7 - Ðạo Phật và văn-hóa

Lời sư Nguyễn Thường can vua lại chứng-tỏ một sự mà ta đã biết rồi, là ở đời Lý, phần lớn các tăng học nho rất rộng. Vậy nên tăng-đồ có ảnh hưởng lớn đến văn-hóa đương-thời. Văn thơ đời Lý để lại còn nhiều, nhờ sách TUTA (2) và một số bia nhà Lý. Ta thấy các sư thật là những người hay chữ. Mà những nho-gia khác cũng chịu ảnh-hưởng tư-tưởng của nhà chùa.

Câu chuyện làm thơ đầu tiên trong lịch-sử độc-lập nước ta là thuộc về hai vị sư. Tống Thái-tông sai nhà văn-hào Lý-Giác sang phong cho Lê Hoàn làm Tĩnh-hải tiết-độ-sứ. Năm 987, Giác tới nơi. Chắc trong triều bấy giờ ít người hay chữ. Vua phải nhờ đến sư Ðỗ Thuận tiếp. Các sách TT3 và TUTA chép rằng sư giả làm lái đò chèo thuyền cho Giác. Tính Giác thích làm thơ. Bấy giờ có hai con ngỗng cùng bơi trên mặt nước. Giác ngâm:

Nguyên văn:

Nga nga, lưỡng nga nga.

Ngưỡng diện hướng thiên-nha.

Nghĩa là:

Ngỗng kìa! Ngỗng một đôi!

Nghểnh cổ nhìn góc trời.

Sư Thuận nghe, ứng-khẩu đọc tiếp:

Bạch-mao phô lục-thủy.

Hồng trạo bãi thanh-ba.

nghĩa là:

Nước xanh lông trắng phủ.

Sóng biếc chân hồng bơi.

Giác khen sư hay thơ và có tài mẫn-tiệp. Rồi Giác làm thơ tự vịnh, nhưng tỏ ý kính-trọng vua ta. Cho nên lúc Giác ra về, Vua Lê nhờ sư Khuông Việt làm bài ca tặng. Bài ca ấy nay còn chép (TT và TUTA) Khuông Việt soạn ra bài ca chúc sứ lên đường, lúc cùng nhau uống chén tiễn-biệt. Sau đây là bài dịch theo đúng điệu và nguyên-vận.

"Trời lành, gió thuận, buồm gấm trương,

Thần tiên về đế-hương.

Ngàn trùng vượt sóng bể mênh-mang,

Ðường xa mấy dặm trường.

Cạn tình thảm-thiết chén li-xương.

Cầm tay sứ, lòng càng. .

Nhờ đem thâm-ý người nam-cương,

Phân minh tâu Thượng-hoàng."

Ðó là lời tửu-chúc-từ thân-thiện đầu-tiên trong lịch-sử ngoại-giao của nước Việt. Mà lại là của một vị sư!

Bước sang triều Lý, nho-thần đủ người để sung vào việc ngoại-giao. Ta không thấy những vị sư tiếp sứ nữa. Nhưng sư vẫn có nhiều người hay chữ. Nguồn thơ là đạo-lý uyên-nguyên. Suốt quyển TUTA, trong chuyện tất cả các vị sư, đều có một vài câu kệ bằng văn vần. Trong khi các sư nói chuyện về đạo-lý cùng nhau, họ đều đọc thành những câu kệ, ý-tứ mông-lung, nhưng đối với sự hiểu thường của ta, thì thường không rõ ý. Ví như chuyện có tăng tới hỏi sư Viên-chiếu, là con anh thái-hậu Ỷ-lan, rằng: "Phật và Thánh nghĩa là thế nào?" Sư trả lời

Cúc trùng-dương dưới giậu,

Oanh thục-khí đầu cành.

Tăng kia không hiểu, nhờ sư giảng. Sư lại nói:

Ngày thì ác vàng chiếu

Tối lại thỏ ngọc soi.

Tăng bèn nói đã hiểu chân-ý của sư. Thật ra, ta không biết ý ấy ra sao. Phải chăng sư muốn nói rằng Phật và Thánh nghĩa là tất cả những biến-tướng hiện ra trong trời đất?

