Ad Orientem: Rivival of Ancient Rite Brings Multiple Advantages, Some Misperceptions” (“Hướng về Phía Đông: Phục Hồi Nghi Thức Xưa Đem Lại Nhiều Lợi Điểm, Một Số Quan Niệm Sai Lầm). Chúng tôi xin chuyển dịch bài của Đức Cha Slattery:
Vì Thánh Lễ hết sức cần thiết và nền tảng đối với kinh nghiệm Công Giáo của chúng ta, nên phụng vụ là đề tài luôn được chúng ta bàn bạc tới. Đó là lý do khiến mỗi lần hội lại với nhau, ta thường hay suy niệm về các lời cầu nguyện và các bài đọc, thảo luận về các bài giảng và tranh luận với nhau về âm nhạc. Yếu tố chủ chốt trong các cuộc thảo luận ấy là để hiểu được rằng sở dĩ chúng ta thờ phượng theo cách của chúng ta là do bản chất của Thánh Lễ: vốn là hy lễ của Chúa Kitô, được dâng lên dưới các dấu chỉ bí tích của bánh và rượu. Muốn cho cuộc thảo luận của chúng ta về Thánh Lễ có một ý nghĩa nào đó, thì ta phải nắm vững chân lý chủ yếu này: Trong Thánh Lễ, Chúa Kitô kết hợp ta với Người khi Người dâng mình làm hy lễ lên Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Ta có thể dâng mình ta như thế trong Người vì nhờ Phép Rửa, ta đã trở thành chi thể của Thân Thể Người.
Ta cũng cần nhớ rằng mọi tín hữu đều dâng Hy Lễ Thánh Thể trong tư cách là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Nghĩ rằng chỉ có các linh mục dâng Thánh Lễ là điều sai lầm. Mọi tín hữu đều dự phần vào lễ dâng ấy, dù linh mục có vai trò độc đáo. Ngài thay mặt Chúa Kitô, theo lịch sử, vốn là Đầu của Nhiệm Thể Người, đến độ, trong Thánh Lễ, toàn bộ Nhiệm Thể Chúa Kitô, gồm Đầu và mọi chi thể cùng nhau dâng lễ lên Chúa Cha.
Cùng hướng về một hướng
Từ thời xa xưa, vị trí của linh mục và của giáo dân đã nói lên cái hiểu về Thánh Lễ trên đây, vì khi giáo dân đứng hay ngồi cầu nguyện, họ có mặt tại một chỗ rõ ràng tương ứng với Nhiệm Thể Chúa, trong khi linh mục đứng trên bàn thờ ở hàng đầu trong tư cách Đầu Nhiệm Thể. Chúng ta hợp thành Chúa Kitô toàn thể, gồm Đầu và tay chân, vừa xét theo tính bí tích nhờ Phép Rửa vừa xét theo tính hữu hình nhờ vị trí và các cử chỉ của chúng ta. Cũng quan trọng không kém là việc mọi người, chủ tế lẫn cộng đoàn, đều cùng quay về một hướng, vì họ đã kết hợp nên một với Chúa Kitô trong việc dâng lên Chúa Cha hy lễ độc nhất, hy lễ không tài nào lặp lại được và là hy lễ được vui lòng nhận của Chúa Kitô.
Khi nghiên cứu các tập tục phụng vụ lâu đời nhất của Giáo Hội, ta thấy rằng linh mục và giáo dân đều quay mặt về cùng một hướng, thường là hướng đông, với niềm hy vọng rằng khi quang lâm, Chúa Kitô sẽ “từ hướng đông” mà tới. Trong Thánh Lễ, Giáo Hội luôn tỉnh thức, mong chờ cuộc quang lâm ấy. Thế quay mặt đó gọi là ad orientem, đơn giản chỉ có nghĩa là hướng về hướng đông.
Nhiều lợi điểm
Linh mục và giáo dân cử hành Thánh Lễ quay mặt về hướng đông là qui phạm phụng vụ đã kéo dài gần 18 thế kỷ. Chắc chắn phải có những lý do vững chắc để Giáo Hội duy trì thế quay đó lâu đời đến thế. Và đúng như vậy! Lý do trước nhất: phụng vụ Công Giáo luôn luôn trung thành một cách kỳ diệu đối với Truyền Thống Tông Đồ. Chúng ta coi Thánh Lễ, và thực ra toàn bộ biểu thức phụng vụ trong đời sống Giáo Hội, như một điều tiếp nhận được từ chính các Tông Đồ và đến lượt ta, ta có nhiệm vụ phải trao tận tay các thế hệ sau một cách tinh tuyền (1 Cor 11:23). Lý do thứ hai, sở dĩ Giáo Hội duy trì thế hướng về hướng đông như thế là vì nó biểu lộ bản chất Thánh Lễ một cách tuyệt hảo. Ngay người không quen thuộc với Thánh Lễ nhưng chịu khó suy tư một chút về việc chủ tế và tín hữu cùng quay về một hướng, cũng sẽ nhận ra rằng linh mục đứng hàng đầu giáo dân, cùng tham dự vào một và cùng một hành động, nghĩa là hành động thờ phượng (họ sẽ thấy ra điều này, nếu chịu khó suy tư thêm một chút nữa).
