CUỘC XƯNG ÐẠO VÀ TỬ ÐẠO
CỦA LINH MỤC ANRÊ TRẦN AN DŨNG (LẠC)
(bị bắt 10-11-1839, xử trảm 21-12-1839)
Cha Anrê Dũng sinh khoảng năm 1795 tại tỉnh Bắc Ninh. Cha mẹ không có đạo. Năm 12 tuổi cậu Dũng đi về Hà Nội rồi theo đạo và ở nhà thầy với Cha chính Leroy (Lan) đang làm bề trên trường Kẻ Vĩnh.
Cậu Dũng có trí nhớ lạ lùng, xem giấy tờ gì chỉ hai lần là nhớ hết, một tuần lễ đã học thuộc hết sách bổn. Ngài còn thông thạo chữ Nho và chữ La Tinh. Sau 3 năm ở trường Kẻ Vĩnh, cậu Dũng được rửa tội và giao cho một cha Việt Nam trông coi, 8 năm sau được lĩnh bằng thầy giảng. Tiếp tục làm thầy giảng được 10 năm thì bề trên sai thầy về học lý đoán để làm linh mục. Ngày 15-3-1823 thầy Dũng được Ðức Cha Longer phong chức linh mục, lúc ấy mới có 28 tuổi.
Trước hết Cha Dũng được sai đi giúp Cha Khiết ở Ðồng Chuối rồi giúp Cha Thi ở xứ Ðoài và Cha Duyệt ở Sơn Miêng. Sau đó Ðức Cha cử ngài làm chính xứ Kẻ Ðầm lúc ngài 40 tuổi. Ở đâu Cha Dũng cũng được mọi người quí mến vì ngài đối xử khôn khéo lại giảng đạo sốt sắng. Ngài rất nhiệm nhặt trong việc ăn mặc. Mùa chay, ngài ăn chay mọi ngày, nhiều khi cả những ngày thứ Tư và thứ Sáu trong năm nữa. Trong thời kỳ bị cấm đạo Cha Dũng phải trà trộn ở trong nhà giáo dân, nếu họ dọn cơm thịt hay cá lớn thì ngài trách: "Ðừng làm như vậy, hãy mua tôm tép như thường dân khác mà ăn".
Cha Dũng còn có lòng thương giúp những người nghèo túng. Khi được mời đi kẻ liệt, ngài đi một mình để tránh cho các thầy khỏi bị bắt. Khi không đi làm phúc được, Cha Dũng thường sai các thầy đi các nơi để thăm hỏi và khuyên bảo giáo dân tìm đến ngài mà xưng tội. Lúc ngài coi xứ Kẻ Ðầm thì các nhà chung đã phải rỡ hết.
Năm 1835 ông Lý Nhâm vì ghét Tổng Thìn là người có đạo, muốn cho ông phải tội đã đem lính đến bắt Cha Dũng cùng với 30 giáo dân đang xem lễ ở Kẻ Sui. Ông Tổng Thìn phải đưa 6 nén bạc cho quan huyện Hào Khánh ở Ðôn Thư xin liệu việc với quan phủ cho khỏi án. Quan huyện lấy 4 nén còn hai nén cho người nhà quan phủ và trình rằng: "Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui mà quan bắt thì xin tha".
Cha Dũng được tha về còn những người khác bị giam lại 21 ngày. Sau đó Cha Dũng phải đổi tên là Lạc vì quan quân đã biết đến tên ngài. Cha Lạc thường hay xuống tỉnh Nam Ðịnh thăm viếng an ủi các giáo dân bị bắt. Ngài nói với những người khác rằng: "Những người chết vì đạo thì được lên thiên đàng ngay, còn tôi cứ phải ẩn trốn và mất nhiều tiền bạc mới thoát khỏi tay các quan, thà rằng tôi bị bắt và chết vì đạo thì hơn".
Sau 7 năm làm cha sở Kẻ Ðầm, khoảng 4 năm sau lần bị bắt trước, Cha Lạc bị bắt lại ngày 10-11-1839, khi ngài sang thăm và xưng tội với Cha già Thi ở Kẻ Sui. Ông Lý Pháp không biết Cha Lạc nên có nhiều người dục ngài trốn đi, nhưng ngài nói: "Phó mặc cho ý Thiên Chúa, đây sẽ là lần thứ hai tôi bị bắt vì Chúa Giêsu Kitô".
Vì vậy khi Lý Pháp hỏi ngài có phải là cụ đạo không, ngài nhận ngay nên bị bắt trói lại. Giáo dân muốn có cha giúp đỡ phần thiêng liêng cho họ nên đã phải chạy tiền mới xin cho Cha Lạc được tự do. Cha Lạc dùng thuyền về nhà nhưng trên đường gặp mưa gió lớn phải đến một nhà quen trú ẩn. Cũng lúc đó, vì nghe Lý Pháp bắt được cụ đạo nên quan huyện đang dẫn người đi tới. Người nhà thấy vậy vội hô lên nho nhỏ để người chèo thuyền không ghé lên bờ: - "Quan! Quan!"
Nhưng người chèo thuyền lại nghĩ là người ta nói đùa nên cứ ghé lên bờ. Cha Lạc liền bị chận hỏi, ngài nhận mình là cụ đạo nên bị bắt trói còn những người khác chạy trốn được. Ðêm ấy Cha Lạc ngồi nói chuyện vui vẻ với lính canh và người nhà quan. Cha nói: "Vua cấm đạo và Ðức Chúa Trời định cho tôi phải bắt, tôi không sợ gì, trái lại vui nữa là khác".
Sáng hôm sau quan ngồi ăn một mâm, Cha Lạc cũng ngồi ăn một mâm, quan nói: "Ông ngồi một mình một mâm thì cũng là quan, ông là quan bên đạo, tôi là quan bên đời".
Trước khi đưa về huyện, quan sai làm gông bằng tre nhẹ đeo vào cổ Cha Lạc.
Về tới huyện Bình Lục, quan nói với Cha Lạc: "Tôi không có ý bắt ông nhưng kẻ tố giác cứ lên cáo mãi nên tôi phải đi".
Cha Lạc thưa lại: "Ông không có ý bắt tôi thì hãy tha tôi về".
Quan đáp: "Bây giờ sự việc đã lộ rồi không làm gì được nữa".
Quan nói như vậy là có ý muốn ăn tiền đút lót, nên giáo dân lo gom góp tiền, và ông Cửu Bình cũng muốn cầm cả cơ nghiệp để có đủ tiền chuộc cha về, ông viết thư cho ngài: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì".