Trái lại, có một vài bài thơ ý-tứ gần ta hơn, nhưng lời-lẽ rất thanh-tao, đọc lên cảm thấy đời sống mặc-tĩnh, ý-nghĩ thâm-trầm của những nhà cao-ẩn. Ví-dụ như bài kệ của sư Mãn-giác (XV/3), là một vị tăng con một đại-thần, và được vua Nhân-tông và thái-hậu Linh-nhân rất trọng. Sư mất khi mới 45 tuổi, năm Hội-phong thứ 5 (1096). Trước khi mất, sư đọc bài kệ sau này:

Nguyên-văn:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn-tiền quá,

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa tận lạc,

Ðình-tiền tạc-dạ nhất chi mai.

Nghĩa là:

Xuân qua trăm hoa rụng,

Xuân lại nở trăm hoa.

Trước mắt sự đời thoảng,

Trên đầu hiện tuổi già.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

Ngoài sân đêm trước một cành mơ.

Tóm-tắt trong sáu câu trên, có đủ ý vũ-trụ tuần-hoàn trái với đời người ngắn-ngủi, ý người ta không nên lấy sự ấy làm phàn-nàn, vì tuy mất rồi, nhưng vẫn còn tinh-hoa để lại cùng vũ-trụ.

Cho đến phái nho, vì hằng ngày giao-thiệp với các tăng, nên cũng chịu ảnh-hưởng nhiều của Phật-giáo. Thi-văn của phái nho nay không còn gì nữa, ngoài một vài bài, giữ được nhờ sách TUTA. Ví như hai bài thơ của vị công-bộ thượng-thư Ðoàn Văn-Liệm tặng và điếu thiền-sư Quảng trí (TUTA 18a), mất vào khoảng đời Quảng-hữu (1085-1092). Bài thơ điếu như sau:

Lâm man bạch thủ độn kinh-thành,

Phất tụ cao-sơn viễn cánh hinh.

Kỷ nguyện tĩnh-cân xu trượng-tịch,

Hốt văn di lý yểm thiền-quinh.

Trai-đình u-điểu không đề nguyệt,

Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.

Ðạo lữ bất tu thương vĩnh-biệt

Viện tiền sơn thủy thị chân-hinh.

Phỏng-dịch như sau:

Rừng xanh đầu bạc lánh kinh-thành,

Rũ áo lên non rậy nổi danh.

Toan đội khăn sòng lên cửa Phật,

Thoát nghe tiếng dép động ngoài sanh.

Sân chùa chim rũ gào suông nguyệt,

Mộ tháp ai còn giúp viết minh.

Bạn đạo xin đừng than vĩnh-biệt,

Trước am, sông núi ấy chân-hinh.

Văn đời Lý nay chỉ còn một ít văn bia, do tăng hay nho viết. Những bia ấy là bia chùa. Văn rất cổ-kính. Trong chương sau, ta có nhịp dịch một vài đoạn văn của Hải-chiếu đại-sư.

Về khảo-cứu, ta đã thấy rằng quốc-sư Thông-biện thật là một nhà khảo-cổ uyên-bác. Chỉ tiếc nay không còn trước-tác gì khiến ta biết rõ hơn.

Nói tóm lại, văn-học đời Lý đã thịnh, và chịu ảnh-hưởng đạo Phật nhiều. Vả nhờ đạo Phật mà các bia chùa, và sách Thuyền-uyển-tập-anh còn giữ được một phần tác-phẩm. Xem vậy Phật-giáo có công to đối với sự phát-triển cũng như sự bảo-tồn văn-học nước nhà.

Ðối với các ngành mỹ-thuật, như kiến-trúc, điêu-khắc và hội-họa, đạo Phật là một cớ làm tiến triển rất to.

Trong triều Lý, rất nhiều chùa tháp được xây dựng với qui-mô rộng lớn. Hầu hết những danh lam còn lại, là do từ đời Lý lập ra. Những thắng-tích ở Hà nội, như quán Trấn-vũ (tên tục là chùa Quan-thánh, tên đời Lý là Bắc-đế, 1102). Diên hữu (tên tục là chùa Một cột, 1049), đền Nhị nữ (tục gọi là đền Hai Bà, nguyên ở phường Bố-cái tức là ở bãi Ðồng-nhân, 1160), đền Linh-láng(tên tục là đền Voi-phục), đều khởi-tạo từ đời nhà Lý. Sách TUTA và các sử còn chép nhiều tên chùa dựng ở Thăng-long, nhưng nay đã bị hủy mất, hay đã bị đổi tên.