Một cuộc canh tân với nhiều hậu quả khôn lường
Trong 40 năm qua, việc quay về một hướng ấy đã bị quên lãng. Hiện nay, linh mục và giáo dân đã quen thuộc với việc quay về hai hướng đối nghịch nhau. Linh mục đối diện với giáo dân và giáo dân đối diện với linh mục, mặc dù Kinh Nguyện Thánh Thể quy hướng về Chúa Cha chứ không quy hướng về giáo dân.
Việc canh tanh trên được dẫn khởi vào Giáo Hội sau Công Đồng Vatican II, một phần là để giúp giáo dân hiểu hành động phụng vụ Thánh Lễ bằng cách cho phép họ chứng kiến điều đang diễn ra, và phần khác, là để thích ứng với nền văn hóa hiện đại theo đó, người thi hành quyền bính có nhiệm vụ phải trực tiếp đối diện với dân mà họ phục vụ, như một cô giáo ngồi phía sau bàn giấy của mình. Chẳng may, việc thay đổi này đã đem lại một số hiệu quả bất ngờ và phần lớn có tính tiêu cực. Trước nhất, nó xa lìa một cách nghiêm trọng đối với truyền thống lâu đời của Giáo Hội. Thứ hai, nó cho người ta cảm nghĩ như thể linh mục và giáo dân đang tham dự một cuộc thảo luận về Thiên Chúa, chứ không hẳn đang thờ phượng Người. Thứ ba, nó dành cho con người vị chủ tế một tầm quan trọng quá đáng bằng cách đặt ngài vào một thứ sân khấu phụng vụ.
Tìm lại tính thánh thiêng
Cả trước khi được bầu làm người kế nhiệm Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã thúc giục ta rút tỉa các tập tục phụng vụ xưa của Giáo Hội để tìm lại việc thờ phượng có tính Công Giáo đích thực hơn. Chính vì thế, tôi đã phục hồi lối quay về hướng đông đầy đáng kính, khi cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa. Không nên giải thích sai việc thay đổi này, coi nó như việc Đức Cha “quay lưng lại giáo dân”, như thể tôi khinh xuất hay thù nghịch đối với họ. Giải thích như thế là quên mất rằng khi cùng quay về một hướng, thế đứng của chủ tế và của cộng đoàn minh nhiên cho thấy sự kiện này: tất cả chúng ta đang cùng nhau tiến về Thiên Chúa. Linh mục và giáo dân cùng bước đi trên cùng một hành trình. Cũng sẽ là một sai lầm nếu coi việc tìm lại truyền thống xa xưa này nguyên tuyền chỉ là việc vặn ngược lại đồng hồ. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô nhiều lần đề cập tới tầm quan trọng của việc cử hành Thánh Lễ hướng về hướng đông, nhưng ngài không hề có ý định khuyến khích các vị chủ tế trở thành “những người bán đồ cổ phụng vụ”. Đúng hơn, Đức Thánh Cha muốn chúng ta thấy ra điều nằm dưới truyền thống xa xưa kia và từng làm nó sống còn trong nhiều thế kỷ đến thế, tức là, cái hiểu của Giáo Hội rằng việc thờ phượng trong Thánh Lễ trước nhất và chủ yếu nhất là việc thờ phượng mà Chúa Kitô muốn dâng lên Chúa Cha.
