Chúa Nhật XXXII thường niên
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật nầy mời gọi chúng ta suy gẫm về tấm lòng quảng đại của những người nghèo, họ biết cho tất cả những gì mình có với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa.
1V 17: 10-16
Bài đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa xứ Sa-rép-ta ngoại giáo, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.
Dt 9: 24-28
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất để vĩnh viễn tiêu hủy tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.
Mc 12: 38-44
Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu của bà là của dâng thật khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng nầy chất chứa biết bao lòng yêu mến và niềm tin của bà.
BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)
Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn nhất những giai thoại ngoạn mục; truyện dài nhiều tập về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa là một minh họa rõ nét nhất điều nầy. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích nầy được thêu dệt thành những chuyện anh hùng ca, nhưng cũng chứa đựng tính lịch sử.
Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta là “cổ học tinh hoa” minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.
1. Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a:
Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc phương Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 BC). Vị ngôn sứ thực thi sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan, vì vua đã cưới công chúa I-da-ven, ngoại giáo. Bà hoàng hậu nầy rất sùng đạo thờ thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en, trong khi vị ngôn sứ ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa.
Ngôn sứ Ê-li-a tuyên sấm trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán nầy sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ cho ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối nầy cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.
2. Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta:
Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.
Được đặt lại vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến; nhưng ngoài ra, tình tiết nầy nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ của Ngài, và cách hành xử của một người phụ nữ ngoại đạo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà nầy dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa chọn sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rép-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như tiên trưng cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).
Mặt khác, được đặt lại vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến Xa-rép-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian và Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)
Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki tô cao vời trên chức tư tế Cựu Ước. Viễn cảnh của tác giả được định vị trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha; bình diện “dưới thế”: Chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn.
Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên - nghi thức lễ Đền Tội ở đó vị thượng tế cầu nguyện và dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi mà mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en đã phạm phải trong năm.
1. Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước:
Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”. Còn Đức Ki tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.
2. Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước:
Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình. Đức Ki tô dâng máu của chính mình. Thế nên người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả dứt khoát. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi; hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.
3. Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi:
Việc Đức Ki tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12).
Việc Đức Ki tô xuất hiện lần thứ hai sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi; Ngài sẽ cứu độ những ai trông đợi Ngài.
TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)
Mới đây, những người Pha-ri-sêu đã ca ngợi nhân cách của Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca nầy để gày bẩy Đức Giê-su, nhưng điều ấy càng minh chứng đây là nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.
Khi đặt hai lời dạy bên cạnh nhau, thánh ký muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu thành phần có trí thức, uy thế và địa vị, và thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện thành phần thấp kém nhất.
1. Tránh xa thói giả hình của những kinh sư:
Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và được ký thác truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ hình thành nên một giai cấp tách biệt ra khỏi quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.
Nhưng lời tố cáo nặng nề nhất mà Ngài gởi đến cho các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho riêng mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cho những kẻ ấy cơn giận của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ nầy rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).
Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách mà ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).
Đức Giê-su kết thúc những lời lên án những kinh sư nầy với những lời như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khác hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Phải sẳn sàng chờ Chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị săn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều…Hể ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).
Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đủa cả nắm; bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34).
Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng nầy, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những gia cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng nầy khó thoát khỏi những ảnh hưởng của những cuộc khẩu chiến giữa Giáo Hội non trẻ và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.
Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư nầy, khoe khoang vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được trực tiếp lời giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư nầy bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đạo của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi…Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.
2. Noi gương cách sống đạo của một bà góa:
Xét về hình thức, thánh ký đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy vào thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn, trong khi cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.
Đức Giê-su cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng vào việc chi phí cho việc phụng tự hằng ngày và chi phí của Đền thờ. Ngài quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng, và Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều nầy: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa nầy, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Dung mạo của bà góa nầy là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và đóng lại với lời ca ngợi một người ngheo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cuộc đời mình.