Còn như những danh-sơn như núi Long-độiở huyện Duy-tiên, núi Phật-tích ở huyện An-sơn, núi Tiên-du ở huyện Tiên-du, núi Lãm-sơn ở huyện Quế-dương, núi Tiêu-sơn ở huyện Yên-phong, núi Ðồ-sơn ở huyện Nghi-dương, đều có dựng chùa và tháp.

Ngoài những từ miếu, các vua Lý còn dựng và sửa chữa nhiều cung-điện ở Thăng-long và ở những nơi vua thường đi chơi, hay đi làm lễ xem gặt, xem cày. Tuy là các tạo-tác này không có tính-cách tông-giáo nhưng chắc nó cũng chịu nhiều ảnh-hưởng của sự dựng chùa.

Trong chương sau, ta sẽ thấy tả một vài chùa cổ làm trong hồi Lý Thường-Kiệt vào trấn ở Thanh-hóa. Sau đây là tả qui-mô chùa Một-cột, theo bia STDL và sách TT. Tháng 9 năm Ất-dậu 1105, Lý Nhân-tông dựng hai tháp mái bằng sứ trắng ở chùa Diên-hữu. Bấy giờ vua chữa lại chùa (TT). "- vườn Tây cấm, dựng chùa Diên-hữu. Theo giấu chế độ cũ, thêm mưu mới của nhà vua. Tạc hồ Linh-chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá. Trên cột đá nở một hoa sen nghìn cánh. Trên hoa lại gác một tòa điện. Trong điện đặt tượng phật vàng. Chung-quanh hồ có hành-lang bao vây, tường vẽ. Ngoài hành-lang lại có hồ Khang-bích bọc bốn bề. Mỗi bề có cầu thông ra ngoài sân. Trong sân, kề đầu cầu ở trước chùa, có dựng hai tháp lợp ngói sứ." (Bia STDL).

Tuy những cung điện, chùa miếu cũ nay không còn, nhưng ở một vài nơi, còn có vài tòa tháp, hay một tấm bia, hay vài bệ đá, hay ít nhiều tảng đá chạm cũ. Những di-vật ấy cũng đủ tỏ cho ta thấy rằng nghề kiến-trúc, cũng như nghề điêu-khắc đời Lý, rất tinh-vi và hùng-vĩ, các triều-đại sau không sánh kịp.

Một ảnh-hưởng bất-ngờ của đạo Phật là: nhờ các vua Lý muốn tổ-chức những hội long-trọng, cho nên đã khuyến-khích sáng-chế ra nhiều máy tự-động. Sử và nhất là bia STDL còn tả rõ những máy đã được thực-hiện ở trong đời Nhân-tông.

Ðây là máy kim-ngao. Ngày trung-thu và ngày tết, Nhân-tông ngự ở điện Linh-quang trên bờ sông Lô. Dưới sông, hàng nghìn thuyền gióng trống đua bơi. - giữa sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù-rờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua, mà cúi đầu chào. (STDL)

Ðây là máy đèn quay và người nộm đánh chuông. Ấy là lúc vua kén hoàng-hậu. Nhân-tông đặt hội đèn Quảng-chiếu. "Dựng đài Quảng-chiếu, ngảnh ra cửa Ðoan-môn. Giữa nêu một cột, ngoài đặt bảy từng. Rồng cuốn mà đỡ tòa kim-liên, rèm lồng mà che đèn sáng rực. Có máy giấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có hai tòa hoa-lâu. Treo quả chuông đồng. Tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn máy kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo, liền quay mặt lại. Thấy bóng vua, lại biết cúi đầu. Tựa-hồ như có trí-khôn, biết khi động, khi tĩnh." (STDL)

Nói tóm lại, suốt trong triều Lý, đạo Phật được vua quan trọng, tăng-già nhiều kẻ giỏi-giang. Cho nên ảnh-hưởng Phật-giáo ăn sâu vào tất-cả các ngành hoạt-động của người trong nước, về phương-diện tinh-thần cũng như vật-chất.

Chú thích

(*) Trích từ: "Lý Thường-Kiệt" của Hoàng Xuân-Hãn, nhà xuất-bản Sông-Nhị, Hà-nội, 1949.

(1) TUTA : Thiền-uyển tập-anh ngự-lục (Trần)

(2) BA : Bia chùa Báo-ân (Lý)

(3) Theo T.V.Giáp, các vị tăng đã qua Ấn-độ là: Vận-kỳ, người Giao-châu, Mộc-soa-đề-ba (Moksadeva) người Giao-châu, Khuy-xung người Giao-châu (mất ở Thiên-trúc), Tuệ-diệm người Ái-châu (ở lại Thiên--trúc), Trí-hạnh người Ái-châu (mất ở bắc-ngạn sông Hằng-hà), Ðại-thặng-đăng người Ái-châu (mất ở Ấn-độ).3.