2. Đức Hồng Y Ratzinger và Thánh Lễ Hướng Đông
Hướng Đông quả có tính biểu tượng cao cả trong thời Tân Ước lẫn thời Cựu Ước. Theo truyền thống, các bàn thờ đều hướng về phía đông để mọi Thánh Lễ được dâng lên, mặt hướng về phía đông. Các Kitô hữu tiên khởi rất biết ý nghĩa của hướng đông. Giống như mặt trời mọc, Chúa Kitô (được ví như Mặt Trời Công Chính và Ánh Sáng thế gian) đã sống lại vào hừng đông Chúa Nhật Phục Sinh đầu hết. Trong Cựu Ước, Tiên Tri Ezechiel từng viết rằng: “Người ấy đưa tôi tới cổng, cổng quay về phía đông, và này, vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en từ phía đông tiến vào…Vinh quang Thiên Chúa tiến vào Đền Thờ qua cổng quay về phía đông. Thần khí đưa tôi lên và dẫn tôi vào sân trong, và này vinh quang Thiên Chúa tràn ngập Đền Thờ” (Ed 43: 1-5).
Chính vì thế, như vừa nói, các nhà thờ phần lớn đều quay về phía đông, các bàn thờ cũng vậy và cho đến sau Công Đồng Vatican II, mọi người, kể cả chủ tế lẫn cộng đoàn, khi cử hành Thánh Lễ, đều cùng quay về hướng đông. Có người cho rằng Công Đồng Vatican II không những buộc phải dùng ngôn ngữ bình dân trong Thánh Lễ mà còn buộc chủ tế phải đối diện với cử tọa. Theo tiến sĩ Eamon Duffy, giáo sư môn giáo sử tại Đại Học Cambridge, thì điều đó không đúng. Vatican không hề ngăn cấm việc dùng tiếng La Tinh trong Thánh Lễ cũng như không buộc chủ tế phải quay mặt vào cộng đoàn. Theo ông, Thánh Lễ “vòng tròn” hay Thánh Lễ với linh mục đối diện với giáo dân quả có nói lên một chiều kích quan trọng của Thánh Lễ, tức chiều kích trong đó Giáo Hội trong tư cách một cộng đoàn quây quần chung quanh bàn tiệc gia đình, dưới sự hiện diện trọn vẹn của Chúa Kitô. Nhưng đó không phải là chiều kích duy nhất của Thánh Lễ mà cũng không nhất thiết phải là chiều kích quan trọng nhất. Trong Tân Ước và Giáo Hội sơ khai, Thánh Lễ trước hết là đảm bảo cho một hoàn tất đang tới; nó hướng ra khỏi mình, ra khỏi tội lỗi và gẫy đổ của đời này (và của cả Giáo Hội nữa), để hướng tới cuộc tập hợp và chữa lành vĩ đại toàn bộ nhân loại vào ngày thế mạt. Thế giới này đang lao nhọc và rên rỉ hướng tới sự hoàn tất ấy, cả Giáo Hội nữa, cũng đang lữ thứ hướng về vị Chúa của mình. Lời cầu nguyện sâu sắc nhất trong Thánh Lễ là lời cầu nguyện không hẳn xin hiệp nhất và bình an, mà là lời da diết Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến!
Giáo Hội, trong hầu hết lịch sử của mình đã nói lên chân lý trên qua thế đứng của mọi người tham dự Thánh Lễ. Linh mục và giáo dân, mọi người quay về hướng đông. Không phải vì linh mục muốn quay lưng lại giáo dân của mình, cho bằng mọi người cùng quay về một hướng, hướng mặt trời mọc, để mong chờ và cầu xin cho hừng đông Nước Thiên Chúa. Ngay trong các Vương Cung Thánh Đường Rôma, dù quay về hướng tây, nhưng khi cử hành Thánh Lễ, các vị giáo hoàng đều quay về hướng mặt trời mọc. Giáo hội Anh Giáo, dù hiện nay mô phỏng kiểu Thánh Lễ “vòng tròn” của Công Giáo hậu Vatican II, nhưng tới phần kinh nguyện Thánh Thể, các “linh mục” và phụ tá đều ra trước bàn thờ để cùng hướng về phía đông với cộng đoàn.
Chính vì thế, năm năm trước khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Hồng Y Ratzinger đã nhắc nhở chúng ta rằng bất chấp các canh tân phụng vụ gần đây, “một điều vẫn còn rõ ràng đối với toàn bộ thế giới Kitô Giáo là: cầu nguyện trong thế hướng về hướng đông là một truyền thống đã có từ thuở ban đầu. Ngài đã viết như sau trong “Tinh Thần Phụng Vụ”: “Việc cùng hướng về hướng đông không phải là một ‘cử hành hướng về bức tường’, nó cũng không có nghĩa là ‘linh mục quay lưng lại giáo dân’… Vì cũng như cộng đoàn hội đường cùng nhau hướng về Giêrusalem thế nào, thì trong phụng vụ Kitô Giáo, cộng đoàn cũng hướng về Chúa như thế… Họ không tự khép kín trong một vòng tròn, cũng không tự ngắm nhìn nhau, nhưng trong tư cách Dân Chúa đang lữ hành, họ lên đường về Phương Đông, vì ở đó Chúa Kitô đang tới để gặp gỡ chúng ta.