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật nầy mời gọi chúng ta suy gẫm về tấm lòng quảng đại của những người nghèo, họ biết cho tất cả những gì mình có với trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa.
1V 17: 10-16
Bài đọc I thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa xứ Sa-rép-ta ngoại giáo, bà cho vị ngôn sứ Ê-li-a tất cả phần còn lại của mình trong thời kỳ đói kém để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa.
Dt 9: 24-28
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái ca ngợi việc Đức Giê-su đã tận hiến một lần cho tất để vĩnh viễn tiêu hủy tội lỗi và thánh hóa những ai tin vào Ngài.
Mc 12: 38-44
Tin Mừng thuật lại tấm lòng quảng đại của một bà góa nghèo khổ, bà cho tất cả những gì mình có. Xét về lượng, hai đồng xu của bà là của dâng thật khiêm tốn, nhưng về phẩm, của dâng nầy chất chứa biết bao lòng yêu mến và niềm tin của bà.
BÀI ĐỌC I (1V 17: 10-16)
Trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, hai cuốn sách Các Vua chứa đựng một số lượng lớn nhất những giai thoại ngoạn mục; truyện dài nhiều tập về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sa là một minh họa rõ nét nhất điều nầy. Được lưu truyền lâu dài trong dân gian trước khi được biên soạn, những chuyện tích nầy được thêu dệt thành những chuyện anh hùng ca, nhưng cũng chứa đựng tính lịch sử.
Cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến xứ Xa-rép-ta là “cổ học tinh hoa” minh chứng về tấm lòng quảng đại của những người nghèo và chuẩn bị cho câu chuyện Tin Mừng về tấm lòng quảng đại của một bà góa. Hơn nữa, hoàn cảnh, nơi chốn, các nhân vật đem lại cho câu chuyện một tầm mức tôn giáo.
1. Hoàn cảnh của ngôn sứ Ê-li-a:
Ngôn sứ Ê-li-a sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên, trong vương quốc phương Bắc, dưới triều đại vua A-kháp (874-853 BC). Vị ngôn sứ thực thi sứ vụ ngôn sứ của mình trong một hoàn cảnh rất gian nan, vì vua đã cưới công chúa I-da-ven, ngoại giáo. Bà hoàng hậu nầy rất sùng đạo thờ thần Ba-an nên tìm mọi cách loại bỏ việc phụng thờ Đức Chúa trong vương quốc Ít-ra-en, trong khi vị ngôn sứ ra sức bảo vệ việc phụng thờ Đức Chúa.
Ngôn sứ Ê-li-a tuyên sấm trước vua A-kháp một cơn hạn hán sẽ giáng xuống xứ sở vì tội thờ ngẫu tượng. Cơn hạn hán nầy sẽ kéo dài trong suốt ba năm. Ngôn sứ Ê-li-a rời miền Sa-ma-ri, nơi không dung thứ cho ông vì lòng oán hận của hoàng hậu I-da-ven đối với ông; ông đến tá túc ở phía bắc sông Gio-đan, bên con suối vẫn còn nước chảy. Nhưng khi con suối nầy cạn khô, ngôn sứ Ê-li-a ra đi tìm một nơi lánh nạn khác. Ông đi về miền duyên hải Phê-ni-xi ngoại giáo và đến làng Xa-rếp-ta, cách địa hạt Xi-đôn khoảng mười lăm cây số về phía đông và ở lại đó.
2. Cuộc gặp gỡ của vị ngôn sứ với một bà góa xứ Xa-rếp-ta:
Một bà góa xứ Xa-rếp-ta nhận ra người khách lạ xin bà một chút nước và miếng bánh là một người Do thái, bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh”.