Ðức Cha Retord (Liêu) cũng sai Thầy Sự mang 5 nén bạc đi chuộc Cha Thi và Cha Lạc, đức cha nói: "Hai cụ ấy tốt lắm, có thể chuộc được thì chuộc".
Cha Lạc nói lại với Thầy Sự: "Thầy nghĩ mà xem, tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì nói bổn đạo đừng chuộc tôi nữa".
Quan huyện lấy lời ngọt ngào dụ dỗ hai cha quá khóa, với Cha Lạc ông nói: "Thầy đạo, thầy biết nhiều chữ nghĩa và còn trẻ nữa thì tại sao lại muốn chết, có phải là uổng không? Hãy tin tôi đi, nhắm mắt lại bước qua ảnh thánh hoặc chỉ đi vòng chung quanh, nếu thầy muốn thì để cho lính của tôi khiêng thầy qua, tôi sẽ làm án tha ngay".
Cha Lạc dõng dạc thưa lại: "Tôi không bao giờ làm theo ý quan vừa nói đâu. Hãy khép án tôi phải cắt trăm mảnh thì hơn".
Không lay chuyển được lòng hai cha, quan huyện làm tờ trình là bắt được hai cha ở ngoài ruộng để không ai bị phiền vạ lây, rồi dẫn giải cả hai về Hà Nội giao cho quan án. Về sau Cha Lạc sai người nhà mang rượu và 100 viên thuốc biếu quan huyện để cám ơn ông đã khai như vậy.
Với giáo dân đi theo tiễn đưa khóc lóc, Cha Lạc nói: "Chúng tôi cám ơn anh chị em, anh chị em hãy về nhà và sốt sắng làm tôi thờ phượng Chúa cũng như là chúng tôi còn ở giữa anh chị em. Than khóc như thế này không có ích lợi gì mà còn tăng thêm sự phiền khổ cho chúng tôi".
Ngay ngày hôm sau khi vào nhà tù ở Hà Nội, ngày 17-11, các quan bắt đầu cuộc thẩm vấn, chính Cha Lạc thuật lại trong thơ gởi cho Ðức Cha Jeantet như sau: "Ngày 17, quan đã giao nộp chúng con cho quan án để truyền lệnh bắt chúng con bước qua ảnh thánh giá. Vì chúng con từ khước nên năm sáu anh lính xấn lại khiêng chúng con qua. Cha Thi đã ôm được thánh giá nhấc lên và hôn kính. Phần con, con cho chân lên rất cao và nói với họ: - 'Hãy chặt bớt chân ta đi, ta rất bằng lòng chứ đừng hòng trông ta chối đạo’.
Sau đó quan lại hỏi vì sao đạo không cho phép thờ kính tổ tiên. Con đáp lại: 'Nếu có ai chào khi cha mẹ đang ngủ thì không có kể là tôn kính bởi vì các ngài không biết gì. Cũng một lẽ ấy còn mạnh hơn đối với người đã chết'.
Ngày 19 các quan lại gọi chúng con ra tòa lần thứ hai để ép buộc chúng con. Lần này họ bắt con đeo gông nặng hơn, và ngày 21 lại thay bằng xiềng. Xiềng của Cha Thi nhẹ hơn. Bốn ngày đầu con cứ chảy nước mắt hoài khi nghĩ đến các cha thừa sai và các anh em con. Nhưng từ ngày 15 tới nay thì con vui vẻ và bằng lòng, coi các khổ cực như không. Con thương Cha Thi vì tuổi cao không kham nổi những khốn khổ. Chúa đã thêm sức cho chúng con để không lo lắng gì nữa".
Ðức Cha Jeantet viết thư cho hai cha để nâng đỡ các ngài bền gan chịu khổ cho đến cùng và xin Cha Lạc thuật lại các câu đối đáp với các quan. Cha Lạc đã viết thư trả lời: "Thưa Ðức Cha, khi chúng con được thư đức cha an ủi thì cảm động chảy nước mắt ra. Chúng con là gì mà được các cha thương lo lắng. Chúng con được biết đạo thật là nhờ ơn các đức cha và các cha thừa sai. Chúng con không biết nói sao cho hết lòng biết ơn của chúng con. Riêng với đức cha, xin đức cha cầu cùng Chúa cho chúng con được giữ nghĩa cùng Chúa cho đến cùng. Chúng con đã viết tất cả những gì xảy ra cho chúng con trong tù cho đến bây giờ, con vẫn phải đối đáp những lời châm biếm của các người tù khác châm biếm đạo thánh. Con xin đức cha thương nhớ đến chúng con. Trong nhà tù rất khó viết thư cũng như nhận thư. Con không còn gì để viết. Vững mạnh như núi thái. Trần An Dũng".
Ngày 30-11, các quan cho đòi hai cha lên để ký nhận bản án. Tuy nhiên các quan còn cố ép các cha quá khóa. Một người nhắc đến việc Thầy Phanxicô đã muốn chết hơn là chối đạo. Cha Lạc nhân cơ hội nói lên sự can đảm của mình: "Người tín hữu mà quan vừa nói chỉ là một đồ đệ của chúng tôi, đã biết chọn nghĩa vụ hơn là sự sống. Còn chúng tôi là các thầy đạo lại kém lòng can đảm hơn không dám đi theo con đường chúng tôi đã vạch ra cho họ sao? Không bao giờ, thưa các quan, các quan đừng chờ đợi việc hèn nhát này".
Các quan bế mạc phiên tòa nói với nhau: "Bọn chúng bám vào tôn giáo đến nỗi điên khùng".
Ba lần bị tra khảo nhưng các ngài không bị đánh đập tàn nhẫn, chỉ một vài cái tát mà thôi. Cha Lạc làm một bài thơ gửi cho Cha Thực nói lên chí khí của người Kitô:
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan.
Bút chép thơ này gửi thở than.
Lòng nhớ bạn non còn vất vả.
Dạ thương khách chạy chưa yên hàn.
Ðông qua tiết lại thời xuân tới.
Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Làm kẻ anh hùng chi quản khó.
Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn.