3. Bình luận của nhà thần học
Cha Uwe Michael Lang, một linh mục tại London, hiện là thành viên của Ủy Ban Giáo Hoàng về Gia Tài Văn Hóa của Giáo Hội, và là tác giả cuốn “Hướng về Chúa: Hướng Quay Trong Cầu Nguyện Phụng Vụ” được in bằng tiếng Đức trước do nhà Johannes Verlag xuất bản, sau đó được nhà Ignatius Press xuất bản bằng tiếng Anh, và liên tiếp được dịch sang tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Hung Gia Lợi và tiếng Tây Ban Nha. Ngày 21 tháng Chín năm 2007, cha có dành cho Zenit một cuộc phỏng vấn, trong đó cha cho hay những ai phê phán lối cử hành Thánh Lễ hướng về hướng đông là quay lưng lại giáo dân đã không nắm vững vấn đề chi hết vì thực ra Thánh Lễ là hành vi thờ phượng chung, trong đó, linh mục và giáo dân, đại diện cho Giáo Hội lữ hành, cùng nhau vươn tới Thiên Chúa siêu việt.
Cha cho hay, bất cứ tôn giáo nào cũng có “một hướng thánh thiêng”. Trong Do Thái Giáo đó là hướng quay về Giêrusalem, nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa siêu việt (“shekinah”) trong nơi Cực Thánh tại Đền Thờ, như đã ghi trong Đanien 6:10. Ngay sau khi Đền Thờ đã bị phá hủy, tập tục hướng về Giêrusalem vẫn được duy trì trong phụng vụ hội đường. Đó là cách người Do Thái Giáo biểu lộ niềm hy vọng cánh chung của họ đối với việc xuất hiện của Đấng Mêxia, việc tái thiết Đền Thờ, và việc tụ tập Dân Chúa từ muôn nẻo đường thế giới. Các Kitô hữu ban đầu không còn quay về Giêrusalem trần thế nữa, nhưng quay về Giêrusalem mới trên trời. Họ vững tin rằng khi Chúa Kitô quang lâm, Người sẽ tập hợp các tín đồ của mình để tạo lập nên Kinh Thành Thiên Quốc. Họ coi mặt trời mọc là biểu tượng cuộc Phục Sinh và Quang Lâm của Người, bởi thế khi cầu nguyện, họ có thói quen hướng mặt về phía đó. Từ thế kỷ thứ hai trở đi, có nhiều bằng chứng cho thấy khuynh hướng đó khắp nơi trong thế giới Kitô Giáo.
Trong Tân Ước, ý nghĩa đặc biệt của việc quay mặt về hướng đông để thờ phượng không minh nhiên lắm. Tuy nhiên, ta vẫn thấy nhiều ám chỉ trong Thánh Kinh nói về tính biểu tượng này. Malakhi 4:2 chẳng hạn nói về “mặt trời công chính”; Luca 1:78 nói tới “Vầng Đông tự chốn cao vời”; Khải Huyền 7:2 nói đến một thiên thần mang Ấn Thiên Chúa, “từ phía mặt trời mọc đi lên”; và Phúc Âm Thánh Gioan hay nói tới hình ảnh ánh sáng. Mátthêu 24:27-30 nói rõ hơn: “Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy”.
Theo Cha Lang, giữa việc cầu nguyện quay mặt về hướng đông và thánh giá có một mối liên hệ gắn bó, ít nhất cũng từ hế kỷ thứ 4, nếu không muốn nói sớm hơn. Vì tới lúc đó, các Kitô hữu thường đánh dấu hướng cầu nguyện bằng dấu thánh giá trên bức tường phía đông của hậu cung các vương cung thánh đường cũng như trong vác phòng riêng của các đan sĩ. Đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất, các nhà thần học thuộc nhiều trường phái khác nhau đều coi việc cầu nguyện quay mặt về hướng đông là một trong các thực hành để phân biệt Kitô Giáo với các tôn giáo khác vùng Cận Đông: người Do Thái Giáo cầu nguyện hướng về Giêrusalem, người Hồi Giáo hướng về Mecca, nhưng các Kitô hữu thì hướng về phía đông.