Được đặt lại vào trong bối cảnh sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-a, tình tiết mang đến một lời chứng đáng chú ý khác về những người khiêm hạ mà các ngôn sứ Cựu Ước luôn luôn nói đến; nhưng ngoài ra, tình tiết nầy nêu bật sự tương phản giữa thái độ của một bà góa nghèo xứ Xa-rếp-ta, bà bày tỏ niềm tin tưởng vào Đức Chúa khi phó thác vào lời hứa của vị ngôn sứ của Ngài, và cách hành xử của một người phụ nữ ngoại đạo khác, hoàng hậu I-da-ven, bà nầy dùng quyền lực và sự giàu có của mình để lôi kéo dân Chúa chọn sa vào tội bội giáo. Bà góa ngoại giáo xứ Xa-rép-ta sẽ được trích dẫn trong Tin Mừng như tiên trưng cuộc hoán cải của lương dân (Lc 4: 25-26).
Mặt khác, được đặt lại vào trong khung cảnh của cuộc khủng hoảng tôn giáo khắp vương quốc Ít-ra-en, cuộc mạo hiểm của ngôn sứ Ê-li-a đến Xa-rép-ta cung cấp cho vị ngôn sứ một dịp chứng tỏ rằng chính Đức Chúa – chứ không thần Ba-an – là Đấng phân phát đích thật những của cải trần gian và Ngài ban cho những ai tin tưởng phó thác vào Ngài, ngay cả vào lúc túng thiếu.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28)
Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái tiếp tục chứng minh chức tư tế của Đức Ki tô cao vời trên chức tư tế Cựu Ước. Viễn cảnh của tác giả được định vị trên hai bình diện: bình diện “trên trời”: Đức Ki tô vinh quang là Đấng Trung Gian bên cạnh Chúa Cha; bình diện “dưới thế”: Chức vụ trung gian đòi hỏi Đức Ki tô phải vượt qua cuộc Tử Nạn.
Như trước đây, tác giả sử dụng những so sánh của mình, mặc nhiên hay minh nhiên - nghi thức lễ Đền Tội ở đó vị thượng tế cầu nguyện và dâng hy lễ lên Thiên Chúa để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi mà mình và toàn thể cộng đoàn con cái Ít-ra-en đã phạm phải trong năm.
1. Chức vụ cao trọng của Vị Thượng Tế Tân Ước:
Vào ngày đại lễ Đền Tội, để lời chuyển cầu của mình có thể thấu đến Thiên Chúa chừng nào có thể, vị thượng tế Cựu Ước vào tận nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, “do bàn tay người phàm làm ra”. Còn Đức Ki tô “đã vào chính cõi trời”. Vị thượng tế Cựu Ước không thể đến tận nơi Thiên Chúa, nhưng chỉ đến chỗ mà xưa kia đặt Hòm Giao Ước, biểu tượng nơi ở cõi thế của Đức Chúa; trong khi Đức Ki tô “đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta”.
2. Phẩm chất cao trọng của Hy Lễ Tân Ước:
Vị thượng tế Cựu Ước dâng máu của tế vật chứ không phải máu của chính mình. Đức Ki tô dâng máu của chính mình. Thế nên người ta có thể dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần. Vì thế, hiến lễ tự nguyện và tự hiến của Đức Giê-su có một hiệu quả dứt khoát. Những hy lễ được vị thượng tế Cựu Ước hằng năm dâng lên để xin ơn tha thứ tội lỗi; hy lễ của Đức Giê-su có giá trị cho mọi thời và mọi thế hệ.
3. Một thế giới mới không bóng dáng tội lỗi:
Việc Đức Ki tô nhập thể đã đặt Ngài vào trong mối liên đới với các tội nhân, nhằm tiêu diệt tội lỗi, như sấm ngôn về người tôi trung của Đức Chúa “đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53: 12).
Việc Đức Ki tô xuất hiện lần thứ hai sẽ không còn bất kỳ liên hệ nào với tội lỗi. Đức Ki tô sẽ phục hồi một thế giới không bóng dáng của sự chết và tội lỗi; Ngài sẽ cứu độ những ai trông đợi Ngài.