Tuy không phải chịu khốn khổ nhiều nhưng lòng các cha hằng muốn cho mình được xứng đáng đổ máu đào vì Chúa. Các ngài xin với những người nhà cầu nguyện để các ngài được bền vững trong khi chờ án tử. Các quan đã làm án xử trảm cho các ngài. Ngày 20 Cha Trân mang Mình Thánh Chúa cho hai cha. Ngày hôm sau bản châu phê án được mang về tới Hà Nội. Cha Dũng cùng với Cha già Thi vui mừng hát thánh ca theo chân lý hình ra khỏi thành. Tới nơi, các ngài quì cầu nguyện, ngước mắt lên trời và nghiêng cổ ra cho lý hình chém. Nhiều người làm chứng là đã nhìn thấy một con chim trắng, to lớn hơn chim bồ câu, bay lượn trên các ngài lúc hành quyết. Lệnh quan vừa dứt, đầu Cha Dũng cũng rơi xuống đất.
CUỘC XƯNG ÐẠO VÀ TỬ ÐẠO
CỦA LINH MỤC PHÊRÔ PHẠM VĂN THI
(bị bắt 10-11-1839, xử trảm 21-12-1839)
Cha Phêrô Phạm Văn Thi sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nội, trong một gia đình rất đạo đức. Ngài có cháu ruột cũng tử vì đạo là Thánh Ðường.
Vì cha mẹ nghèo, từ nhỏ cậu Thi phải đi chăn trâu cho nhà dòng ở Kẻ Ðầm cũng thuộc một nhà Kẻ Sở. Các bà thấy cậu Thi có nết na lễ độ thì xin cha xứ nuôi và cho vào nhà Ðức Chúa Trời. Năm ấy cậu được 12 tuổi. Sau nhiều năm học La Tinh trong nhà tràng, cậu Thi được chính thức nhận vao bậc kẻ giảng năm 1796. Thầy Thi sốt sắng và nhiệt thành với bổn phận, lại có nhiều năng khiếu nên đuợc bề trên gọi về học thần học và chịu chức linh mục ngày 22-3-1806. Năm ấy cha được 43 tuổi.
Trước hết Cha Thi được bổ nhiệm coi xứ Sông Chảy thuộc vùng Hưng-Tuyên. Ngài ở đó 27 năm cho đến năm 1833. Giáo dân đã làm chứng về ngài như sau: "Cha Thi là người nhân đức khác thường, mỗi ngày ngài đọc kinh lâu giờ ba bốn lần, làm lễ nghiêm trang, hay bị sốt và đau bụng, có nhân đức tiết kiệm, khắc khổ trong việc ăn uống và thường ăn chay các ngày thứ Sáu".
Ðức Cha Phó Jeantet (Du) cũng khen cha như sau: "Tôi quen biết Cha Thi từ năm 1835 và rất thán phục cha là người phúc độ sốt sắng, trung thành tuân giữ các luật chung, hiền lành và khôn ngoan".
Ðặc biệt Cha Thi trổi trang về nhân đức khó nghèo và muốn cho mọi người khác cũng bắt chước yêu chuộng nhân đức ấy. Cha chỉ mặc áo vải nâu và đội khăn sồi mà thôi. Tại nhà xứ, mọi người trong nhà phải giữ phép tắc, chăm chỉ học hành, đọc sách và không được chuyện trò lâu với đàn bà. Chính Cha Thi khi tiếp khách cũng rất mực khiêm tốn, ít lời, nhưng với các cha khác thì ngài vui vẻ vồn vã hơn. Mỗi năm ngài chỉ ở trong xứ hai tháng, còn lại đi thăm các họ lẻ, sốt sắng dậy dỗ và khuyên bảo con chiên bổn đạo. Có một lần đi làm phúc ở họ Thác Ba ngài bị đắm thuyền, người giúp việc chết đuối nhưng ngài nhờ ôm hòm đồ lễ đã thoát nạn.
Năm 1833, Cha Thi đã 70 tuổi được bề trên đổi về xứ Kẻ Sông trong sự nhớ nhung của bổn đạo xứ Sông Chảy. Thời kỳ này có cuộc bắt đạo dữ dội, Cha Thi phải trốn ẩn trong nhà giáo dân không thể đi làm phúc được. Nhiều khi người ta không dám mời ngài đi giúp bệnh nhân sắp chết vì sợ ngài bị bắt, nhưng ngài bảo họ phải liệu mọi cách để giúp người sắp chết, còn nếu Chúa muốn cho phải chịu khổ vì đạo thì hoàn toàn phó thác theo ý Chúa. Dù tuổi cao sức yếu và hay bị bệnh Cha Thi vẫn không bao giờ kêu ca, mà vẫn luôn yên ủi và niềm nở với mọi người. Ngài ở Kẻ Sông được 7 năm thì ý Chúa muốn cho cha được làm chứng lời chân thật ngài đã rao giảng bằng cái chết anh hùng vì đức tin.
Cha Dũng (Lạc) ở xứ bên cạnh thường sang gặp Cha Thi để bàn hỏi và xưng tội. Ngày 10-11-1839, hai cha đang ở nhà ông khán Hộ thì ông lý trưởng Pháp cùng với bốn gia nhân đến bắt. Lúc bấy giờ là giữa trưa. Hay tin, Cha Thi vội đi trốn vào phòng riêng nhưng Lý Pháp đã theo sát ngài và bắt ngài trói lại. Cha Dũng cũng bị bắt luôn. Sau một hồi lâu Lý Pháp cởi trói cho hai cha và mời cùng ngồi để đàm luận. Lý Pháp bắt đầu nói với hai cha: "Tại sao có lệnh vua cấm đạo rồi mà các ông cứ lén lút dậy đạo?"
Cha Thi đáp: "Thiên Chúa sai chúng tôi đi để dậy người ta tập tành nhân đức làm việc thiện, tôn kính cha mẹ. Ðạo chúng tôi không dậy điều gì sai trái cả".
- "Dù đạo phải hay trái, không thành vấn đề, nhưng có lệnh vua cấm thì tôi bắt các ông".
Các ngài đáp lại điều đó tùy ý quan. Tuy nói là lệnh vua cấm nhưng ông lý trưởng đã đề nghị nộp cho ông 300 quan tiền ông sẽ trả tự do. Các cha nói với ông điều đó tùy giáo dân. Quan cho gọi người đứng đầu trong họ đạo để dàn xếp nội vụ. Giáo dân chỉ có 200 quan để nộp nên ông chỉ trả tự do cho Cha Lạc, còn bắt Cha Thi. Khi trở về, Cha Lạc lại bị bắt lần nữa khiến ông lý trưởng sợ lộ tẩy đã phải giải Cha Thi về huyện quan Bình Lục. Trên đường hai cha gặp lại nhau trong cảnh tù đầy.