(4) HN Bia chùa Hương-nghiêm (Lý)

(5) TT Ðại-việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)

(6) TB Tục-tư-trị thông giám trường-biên. Lý Ðào (Tống)

TT : Ðại-việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)

VSL : Việt-sử-lược (Trần)

TS : Tống-sử (Nguyên)

VÐUL : Việt-điện u-linh - Lý Tế-xuyên (Trần)

VSL : Việt-sử-lược (Trần)

TUTA : Thiền-uyển tập-anh ngự-lục (Trần); TT: Ðại-Việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)

(7) - Theo TV. Giáp, các vị tăng đã qua Ấn độ là: Vận-kỳ người Giao-châu, Mộc-soa-dê-ba (Moksadeva) người Giao-châu, Khủy-xung người Giao-châu (mất ở Thiên trúc), Tuệ-diệm người Ái-châu (ở lại Thiên-trúc), Trí-hạnh, người Ái-châu (mất ở bắc-ngạn sông Hằng-hà), Ðại-thặng-đăng người Ái-châu (mất ở Ấn-độ). 3.

(8) - Chuyện Nguyễn Bông. - Về chuyện Nguyễn Bông, sách TT chép: "Năm Quí-mão 1063, Lý Thánh tông đã bốn mươi tuổi, nhưng chưa có con. Vua sai viên chỉ hầu Nguyễn Bông tới cầu-tự ở chùa Thánh-chúa. Sau đó, Ỷ-lan phu-nhân có mang, sinh Càn-Ðức, tức là Lý Nhân-tông." Sách ấy lại chú-thích rằng: Sư chùa Thánh-chúa bày cho Bông phép đầu thai để vào làm con vua. Sự bại-lộ, nên Bông bị chém ở trước chùa, tại chỗ mà nay vẫn gọi là Cánh-đồng Bông. Chùa này, nay ở làng Dịch-vọng, huyện Từ-liêm, gần phía tây thị-trấn Hà-nội. Cánh-đồng Bông ở phía tây, trước cửa chùa.

Dã-sử và thần tích Ỷ lan thái-hậu (Xem sách Chuyện Ỷ-lan, nhà Minh-tâm xuất-bản) có kể rõ nhiều chi-tiết, và chép tên sư chùa Thánh chúa là Ðại-điên. Ðại-điên bảo Bông về nấp trong buồng tắm Ỷ-lan. Một hôm Ỷ-lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh-tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh-chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười và trả lời: "Nếu không hủy thân này, thì sao đầu-thai được." Bông mới hiểu mưu sâu của Ðại-điên và chịu chết. Sách VSL không hề chép đến việc Nguyễn Bông.

Chuyện Giác-hoàng. - Về chuyện Giác-hoàng thì cả hai sách TUTA và VSL, soạn đời Trần, đều có chép. Sau đây, là dịch nguyên-văn trong VSL5.

"Tháng 2 năm Nhâm-thìn 1112, người Thanh-hóa nói ở bờ bể có một đứa bé lạ. Tuổi mới lên ba, mà người ta nói gì, nó cũng hiểu. Nó tự xưng là con đầu-lòng vua, và tự gọi là Giác-hoàng (nghĩa là Phật). Phàm vua Nhân tông làm việc gì, nó cũng biết trước. Vua sai sứ tới hỏi, thì quả đúng như lời đồn. Sứ bèn rước Giác-hoàng về Thăng-long, để ở chùa Báo-thiên (ở chỗ nhà thờ lớn Cơ đốc cạnh hồ Gươm). Vua thấy Giác-hoàng linh dị, càng yêu-dấu; và muốn lập làm thái tử. Triều-đình cho là không nên, vua bèn thôi.

"Vua mới sai đặt trai-đàn trong cung, muốn sai Giác-hoàng đầu thai để làm con mình. Có vị sư ở núi Phật-tích, tên Từ-Lộ, hiệu Ðạo-hạnh, nghe tin ấy, lấy làm lo. Sư bèn giao cho em gái vài hạt châu có làm phép, và dặn rằng: "Ðến xem hội, hãy giắt châu vào mái nhà, đừng để ai thấy." Từ-thị làm đúng như lời. Bỗng-nhiên, Giác-hoàng phát cơn sốt mà ốm. Y bèn nói với người ta rằng: "Ta thấy trong nước lưới sắt bày la-liệt khắp; không có lối nào vào cung để thác sinh."