TIN MỪNG (Mc 12: 38-44)
Mới đây, những người Pha-ri-sêu đã ca ngợi nhân cách của Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Mc 12: 14). Tiếc thay họ đã sử dụng lời ngợi ca nầy để gày bẩy Đức Giê-su, nhưng điều ấy càng minh chứng đây là nhân cách thường hằng của Ngài mà đoạn Tin Mừng hôm nay bày tỏ rõ nét nhất.
Khi đặt hai lời dạy bên cạnh nhau, thánh ký muốn nêu bật sự tương phản giữa cách sống đạo của các kinh sư, tiêu biểu thành phần có trí thức, uy thế và địa vị, và thái độ khiêm hạ và quảng đại của một bà góa, đại diện thành phần thấp kém nhất.
1. Tránh xa thói giả hình của những kinh sư:
Các kinh sư là những người học rộng biết nhiều về Kinh Thánh và được ký thác truyền thống các tiền nhân, vì thế họ là những nhà chú giải có thẩm quyền. Nhưng vì tự hào và tự phụ về kiến thức của mình, họ hình thành nên một giai cấp tách biệt ra khỏi quần chúng. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su thẳng thắn vạch mặt chỉ tên họ và phác họa chân dung của họ với vài nét tiêu biểu mang tính châm biếm: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cổ nhất trong đám tiệc”.
Nhưng lời tố cáo nặng nề nhất mà Ngài gởi đến cho các kinh sư chính là: “Họ nuốt hết tài sản của các bà góa”. Bản văn không nói cho chúng biết làm thế nào những kinh sư nuốt hết tài sản của các bà góa. Phải chăng họ đã khai thác sự nhẹ dạ cả tin của những người hiền lành chất phát mà thu góp tiền của cho riêng mình? Hay họ lợi dụng uy tín của những người giải thích lề luật có thẩm quyền mà giải thích lề luật theo chiều hướng có lợi cho riêng mình? Hoặc với tư cách những nhà thông luật, họ biết rất rõ luật Mô-sê lên án nghiêm khắc những ai ức hiếp mẹ góa con côi và hứa cho những kẻ ấy cơn giận của Đức Chúa (Xh 22: 21), nhưng lại nhắm mắt làm ngơ trước thực trạng bất công của những kẻ có thế có quyền hà hiếp bóc lột những người thấp cổ bé miệng? Chúng ta không biết chính xác, nhưng quả thật, ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm khắc tố cáo thái độ nầy rồi: “Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất công, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức, để cản người yếu hèn hưởng công lý, tước đoạt quyền lợi người nghèo trong dân tôi, để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi” (Is 10: 1-2).
Về đời sống tôn giáo, “họ còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ là một nhu cầu tâm linh tất yếu của bất cứ tín hữu đạo hạnh nào; nhưng điều đáng nói ở đây chính là “họ làm bộ” chứ không thực tâm, chỉ cốt phô trương đạo hạnh của mình trước mặt người đời. Quả thật, họ cầu nguyện tại những nơi và theo những cách mà ai cũng phải thấy rằng họ là những người đạo hạnh. Ngay từ bài diễn từ trên núi của Ngài, Đức Giê-su đã lên án nghiêm khắc thói đạo đức giả này rồi: “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy” (Mt 6: 5).
Đức Giê-su kết thúc những lời lên án những kinh sư nầy với những lời như sau: “Cho nên, họ sẽ bị kết án nghiêm khác hơn” mà Ngài đã khai triển trong phần kết thúc dụ ngôn “Phải sẳn sàng chờ Chủ trở về”: “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị săn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều…Hể ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12: 47-48).