Quan huyện được giáo dân đút lót chút đỉnh nên làm tờ phúc trình bắt được các cụ ở ngoài đồng để giáo dân không ai bị liên lụy. Thấy Cha Thi có tuổi mà trời rất lạnh, quan huyện mới hỏi Cha Thi xem có chăn đắp không thì người lính nói thay là Lý Pháp đã lấy rồi. Quan truyền lệnh phải trả chăn lại cho cụ Thi. Quan huyện tiếp đón các ngài rất tử tế, mời các ngài ngồi trên phản có chiếu sạch. Khi giáo dân dọn cơm thì quan bắt lấy mâm của mình mà dọn cho các ngài. Sau ba ngày, quan huyện giải hai cha về Hà Nội, có đông giáo dân theo khóc lóc. Thấy vậy quan huyện nói: "Ðạo dậy những gì mà giáo dân thương tiếc các cụ như thế?"
Một bà đạo đức đứng gần thưa lại quan: "Bẩm quan lớn, các cụ dậy chúng tôi những điều nhân đức, chồng phải hiền lành, đừng cờ bạc, rượu chè, còn vợ thì phải biết nhịn nhục, vâng lời chồng".
Vì Cha Thi đã nhiều tuổi không đi được nữa, quan bảo giáo dân thuê cáng mà mang ngài. Trước khi lên đường quan huyện còn giết heo cúng tế trời đất và biện bạch: "Không phải lỗi tại tôi muốn bắt bớ những người hiền lành mà chỉ vì tôi phải theo lệnh. Xin án phạt có xuống thì xuống trên người đã ra lệnh".
Ngày 16-11, Cha Thi được giải đến Hà Nội và giam trong trại gần cửa đông, không phải ở chung với các tù phạm khác. Các tên lính canh cũng rất tử tế với các ngài, chúng nói: "Chúng tôi biết hai cụ không phải như các tù nhân khác. Hai cụ hiền không nghĩ đến việc trốn đi nên chúng tôi chẳng dám làm khổ các cụ".
Vì thế Cha Thi không phải mang gông cùm bao giờ, còn Cha Dũng (Lạc) phải mang gông có ba tối. Thức ăn giáo dân mang đến hai cha cũng chia sẻ cho lính canh. Mỗi ngày hai buổi các cụ đọc kinh chung với nhau. Có bà Ro thuộc nhà dòng Kẻ Uối và tổng Thìn lo săn sóc các việc vật chất cho hai ngài.
Hai cha phải tra hỏi ba lần. Phần Cha Thi vì già và nghễnh ngãng nên Cha Dũng thưa thay. Quan huyện cũng bẩm với quan thượng rằng: "Hai thầy đạo thà chịu chết chứ không bước qua ảnh đạo, tôi đã thúc ép hai lần ở dưới huyện mà không thành công. Hai người thật thà xin quan lớn thương".
Lần thứ ba quan thượng bảo hai cha quá khóa nhưng các ngài không chịu, một tên lính liền đẩy Cha Dũng ngã xuống. Cha Thi vì già vẫn ngồi yên liền sấp mình xuống ôm chân thánh giá.
Trước lòng kiên quyết của các ngài, quan làm bản án tử hình cho các ngài như sau: "Sau khi họp hội đồng, các thần là Nguyễn Phúc Hoan, quan hộ, và Lương Mộc Quang, quan án, đã xem xét kỹ lưỡng hai tội phạm Trần An Lạc và Phạm Văn Thi đã theo tà đạo từ thuở nhỏ và dụ dỗ lê dân. Họ đã ghi khắc sâu đạo lý sai lầm từ lâu chứ không phải một vài ngày. Hoàng thượng đã ra nhiều chỉ dụ cấm dậy dỗ dân chúng đạo này và bắt từ bỏ những thói tục sai trái, thế nhưng họ chẳng những đã không tuân lệnh mà còn tàng trữ sách đạo và ẩn trốn cho đến ngày bị bắt. Ðược khuyên bảo bước qua ảnh họ vẫn một mực cố chấp xin được chết hơn là làm điều này. Hiển nhiên là đạo này đã ăn sâu vào tâm hồn chúng. Chúng thần xét nghĩ là họ đáng chết theo như luật quốc gia đã định rằng kẻ nào tàng trữ sách quấy quá, hoặc dậy dỗ thực hành quái lạ thì phải giam trong ngục cho đến khi được định thể khác. Vậy đối với hai tội phạm Trần An Lạc và Phạm Văn Thi các thần muốn áp dụng khoản luật vừa nói nhưng chúng đáng chịu một hình phạt nặng nề hơn, phải chém đầu để răn bảo những người khác".
Ðể chuẩn bị cho ngày được dâng mạng sống mình vì đức tin, Cha Thi thường xuyên đọc kinh cầu nguyện và ăn chay hãm mình mỗi tuần 4 ngày. Ngày 21-12 cha được rước Mình Thánh lần cuối cùng do Cha Trân mang vào. Giữa trưa hôm đó có người lính báo rằng bản phê án của vua đã tới. Cha Thi nói ngay: "Ðúng là án của chúng tôi rồi".
Tức thì cha và Cha Dũng phân phát cho lính canh các đồ dùng còn lại. Ngay sau đó ông lãnh binh đã đem lính đến nhà giam để dẫn giải các ngài đến pháp trường. Cha Thi vì yếu đã ngã trên đường. Lúc ấy có một tên lính đến nói nhỏ mình cũng là người tín hữu Kitô xin được cõng cha trên lưng. Cha Thi đã cởi đôi xăng đan, một đồ dùng cuối cùng, và cho anh ta. Tới Ô Cầu Giấy, Cha Thi quì cầu nguyện trên chiếc chiếu do các bà dòng đã trải sẵn. Ngài cầu nguyện và dáng điệu vững vàng hơn bao giờ hết. Trước khi hành quyết, quan giám sát truyền lệnh cấm không ai được thấm máu tử tù và khi có hiệu thì phải chém đồng loạt. Khi hiệu vừa ban ra, tên lý hình điêu luyện đã chém cổ ngài vừa khít để lại một chút da treo đầu trên cổ để giáo dân dễ dàng ráp lại. Nhưng quan lại bắt phải lấy hẳn đầu ra rồi ông và đoàn tùy tùng mới rút lui.