"Vua sai lục tìm khắp trong chốn trai-đàn, thì thấy mấy hạt châu mà Từ-thị đã giấu. Vua sai bắt Từ Lộ trói ở hành lang Hưng thánh, rồi toan kết tội chết. Nhân lúc ấy, em vua, Sùng hiền hầu, vào chầu vua. Từ Lộ thấy, kêu-van thảm thiết rằng: "Mong Hiền-hầu cứu bần-tăng. Nếu bần-tăng được thoát, thì sẽ vào làm con Hầu để báo đức" Sùng-hiền-hầu nhận lời. Vào thăm vua, hầu tìm mọi cách cứu Ðạo-hạnh. Hầu nói: "Nếu Giác-hoàng quả có thần-lực mà lại bị Từ Lộ làm phép yểm được, thì Lộ chả giỏi hơn Giác-hoàng hay sao? Sự ấy đã rõ. Tôi nghĩ rằng: chi bằng Vua cho phép Lộ vào thác-sinh." Vua bèn tha cho sư. Còn Giác-hoàng, thì bệnh thành nguy-ngập. Y dặn người chung quanh rằng: "Sau khi ta mất, hãy dựng tháp ở Tiên-du để táng ta."

Lời văn dịch trên đây gần giống y như văn trong sách TUTA. Có lẽ cả hai sách đều lấy gốc một nơi. Nhưng trong TUTA, ở chuyện Từ Ðạo-hạnh (53b), có nói rõ vì cớ gì mà Ðạo-hạnh lại không muốn để Giác-hoàng đầu-thai làm con vua Nhân-tông. Nhân-tiện đây, tôi sẽ kể lại chuyện Từ Ðạo-hạnh, theo sách TUTA, để ta thấy dưới triều Lý đời sống đầy chuyện huyền-ảo, và ta có thể so-sánh với óc thực-tế của Lý Thường-Kiệt.

Chuyện Từ Ðạo-Hạnh. - Ðạo-hạnh họ Từ. Bố tên Vinh, làm chức tăng-quan đô-sát.Vinh từng du-học ở làng Yên-lãng (làng Láng ở gần phía tây thị trấn Hà-nội), lấy vợ họ Tăng ở đó, và ở lại làng ấy. Bà sinh Ðạo-hạnh. Lúc bé Ðạo-hạnh tính thích-thảng, có chí lớn. Cử-động thế nào, không ai lường được. Ngày thường, ông kết bạn cùng nho-giả Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn-Nghĩa, và con hát Vi Ất. Tối thì chịu khó đọc sách. Ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Cha thường trách ông là lười biếng. Một đêm, cha lén vào phòng ngủ, dòm trộm, thì thấy đèn chong suốt đêm, sách-vở chồng đống. Ông thì tựa án ngủ, tay không buông sách. Từ ấy, cha không lo nữa.

Sau, ông dự kì thi tăng-quan, bèn đỗ.

Từ Vinh thường dùng tà-thuật quấy Diên thành-hầu (có lẽ là con vua Lý Thánh-tông). Hầu nhờ pháp-sư Ðại-điên dùng phép đánh chết. Về đoạn này, thần-tích chùa Láng, chùa Thầy và các nơi thờ Từ Ðạo-hạnh, có nói rằng Từ Vinh dùng phép tàng-hình, lọt vào trong hậu-cung của Diên-thành-hầu để ghẹo kẻ cung-nhân. Hầu nhờ Ðại-điên bắt. Một hôm, Ðại-điên lấy tro rắc trước cửa phòng cung-nhân, rồi đọc chú, vẽ bùa và trao cho cung-nhân một cuốn chỉ ngũ-sắc. Ðại-điên dặn cung nhân rằng nếu Vinh tới thì lấy chỉ buộc mình y. Ðêm ấy, Từ Vinh quả tới. Cung-nhân buộc chỉ vào lưng, rồi hô-hoán lên. Vinh túng thế, nhưng không chạy được; bèn biến hình làm con dán và trốn vào vách. Ðại-điên tới tìm mãi không thấy. Sau thấy có râu dán trong vách lòi ra. Ðại-điên cầm râu kéo ra, tì thấy một con dán trắng. Ðại-điên đánh chết. Lại hiện ra thây Từ Vinh.