Lời kết án của Đức Giê-su xem ra quá cứng rắn, nếu không muốn nói vơ đủa cả nắm; bởi vì ngay trước đoạn Tin Mừng này, thánh Mác-cô kể cho chúng ta một người kinh sư thành tâm thiện chí tìm kiếm Nước Thiên Chúa đến nổi Đức Giê-su đã khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (12: 34).
Dĩ nhiên, chúng ta không phủ nhận tính lịch sử của đoạn Tin Mừng nầy, chính vì sự xung đột giữa Đức Giê-su và những gia cấp lãnh đạo Do thái đã dẫn đến cuộc Tử Nạn của Ngài. Nhưng đoạn Tin Mừng nầy khó thoát khỏi những ảnh hưởng của những cuộc khẩu chiến giữa Giáo Hội non trẻ và Hội Đường Do thái khi Tin Mừng được biên soạn.
Tuy nhiên, khi đoạn Tin Mừng được công bố trong cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi, nó mang tính thời sự và vẫn tiếp tục mang tính thời sự xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội tại thế. Việc Đức Giê-su lên án nghiêm khắc thói giả hình của các kinh sư là những lời nhắc nhở cho các môn đệ của Ngài. Đến phiên mình, các môn đệ của Ngài sẽ là những người có nguy cơ đi lại lối mòn xưa cũ của những người kinh sư nầy, khoe khoang vì đã được sống mật thiết với Thầy, đã nhận được trực tiếp lời giáo huấn của Thầy, nên đòi hỏi được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong các cộng đoàn Ki tô hữu. Các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh xa đừng để mình rơi vào những thói giả hình của các kinh sư nầy bằng cách noi gương cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đạo của một bà góa nghèo. Sứ vụ của họ phải là phục vụ một cách khiêm tốn và vô vị lợi…Đây là bài học mà các môn đệ của Đức Giê-su sẽ không bao giờ được quên.
2. Noi gương cách sống đạo của một bà góa:
Xét về hình thức, thánh ký đã nối kết rất khéo hai lời dạy khác nhau của Đức Giê-su vào cùng một đơn vị. Lời dạy về các kinh sư đóng lại với việc lên án “nuốt hết tài sản của các bà góa”, thì cũng chính “một bà góa” mở ra lời dạy thứ hai. Xét về nội dung, việc liên kết hai lời dạy vào thành một đem lại một bài học nhớ đời. Các môn đệ phải tránh xa cách sống đạo giả hình của các kinh sư, những người đại diện hàng lãnh đạo của dân Chúa chọn, trong khi cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại của một bà góa, đại diện hạng người rốt hết, lại trở nên mẫu gương cho các môn đệ Ngài noi theo.
Đức Giê-su cùng với các môn đệ đang ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng vào việc chi phí cho việc phụng tự hằng ngày và chi phí của Đền thờ. Ngài quan sát thấy nhiều người giàu có đến dâng cúng những món tiền lớn, nhưng Ngài chỉ để ý đến một bà góa nghèo đến dâng cúng hai đồng xu. Theo Kinh Thánh, các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24: 17-22). Số tiền bà bỏ vào thùng dâng cúng chẳng đáng là bao so với những món tiền lớn của những người giàu có. Nhưng Chúa Giê-su không đánh giá của dâng cúng dựa trên số lượng mà trên chất lượng, và Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải ghi khắc điều nầy: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút ra từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà nầy, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Của dâng cúng của bà góa nầy, xét về số lượng, chẳng có nghĩa lý gì, nhưng xét về chất lượng, lại chất nặng đức tin, đức cậy và đức mến của bà, vì bà đã đặt mọi ngày sắp đến của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Dung mạo của bà góa nầy là dung mạo sau cùng xuất hiện trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Giáo huấn của Ngài đã bắt đầu với “Phúc cho những người nghèo khó” và đóng lại với lời ca ngợi một người ngheo khó biết cho tất cả những gì mình có để đón nhận tất cả từ Thiên Chúa và để Thiên Chúa trở nên tất cả cuộc đời mình.