Cha cũng cho hay phụng vụ hướng về hướng đông vốn có trong các truyền thống Byzantine, Syriac, Armenian, Coptic và Ethiopian. Ngày nay nó vẫn là tập tục của phần lớn các Giáo Hội Đông Phương, ít nhất cũng trong Kinh Nguyện Thánh Thể, như Giáo Hội Anh Giáo. Ngay như đối với các giáo hội đông phương hiệp nhất với Rôma, năm 1996, Tòa Thánh cũng khuyên họ không nên bắt chước lối cử hành Thành Lễ quay mặt vào giáo dân, mà nên duy trì lối cổ truyền quay mặt về hướng đông.
Về những lý do khiến cho có việc dù Công Đồng Vatican II không minh nhiên đề cập tới, nhưng sau Công Đồng ấy đã có việc xoay bàn thờ hướng về cộng đoàn, Cha Lang cho hay có thể có hai lý do. Lý do thứ nhất: có người cho rằng lối cử hành quay về phía cộng đoàn hay đứng vòng tròn là tập tục có từ thời Giáo Hội sơ khai. Bản văn Lễ Quy trước năm 1962 có lời nguyện nguyên văn như sau: “Meménto, Dómine, famulórum famularúmque tuárum, N. et N.; et ómnium circumstántium, quorum tibi fides cógnita est…” (Lạy Chúa xin nhớ tới các tôi tá nam nữ Chúa là N. và N.; và mọi người đang đứng quanh đây mà Chúa rất biết lòng tin của họ…). Có người căn cứ vào chữ circumstantium, một chữ vốn gồm chữ circum: chung quanh và stantes: người đứng, mà cho rằng ngày xưa Thánh Lễ được cử hành theo kiểu đứng vòng tròn. Nhưng theo cha Lang, các cuộc nghiên cứu cẩn thận đã không ủng hộ quan điểm ấy và ngày nay, trong bản Lễ Quy Rôma, kiểu nói ấy cũng đã được bỏ qua. Lý do thứ hai: nguyên tắc “tham dự tích cực” được Thánh Giáo Hoàng Piô X dẫn nhập và hết sức chủ yếu đối với sắc lệnh "Sacrosanctum Concilium" về phụng vụ của Công Đồng Vatican II đòi phải quay mặt về giáo dân khi cử hành Thánh Lễ. Nhưng theo cha Lang, trong cuốn “Tinh Thần Phụng Vụ”, Đức Hồng Y Ratzinger đưa ra một phân biệt rất hữu ích giữa việc tham dự Phụng Vụ Lời Chúa, là một phụng vụ đòi có những hành động bên ngoài, và phụng Vụ Thánh Thể, trong đó, các hành động bên ngoài chỉ có tính phụ thuộc, vì việc tham dự nội tâm mới là tâm điểm của vấn đề. Trong tông huấn hậu thượng hội đồng mới đây tựa là "Sacramentum Caritatis", Đức Bênêđíctô XVI đã đề cập đến vấn đề này ở đoạn 52. Theo đó, người ta đã hiểu lầm thuật ngữ “tham dự tích cực”. Việc tham dự ấy không hề hàm ý các hành động bên ngoài, mà là phải ý thức nhiều hơn tới mầu nhiệm đang cử hành và mối tương quan của nó với cuộc sống hằng ngày.
Về khía cạnh này, Cha Lang nhấn mạnh rằng thực ra trong qui luật cử hành Thánh Lễ mới do Đức Phaolô VI công bố năm 1970, linh mục được phép quay mặt về phía giáo dân trong lúc cử hành phụng vụ Lời Chúa và cùng quay lên bàn thờ với giáo dân trong lúc cử hành phụng vụ Thánh Thể, nhất là phần Lễ Quy.
Cha cũng cho hay Bản Huấn Thị Tái Duyệt Sách Lễ Rôma, được công bố lần đầu năm 2000 để nghiên cứu, dường như đã cho rằng việc cử hành Thánh Lễ quay về hướng đông là việc không nên làm. Nhưng khi trả lời một câu hỏi của Đức Hồng Y Christoph Schonborn, TGM Vienna, vào ngày 25 tháng Chín năm 2000, Thánh Bộ Thờ Phượng và Bí Tích đã bác bỏ lối giải thích này. Như thế phải hiểu tinh thần của Huấn Thị dưới ánh sáng của bản trả lời này.
Cha cũng hy vọng rằng với việc cho phép cử hành Thánh Lễ theo Sách Lễ Rôma năm 1962, các nghi ngại đối với việc hướng về hướng đông dần dần sẽ được đánh tan, giúp người ta tái khám phá và biết đánh giá đúng lối cử hành truyền thống này.