Giáo dân thu xác Cha Thi lại đem về an táng tại Kẻ Sở. Tên lý trưởng đã bắt Cha Thi về sau bị Chúa phạt hóa ra điên, còn cô con gái lấy khăn thánh may yếm để mặc đã bị thổ tả chết một ngày sau khi mặc yếm vào người.(Trích Giòng Máu Anh Hùng Tử Đạo)
CỦA LINH MỤC ANRÊ TRẦN AN DŨNG (LẠC)
(bị bắt 10-11-1839, xử trảm 21-12-1839)
Cha Anrê Dũng sinh khoảng năm 1795 tại tỉnh Bắc Ninh. Cha mẹ không có đạo. Năm 12 tuổi cậu Dũng đi về Hà Nội rồi theo đạo và ở nhà thầy với Cha chính Leroy (Lan) đang làm bề trên trường Kẻ Vĩnh.
Cậu Dũng có trí nhớ lạ lùng, xem giấy tờ gì chỉ hai lần là nhớ hết, một tuần lễ đã học thuộc hết sách bổn. Ngài còn thông thạo chữ Nho và chữ La Tinh. Sau 3 năm ở trường Kẻ Vĩnh, cậu Dũng được rửa tội và giao cho một cha Việt Nam trông coi, 8 năm sau được lĩnh bằng thầy giảng. Tiếp tục làm thầy giảng được 10 năm thì bề trên sai thầy về học lý đoán để làm linh mục. Ngày 15-3-1823 thầy Dũng được Ðức Cha Longer phong chức linh mục, lúc ấy mới có 28 tuổi.
Trước hết Cha Dũng được sai đi giúp Cha Khiết ở Ðồng Chuối rồi giúp Cha Thi ở xứ Ðoài và Cha Duyệt ở Sơn Miêng. Sau đó Ðức Cha cử ngài làm chính xứ Kẻ Ðầm lúc ngài 40 tuổi. Ở đâu Cha Dũng cũng được mọi người quí mến vì ngài đối xử khôn khéo lại giảng đạo sốt sắng. Ngài rất nhiệm nhặt trong việc ăn mặc. Mùa chay, ngài ăn chay mọi ngày, nhiều khi cả những ngày thứ Tư và thứ Sáu trong năm nữa. Trong thời kỳ bị cấm đạo Cha Dũng phải trà trộn ở trong nhà giáo dân, nếu họ dọn cơm thịt hay cá lớn thì ngài trách: "Ðừng làm như vậy, hãy mua tôm tép như thường dân khác mà ăn".
Cha Dũng còn có lòng thương giúp những người nghèo túng. Khi được mời đi kẻ liệt, ngài đi một mình để tránh cho các thầy khỏi bị bắt. Khi không đi làm phúc được, Cha Dũng thường sai các thầy đi các nơi để thăm hỏi và khuyên bảo giáo dân tìm đến ngài mà xưng tội. Lúc ngài coi xứ Kẻ Ðầm thì các nhà chung đã phải rỡ hết.
Năm 1835 ông Lý Nhâm vì ghét Tổng Thìn là người có đạo, muốn cho ông phải tội đã đem lính đến bắt Cha Dũng cùng với 30 giáo dân đang xem lễ ở Kẻ Sui. Ông Tổng Thìn phải đưa 6 nén bạc cho quan huyện Hào Khánh ở Ðôn Thư xin liệu việc với quan phủ cho khỏi án. Quan huyện lấy 4 nén còn hai nén cho người nhà quan phủ và trình rằng: "Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui mà quan bắt thì xin tha".
Cha Dũng được tha về còn những người khác bị giam lại 21 ngày. Sau đó Cha Dũng phải đổi tên là Lạc vì quan quân đã biết đến tên ngài. Cha Lạc thường hay xuống tỉnh Nam Ðịnh thăm viếng an ủi các giáo dân bị bắt. Ngài nói với những người khác rằng: "Những người chết vì đạo thì được lên thiên đàng ngay, còn tôi cứ phải ẩn trốn và mất nhiều tiền bạc mới thoát khỏi tay các quan, thà rằng tôi bị bắt và chết vì đạo thì hơn".
Sau 7 năm làm cha sở Kẻ Ðầm, khoảng 4 năm sau lần bị bắt trước, Cha Lạc bị bắt lại ngày 10-11-1839, khi ngài sang thăm và xưng tội với Cha già Thi ở Kẻ Sui. Ông Lý Pháp không biết Cha Lạc nên có nhiều người dục ngài trốn đi, nhưng ngài nói: "Phó mặc cho ý Thiên Chúa, đây sẽ là lần thứ hai tôi bị bắt vì Chúa Giêsu Kitô".
Vì vậy khi Lý Pháp hỏi ngài có phải là cụ đạo không, ngài nhận ngay nên bị bắt trói lại. Giáo dân muốn có cha giúp đỡ phần thiêng liêng cho họ nên đã phải chạy tiền mới xin cho Cha Lạc được tự do. Cha Lạc dùng thuyền về nhà nhưng trên đường gặp mưa gió lớn phải đến một nhà quen trú ẩn. Cũng lúc đó, vì nghe Lý Pháp bắt được cụ đạo nên quan huyện đang dẫn người đi tới. Người nhà thấy vậy vội hô lên nho nhỏ để người chèo thuyền không ghé lên bờ: - "Quan! Quan!"
Nhưng người chèo thuyền lại nghĩ là người ta nói đùa nên cứ ghé lên bờ. Cha Lạc liền bị chận hỏi, ngài nhận mình là cụ đạo nên bị bắt trói còn những người khác chạy trốn được. Ðêm ấy Cha Lạc ngồi nói chuyện vui vẻ với lính canh và người nhà quan. Cha nói: "Vua cấm đạo và Ðức Chúa Trời định cho tôi phải bắt, tôi không sợ gì, trái lại vui nữa là khác".
Sáng hôm sau quan ngồi ăn một mâm, Cha Lạc cũng ngồi ăn một mâm, quan nói: "Ông ngồi một mình một mâm thì cũng là quan, ông là quan bên đạo, tôi là quan bên đời".
Trước khi đưa về huyện, quan sai làm gông bằng tre nhẹ đeo vào cổ Cha Lạc.
Về tới huyện Bình Lục, quan nói với Cha Lạc: "Tôi không có ý bắt ông nhưng kẻ tố giác cứ lên cáo mãi nên tôi phải đi".
Cha Lạc thưa lại: "Ông không có ý bắt tôi thì hãy tha tôi về".
Quan đáp: "Bây giờ sự việc đã lộ rồi không làm gì được nữa".
Quan nói như vậy là có ý muốn ăn tiền đút lót, nên giáo dân lo gom góp tiền, và ông Cửu Bình cũng muốn cầm cả cơ nghiệp để có đủ tiền chuộc cha về, ông viết thư cho ngài: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì".