TUTA không chép chuyện con dán ấy, mà chỉ nói Ðại-điên đánh chết Từ Vinh mà thôi. Sau đó, TUTA chép nối rằng Ðại-điên vứt thây Vinh xuống sông Tô-lịch. Thây trôi đến cầu Vu-quyết (có lẽ Yên-quyết, ở gần góc tây-nam thành Thăng-long), trước nhà Diên-thành-hầu, thì thình-lình đứng dựng lên, mà trỏ tay vào nhà hầu. Hầu sợ, chạy mách Ðại-điên. Pháp-sư tới đọc một câu kệ. Thây bèn trôi đi.

Ðạo-hạnh muốn trả thù cha, nhưng kông có kế. Một hôm, ông rình Ðại-điên. Lúc Pháp-sư đi ra, ông toan giơ gậy đánh, thì nghe trên không có tiếng mắng, bảo: "chớ, chớ!". Ông sợ, bèn bỏ gậy mà chạy.

Ông muốn sang Ấn-độ học dị-thuật để chống với Ðại-điên. Nhưng khi đi đến xứ mán Kim-xỉ (Mán răng vàng, có lẽ ở vùng Thượng-Lào hay Vân-nam), thì đường-xá hiểm trở quá, nên ông đành trở về. Ông bèn lên núi Từ-sơn mà ẩn. Ngày ngày, niệm kinh Ðại-bi-tâm-đà-la-ni, niệm đủ một vạn tám nghìn lần. Một hôm,ông thấy thần-nhân tới nói rằng: "Ðệ-tử là Tứ-trấn-thiên-vương. Cảm công-đức sư tụng kinh, cho nên lại hầu, để sư sai-khiến."

Ðạo-hạnh tự biết rằng mình đã học được đạo-pháp và thù cha sẽ trả xong. Ông bèn tới cầu Vu-quyết, cầm gậy thử, ném xuống sông. Gậy bèn trôi ngược dòng như rồng lội, đến cầu Tây-dương mới dừng. Ông mừng và nghĩ thầm rằng phép mình sẽ thắng Ðại-điên. Ông bén đi thẳng đến nhà Ðại-điên. Ðại-điên thấy ông, liền nói: "Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?" Ông ngửng mặt lên trời, thì không thấy có gì lạ. Ông bèn lấy gậy đánh Ðại-điên. Ðại-điên phát bệnh mà chết.

Sau khi thù cha rửa sạch, ông bèn đi thăm các tùng-lâm, bàn đạo với các sư Trí-huyền ở Thái-bình và Sùng-phạm ở chùa Pháp-vân.

Rồi đến năm Hội-tường-đại-khánh thứ ba 1112, xảy ra chuyện Giác-hoàng đã kể trên.

Sau đó, Ðạo-hạnh được tha. Ông xin đến nhà Sùng-hiền-hầu, dùng phép Ðại-điên bày cho Nguyễn Bông trước, để đầu thai. Ông cũng nấp ở buồng tắm phu-nhân. Phu-nhân giận, mách. Hầu biết chuyện, nên không nói gì. Phu-nhân bèn có mng. Ngày chuyển dạ, phu-nhân theo lời Ðạo-hạnh dặn trước, sai người lên chùa Thiên-phúc (chùa Thầy) báo tin cho ông. Ðạo-hạnh bèn tắm rửa, thay quần-áo, rồi vào trong hang núi mà chết. Ấy là ngày Dương-hoán sinh, tức là Lý Thần-tông.

Sách TT chép vào tháng sáu năm Bính-thân 1126. Xác Ðạo-hạnh không hư-hỏng. Dân làng giữ để thờ. Ðến đời Minh Vĩnh-lạc, quân Minh sang đánh Hồ Quí-li, mới đốt mất. 6.

(9). - Chuyện Lê Văn-Thịnh. - Lê Văn-Thịnh đậu khoa nho đầu tiên ở nước ta, mở năm 1075; rồi được vào dạy vua Nhân-tông (1112). Năm 1084, Văn-Thịnh được sai tới trại Vĩnh-bình để chia địa-giới với Thành Trạc là quan Tống. Năm sau, được cất lên chức thái-sư. Y giữ chức tể-tướng trong mười hai năm. Năm 1096, y bị cách chức và đày đi nơi nước độc. Nguyên-do chỉ vì một việc tin dị-đoan rất thường thấy ở đương-thời. Các sách TT, VSL, VÐUL6, đều có chép chuyện ấy.