Ðức Cha Retord (Liêu) cũng sai Thầy Sự mang 5 nén bạc đi chuộc Cha Thi và Cha Lạc, đức cha nói: "Hai cụ ấy tốt lắm, có thể chuộc được thì chuộc".
Cha Lạc nói lại với Thầy Sự: "Thầy nghĩ mà xem, tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì nói bổn đạo đừng chuộc tôi nữa".
Quan huyện lấy lời ngọt ngào dụ dỗ hai cha quá khóa, với Cha Lạc ông nói: "Thầy đạo, thầy biết nhiều chữ nghĩa và còn trẻ nữa thì tại sao lại muốn chết, có phải là uổng không? Hãy tin tôi đi, nhắm mắt lại bước qua ảnh thánh hoặc chỉ đi vòng chung quanh, nếu thầy muốn thì để cho lính của tôi khiêng thầy qua, tôi sẽ làm án tha ngay".
Cha Lạc dõng dạc thưa lại: "Tôi không bao giờ làm theo ý quan vừa nói đâu. Hãy khép án tôi phải cắt trăm mảnh thì hơn".
Không lay chuyển được lòng hai cha, quan huyện làm tờ trình là bắt được hai cha ở ngoài ruộng để không ai bị phiền vạ lây, rồi dẫn giải cả hai về Hà Nội giao cho quan án. Về sau Cha Lạc sai người nhà mang rượu và 100 viên thuốc biếu quan huyện để cám ơn ông đã khai như vậy.
Với giáo dân đi theo tiễn đưa khóc lóc, Cha Lạc nói: "Chúng tôi cám ơn anh chị em, anh chị em hãy về nhà và sốt sắng làm tôi thờ phượng Chúa cũng như là chúng tôi còn ở giữa anh chị em. Than khóc như thế này không có ích lợi gì mà còn tăng thêm sự phiền khổ cho chúng tôi".
Ngay ngày hôm sau khi vào nhà tù ở Hà Nội, ngày 17-11, các quan bắt đầu cuộc thẩm vấn, chính Cha Lạc thuật lại trong thơ gởi cho Ðức Cha Jeantet như sau: "Ngày 17, quan đã giao nộp chúng con cho quan án để truyền lệnh bắt chúng con bước qua ảnh thánh giá. Vì chúng con từ khước nên năm sáu anh lính xấn lại khiêng chúng con qua. Cha Thi đã ôm được thánh giá nhấc lên và hôn kính. Phần con, con cho chân lên rất cao và nói với họ: - 'Hãy chặt bớt chân ta đi, ta rất bằng lòng chứ đừng hòng trông ta chối đạo’.
Sau đó quan lại hỏi vì sao đạo không cho phép thờ kính tổ tiên. Con đáp lại: 'Nếu có ai chào khi cha mẹ đang ngủ thì không có kể là tôn kính bởi vì các ngài không biết gì. Cũng một lẽ ấy còn mạnh hơn đối với người đã chết'.
Ngày 19 các quan lại gọi chúng con ra tòa lần thứ hai để ép buộc chúng con. Lần này họ bắt con đeo gông nặng hơn, và ngày 21 lại thay bằng xiềng. Xiềng của Cha Thi nhẹ hơn. Bốn ngày đầu con cứ chảy nước mắt hoài khi nghĩ đến các cha thừa sai và các anh em con. Nhưng từ ngày 15 tới nay thì con vui vẻ và bằng lòng, coi các khổ cực như không. Con thương Cha Thi vì tuổi cao không kham nổi những khốn khổ. Chúa đã thêm sức cho chúng con để không lo lắng gì nữa".
Ðức Cha Jeantet viết thư cho hai cha để nâng đỡ các ngài bền gan chịu khổ cho đến cùng và xin Cha Lạc thuật lại các câu đối đáp với các quan. Cha Lạc đã viết thư trả lời: "Thưa Ðức Cha, khi chúng con được thư đức cha an ủi thì cảm động chảy nước mắt ra. Chúng con là gì mà được các cha thương lo lắng. Chúng con được biết đạo thật là nhờ ơn các đức cha và các cha thừa sai. Chúng con không biết nói sao cho hết lòng biết ơn của chúng con. Riêng với đức cha, xin đức cha cầu cùng Chúa cho chúng con được giữ nghĩa cùng Chúa cho đến cùng. Chúng con đã viết tất cả những gì xảy ra cho chúng con trong tù cho đến bây giờ, con vẫn phải đối đáp những lời châm biếm của các người tù khác châm biếm đạo thánh. Con xin đức cha thương nhớ đến chúng con. Trong nhà tù rất khó viết thư cũng như nhận thư. Con không còn gì để viết. Vững mạnh như núi thái. Trần An Dũng".
Ngày 30-11, các quan cho đòi hai cha lên để ký nhận bản án. Tuy nhiên các quan còn cố ép các cha quá khóa. Một người nhắc đến việc Thầy Phanxicô đã muốn chết hơn là chối đạo. Cha Lạc nhân cơ hội nói lên sự can đảm của mình: "Người tín hữu mà quan vừa nói chỉ là một đồ đệ của chúng tôi, đã biết chọn nghĩa vụ hơn là sự sống. Còn chúng tôi là các thầy đạo lại kém lòng can đảm hơn không dám đi theo con đường chúng tôi đã vạch ra cho họ sao? Không bao giờ, thưa các quan, các quan đừng chờ đợi việc hèn nhát này".
Các quan bế mạc phiên tòa nói với nhau: "Bọn chúng bám vào tôn giáo đến nỗi điên khùng".
Ba lần bị tra khảo nhưng các ngài không bị đánh đập tàn nhẫn, chỉ một vài cái tát mà thôi. Cha Lạc làm một bài thơ gửi cho Cha Thực nói lên chí khí của người Kitô:
Lạc rầy đã rõ chốn quân quan.
Bút chép thơ này gửi thở than.
Lòng nhớ bạn non còn vất vả.
Dạ thương khách chạy chưa yên hàn.
Ðông qua tiết lại thời xuân tới.
Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Làm kẻ anh hùng chi quản khó.
Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn.