Văn-Thịnh nuôi được tên hầu, người Ðại-lý (Vân-nam), biết làm phép thả hơi mù và biến thân thành hổ báo. Văn-Thịnh học lại được phép ấy. Y bèn lập kế giết tên hầu, và định dùng thuật ấy để cướp ngôi vua.

Bấy giờ vào tháng 11 (theo VSL, còn TT nói tháng ba, và VÐUL, nói mùa thu), vua Lý Nhân-tông dạo chơi hồ Dâm-đàm (Hồ-Tây) xem đánh cá. Vua cưỡi một chiếc thuyền chài, có tên Mục Thận người phường Tây-hồ (ở trên bờ bắc hồ), đứng đầu mũi, bủa lưới. Lúc thuyền ra đến giữa hồ, thình lình mù lên đen tối. Nhìn chung quanh không thấy rõ. Bỗng nghe tiếng thuyền chèo vụt-vụt, lướt qua mù tới thuyền vua. Qua mù, ai cũng nhìn thấy trong thuyền ấy có một con hổ lớn đang nhe răng như muốn cắn. Vua sợ lắm. Mục Thận thấy vậy cũng kêu nguy-cấp. Sẵn lưới ở tay, Thận ném vào thuyền kia, bắt được hổ. Thì lại hóa ra Lê Văn-Thịnh!

Vua sai lấy dây sắt trói vào cũi mà giam. Nhưng nghĩ rằng Văn-Thịnh là một đại-thần, từng có công to, vua không nỡ giết (TT). Bèn sai đày lên ở một trại ở thượng-lưu sông Lương (theo VSL, còn TT và VÐUL, đều nói sông Thao.)

Chuyện trên này tiêu-biểu cho sự mê-tín có ảnh-hưởng lớn đến chính-trị ở triều Lý. Sử còn cho biết nhiều chuyện chứng rằng Nhân-tông, cũng như các vua Lý về sau, rất tin ảo-thuật, và có thần-kinh dễ cảm-xúc. Cho nên, chỉ vì một việc xảy ra rất thường, mà Văn-Thịnh xuýt bị chết. Về tháng mười một, trận mù thình-lình tới trên hồ, đó là một sự thường có. Nhưng với tâm-thần hay bị xúc-cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước, thì vua đâm ra hoảng-hốt. Có lẽ Văn-Thịnh, cũng vì thấy trời tối, mà vội-vã sai chèo thuyền gấp tới để hộ vua về. Ngồi trong thuyền bị trùng-triềng không vững. Văn-Thịnh phải ngồi khom mình, tay chống vào thuyền cho vững. Hình-dáng trông như con hổ. Một mặt khác, có lẽ Văn-Thịnh cũng tin vào các thuật, và có tiếng sẵn là đã học được phép hóa hổ. Cho nên, kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho y muốn hại vua.

Cũng may cho y. Tuy vua tin dị-đoan, nhưng đạo Phật đã gieo mối từ-tâm, cho nên Văn-Thịnh không bị tru di tam tộc như Nguyễn Trãi đời sau. Các nhà bình luận phái nho ở đời sau, như Ngô Sĩ-Liên, còn trách rằng: "Nhân-thần mà mưu giết vua cướp ngôi, thế mà còn tha tội. Làm sai hình chính như vậy; ấy bởi vì lỗi vua quá sùng Phật."

Sau đó, Mục Thận được ban chức đô-úy-tướng-quân, và đất Tây-hồ làm thực-ấp (TT). Mục Thận làm quan đến chức phụ-quốc tướng-quân. Sau khi mất, được tặng hàm thái-úy, và được vua sai lập đền ở phường nhà. Ðền ấy nay vẫn còn. Sách VÐUL còn chép thêm rằng cạnh đền có một cổ-thụ rất to, hình dáng cong queo, như thân con rắn lớn. Cành lá thưa-thớt, trong thân có lỗ. Trong lỗ có con trăn làm tổ. Ngày sóc vọng, trăn vào đền, khoanh thành mấy vòng, nằm chầu.