Tuy không phải chịu khốn khổ nhiều nhưng lòng các cha hằng muốn cho mình được xứng đáng đổ máu đào vì Chúa. Các ngài xin với những người nhà cầu nguyện để các ngài được bền vững trong khi chờ án tử. Các quan đã làm án xử trảm cho các ngài. Ngày 20 Cha Trân mang Mình Thánh Chúa cho hai cha. Ngày hôm sau bản châu phê án được mang về tới Hà Nội. Cha Dũng cùng với Cha già Thi vui mừng hát thánh ca theo chân lý hình ra khỏi thành. Tới nơi, các ngài quì cầu nguyện, ngước mắt lên trời và nghiêng cổ ra cho lý hình chém. Nhiều người làm chứng là đã nhìn thấy một con chim trắng, to lớn hơn chim bồ câu, bay lượn trên các ngài lúc hành quyết. Lệnh quan vừa dứt, đầu Cha Dũng cũng rơi xuống đất.
CUỘC XƯNG ÐẠO VÀ TỬ ÐẠO
CỦA LINH MỤC PHÊRÔ PHẠM VĂN THI
(bị bắt 10-11-1839, xử trảm 21-12-1839)
Cha Phêrô Phạm Văn Thi sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nội, trong một gia đình rất đạo đức. Ngài có cháu ruột cũng tử vì đạo là Thánh Ðường.
Vì cha mẹ nghèo, từ nhỏ cậu Thi phải đi chăn trâu cho nhà dòng ở Kẻ Ðầm cũng thuộc một nhà Kẻ Sở. Các bà thấy cậu Thi có nết na lễ độ thì xin cha xứ nuôi và cho vào nhà Ðức Chúa Trời. Năm ấy cậu được 12 tuổi. Sau nhiều năm học La Tinh trong nhà tràng, cậu Thi được chính thức nhận vao bậc kẻ giảng năm 1796. Thầy Thi sốt sắng và nhiệt thành với bổn phận, lại có nhiều năng khiếu nên đuợc bề trên gọi về học thần học và chịu chức linh mục ngày 22-3-1806. Năm ấy cha được 43 tuổi.
Trước hết Cha Thi được bổ nhiệm coi xứ Sông Chảy thuộc vùng Hưng-Tuyên. Ngài ở đó 27 năm cho đến năm 1833. Giáo dân đã làm chứng về ngài như sau: "Cha Thi là người nhân đức khác thường, mỗi ngày ngài đọc kinh lâu giờ ba bốn lần, làm lễ nghiêm trang, hay bị sốt và đau bụng, có nhân đức tiết kiệm, khắc khổ trong việc ăn uống và thường ăn chay các ngày thứ Sáu".
Ðức Cha Phó Jeantet (Du) cũng khen cha như sau: "Tôi quen biết Cha Thi từ năm 1835 và rất thán phục cha là người phúc độ sốt sắng, trung thành tuân giữ các luật chung, hiền lành và khôn ngoan".
Ðặc biệt Cha Thi trổi trang về nhân đức khó nghèo và muốn cho mọi người khác cũng bắt chước yêu chuộng nhân đức ấy. Cha chỉ mặc áo vải nâu và đội khăn sồi mà thôi. Tại nhà xứ, mọi người trong nhà phải giữ phép tắc, chăm chỉ học hành, đọc sách và không được chuyện trò lâu với đàn bà. Chính Cha Thi khi tiếp khách cũng rất mực khiêm tốn, ít lời, nhưng với các cha khác thì ngài vui vẻ vồn vã hơn. Mỗi năm ngài chỉ ở trong xứ hai tháng, còn lại đi thăm các họ lẻ, sốt sắng dậy dỗ và khuyên bảo con chiên bổn đạo. Có một lần đi làm phúc ở họ Thác Ba ngài bị đắm thuyền, người giúp việc chết đuối nhưng ngài nhờ ôm hòm đồ lễ đã thoát nạn.
Năm 1833, Cha Thi đã 70 tuổi được bề trên đổi về xứ Kẻ Sông trong sự nhớ nhung của bổn đạo xứ Sông Chảy. Thời kỳ này có cuộc bắt đạo dữ dội, Cha Thi phải trốn ẩn trong nhà giáo dân không thể đi làm phúc được. Nhiều khi người ta không dám mời ngài đi giúp bệnh nhân sắp chết vì sợ ngài bị bắt, nhưng ngài bảo họ phải liệu mọi cách để giúp người sắp chết, còn nếu Chúa muốn cho phải chịu khổ vì đạo thì hoàn toàn phó thác theo ý Chúa. Dù tuổi cao sức yếu và hay bị bệnh Cha Thi vẫn không bao giờ kêu ca, mà vẫn luôn yên ủi và niềm nở với mọi người. Ngài ở Kẻ Sông được 7 năm thì ý Chúa muốn cho cha được làm chứng lời chân thật ngài đã rao giảng bằng cái chết anh hùng vì đức tin.
Cha Dũng (Lạc) ở xứ bên cạnh thường sang gặp Cha Thi để bàn hỏi và xưng tội. Ngày 10-11-1839, hai cha đang ở nhà ông khán Hộ thì ông lý trưởng Pháp cùng với bốn gia nhân đến bắt. Lúc bấy giờ là giữa trưa. Hay tin, Cha Thi vội đi trốn vào phòng riêng nhưng Lý Pháp đã theo sát ngài và bắt ngài trói lại. Cha Dũng cũng bị bắt luôn. Sau một hồi lâu Lý Pháp cởi trói cho hai cha và mời cùng ngồi để đàm luận. Lý Pháp bắt đầu nói với hai cha: "Tại sao có lệnh vua cấm đạo rồi mà các ông cứ lén lút dậy đạo?"
Cha Thi đáp: "Thiên Chúa sai chúng tôi đi để dậy người ta tập tành nhân đức làm việc thiện, tôn kính cha mẹ. Ðạo chúng tôi không dậy điều gì sai trái cả".
- "Dù đạo phải hay trái, không thành vấn đề, nhưng có lệnh vua cấm thì tôi bắt các ông".
Các ngài đáp lại điều đó tùy ý quan. Tuy nói là lệnh vua cấm nhưng ông lý trưởng đã đề nghị nộp cho ông 300 quan tiền ông sẽ trả tự do. Các cha nói với ông điều đó tùy giáo dân. Quan cho gọi người đứng đầu trong họ đạo để dàn xếp nội vụ. Giáo dân chỉ có 200 quan để nộp nên ông chỉ trả tự do cho Cha Lạc, còn bắt Cha Thi. Khi trở về, Cha Lạc lại bị bắt lần nữa khiến ông lý trưởng sợ lộ tẩy đã phải giải Cha Thi về huyện quan Bình Lục. Trên đường hai cha gặp lại nhau trong cảnh tù đầy.
Quan huyện được giáo dân đút lót chút đỉnh nên làm tờ phúc trình bắt được các cụ ở ngoài đồng để giáo dân không ai bị liên lụy. Thấy Cha Thi có tuổi mà trời rất lạnh, quan huyện mới hỏi Cha Thi xem có chăn đắp không thì người lính nói thay là Lý Pháp đã lấy rồi. Quan truyền lệnh phải trả chăn lại cho cụ Thi. Quan huyện tiếp đón các ngài rất tử tế, mời các ngài ngồi trên phản có chiếu sạch. Khi giáo dân dọn cơm thì quan bắt lấy mâm của mình mà dọn cho các ngài. Sau ba ngày, quan huyện giải hai cha về Hà Nội, có đông giáo dân theo khóc lóc. Thấy vậy quan huyện nói: "Ðạo dậy những gì mà giáo dân thương tiếc các cụ như thế?"
Một bà đạo đức đứng gần thưa lại quan: "Bẩm quan lớn, các cụ dậy chúng tôi những điều nhân đức, chồng phải hiền lành, đừng cờ bạc, rượu chè, còn vợ thì phải biết nhịn nhục, vâng lời chồng".
Vì Cha Thi đã nhiều tuổi không đi được nữa, quan bảo giáo dân thuê cáng mà mang ngài. Trước khi lên đường quan huyện còn giết heo cúng tế trời đất và biện bạch: "Không phải lỗi tại tôi muốn bắt bớ những người hiền lành mà chỉ vì tôi phải theo lệnh. Xin án phạt có xuống thì xuống trên người đã ra lệnh".
Ngày 16-11, Cha Thi được giải đến Hà Nội và giam trong trại gần cửa đông, không phải ở chung với các tù phạm khác. Các tên lính canh cũng rất tử tế với các ngài, chúng nói: "Chúng tôi biết hai cụ không phải như các tù nhân khác. Hai cụ hiền không nghĩ đến việc trốn đi nên chúng tôi chẳng dám làm khổ các cụ".
Vì thế Cha Thi không phải mang gông cùm bao giờ, còn Cha Dũng (Lạc) phải mang gông có ba tối. Thức ăn giáo dân mang đến hai cha cũng chia sẻ cho lính canh. Mỗi ngày hai buổi các cụ đọc kinh chung với nhau. Có bà Ro thuộc nhà dòng Kẻ Uối và tổng Thìn lo săn sóc các việc vật chất cho hai ngài.
Hai cha phải tra hỏi ba lần. Phần Cha Thi vì già và nghễnh ngãng nên Cha Dũng thưa thay. Quan huyện cũng bẩm với quan thượng rằng: "Hai thầy đạo thà chịu chết chứ không bước qua ảnh đạo, tôi đã thúc ép hai lần ở dưới huyện mà không thành công. Hai người thật thà xin quan lớn thương".
Lần thứ ba quan thượng bảo hai cha quá khóa nhưng các ngài không chịu, một tên lính liền đẩy Cha Dũng ngã xuống. Cha Thi vì già vẫn ngồi yên liền sấp mình xuống ôm chân thánh giá.
Trước lòng kiên quyết của các ngài, quan làm bản án tử hình cho các ngài như sau: "Sau khi họp hội đồng, các thần là Nguyễn Phúc Hoan, quan hộ, và Lương Mộc Quang, quan án, đã xem xét kỹ lưỡng hai tội phạm Trần An Lạc và Phạm Văn Thi đã theo tà đạo từ thuở nhỏ và dụ dỗ lê dân. Họ đã ghi khắc sâu đạo lý sai lầm từ lâu chứ không phải một vài ngày. Hoàng thượng đã ra nhiều chỉ dụ cấm dậy dỗ dân chúng đạo này và bắt từ bỏ những thói tục sai trái, thế nhưng họ chẳng những đã không tuân lệnh mà còn tàng trữ sách đạo và ẩn trốn cho đến ngày bị bắt. Ðược khuyên bảo bước qua ảnh họ vẫn một mực cố chấp xin được chết hơn là làm điều này. Hiển nhiên là đạo này đã ăn sâu vào tâm hồn chúng. Chúng thần xét nghĩ là họ đáng chết theo như luật quốc gia đã định rằng kẻ nào tàng trữ sách quấy quá, hoặc dậy dỗ thực hành quái lạ thì phải giam trong ngục cho đến khi được định thể khác. Vậy đối với hai tội phạm Trần An Lạc và Phạm Văn Thi các thần muốn áp dụng khoản luật vừa nói nhưng chúng đáng chịu một hình phạt nặng nề hơn, phải chém đầu để răn bảo những người khác".
Ðể chuẩn bị cho ngày được dâng mạng sống mình vì đức tin, Cha Thi thường xuyên đọc kinh cầu nguyện và ăn chay hãm mình mỗi tuần 4 ngày. Ngày 21-12 cha được rước Mình Thánh lần cuối cùng do Cha Trân mang vào. Giữa trưa hôm đó có người lính báo rằng bản phê án của vua đã tới. Cha Thi nói ngay: "Ðúng là án của chúng tôi rồi".
Tức thì cha và Cha Dũng phân phát cho lính canh các đồ dùng còn lại. Ngay sau đó ông lãnh binh đã đem lính đến nhà giam để dẫn giải các ngài đến pháp trường. Cha Thi vì yếu đã ngã trên đường. Lúc ấy có một tên lính đến nói nhỏ mình cũng là người tín hữu Kitô xin được cõng cha trên lưng. Cha Thi đã cởi đôi xăng đan, một đồ dùng cuối cùng, và cho anh ta. Tới Ô Cầu Giấy, Cha Thi quì cầu nguyện trên chiếc chiếu do các bà dòng đã trải sẵn. Ngài cầu nguyện và dáng điệu vững vàng hơn bao giờ hết. Trước khi hành quyết, quan giám sát truyền lệnh cấm không ai được thấm máu tử tù và khi có hiệu thì phải chém đồng loạt. Khi hiệu vừa ban ra, tên lý hình điêu luyện đã chém cổ ngài vừa khít để lại một chút da treo đầu trên cổ để giáo dân dễ dàng ráp lại. Nhưng quan lại bắt phải lấy hẳn đầu ra rồi ông và đoàn tùy tùng mới rút lui.
Giáo dân thu xác Cha Thi lại đem về an táng tại Kẻ Sở. Tên lý trưởng đã bắt Cha Thi về sau bị Chúa phạt hóa ra điên, còn cô con gái lấy khăn thánh may yếm để mặc đã bị thổ tả chết một ngày sau khi mặc yếm vào người.(Trích Giòng Máu Anh Hùng Tử Đạo)