Chuyện trâu trèo muỗm. - Lê Vãn là một tên lính ở giáp Cổ-hoàng (thuộc huyện Hoằng-hóa, tỉnh Thanh-hóa ngày nay). Người giáp ấy có kẻ thấy dấu-tích một con trâu trèo lên một cây muỗm. Xem ra, thì là trâu trắng. Khá lâu sau, trâu lại xuống bằng một lối khác. Lê Vãn bèn đoán rằng: "Trâu trắng là một vật ở thấp. Nay nó lại trèo lên cao. Ðó là điềm kẻ dưới được lên ở trên." Tuy các sách sử không nói, nhưng có lẽ Vãn là tuổi Sửu (cầm tinh con trâu), và tự cho rằng điềm ám-chỉ mình. Y bèn tụ quân làm loạn (TT). Bấy giờ vào năm 1192, đời Lý Cao-tông. Vua sai Ðàm Dĩ-Mông đem quân Thanh-hóa dẹp. Dĩ-Mông sai đẵn chuối bỏ sông, ngăn cản thuyền của Vãn không bày thành trận đuược. Quân Dĩ-Mông thình-lình tiến tới đánh gấp. Quân Vãn liền tan. 6.

(10) - Chuyện Sư Giáng Hổ.- Mùa thu năm Ðinh-mùi 1187, đời Lý Cao-tông, có một sư người Tây-vực (phía tây-bắc Ấn-độ) tới Thăng-long. Cao-tông hỏi: "Sư biết phép gì không?" Sư trả lời: "Biết giáng hổ." Vua sai tên chỉ-hầu-phụng-ngự Lê Năng-Trường đem sư về công-quán ở, và sai người bắt hổ để thử. Hơn một tuần sau, sư nói với Năng-Trường rằng hổ ấy có thể phục được. Năng-Trường tâu vua. Vua sai dựng chuồng trong các Vĩnh-bình. Rồi bảo sư vào chuồng thử hổ. Sư đi ren-rén bước một, miệng đọc chú, tay cầm gậy. Ðến trước hổ, sư lấy gậy đánh vào đầu hổ. Hổ vồ lấy gậy. Sư lui ra, tâu vua: "Có người nào ác, đã giải mất phép chú của tôi."

Một hôm khác, vua lại sai thử lại. Sư xin làm đàn cầu Phật trước. Vua bằng lòng. Nhưng sư làm lễ lâu không chịu vào thử. Vua muốn thử cho đến cùng. Một hôm khác, vua ép sư vào chuồng hổ. Hổ nhảy lồng lên rường nhà, cào, thét. Sư sợ quá, lùi, không biết làm gì nữa. Bèn tựa chuồng mà chết.

Chuyện Thủy-Cung. - Lý Cao-tông thường say đắm chơi bời. Thường lấy vải lụa bọc sáp chung-quanh, rồi vứt xuống hồ trong Thượng-uyển, và sai kẻ hầu lặn xuống mò lên, để giả làm như Thủy-cung đem hiến. Sau, có tên hầu là Vũ Cao, sợ phải lặn mò. Y bèn bịa đặt kể lại chuyện sau: "Cao qua chơi trên bờ hồ. Thấy một người lạ, cầm lấy tay mà dắt đi. Ðến gốc cây muỗm trên bờ hồ, người kia kéo Cao bảo đi xuống nước. Cao sợ chết đuối, không giám tiến. Một lát, thấy nước rẽ ra. Cao bèn đi vào. Ðến một nơi, thấy cung-điện nguy-nga, thị-vệ nghiêm-chỉnh. Cao hỏi ai ở đó. Người kia trả lời: ta ở đó để quản hồ này. Rồi người kia sai giọn mâm-cỗ, cùng Cao uống rượu. Rượu xong, Cao xin về. Người kia đưa cho cau cầm tay, rồi dẫn ra. Ðến gốc cây muỗm, thì không thấy người kia đâu nữa, mà trong tay, cau đã hóa ra mấy viên đá. Bấy giờ Cao mới biết hồ có thần."

Cao-tông nghe chuyện, không sợ-hãi gì cả, mà còn sai chôn sắt để yểm thần. (VSL 1206)

Chuyện gọi nước. - Ðến mùa đông, nước hồ cạn. Cao-tông không thể dong thuyền chơi trên hồ được. Vua bảo kẻ hầu chung-quanh: "Có ai làm phép cho nước sông lên đầy hồ được, thì ta sẽ hậu-thưởng." Có tên Trần Túc trả lời: "Tôi làm được." Không phải như ta tưởng; Túc không làm máy tát nước đâu. Y định làm phép chú. Vua sai làm, nhưng nước không lên. (VSL 1206)

Chuyện giáng sấm. - Tính Cao-tông sợ sấm. Mỗi lúc nghe sấm động thì run sợ. Có tên cận-thần Nguyễn Dư khoe rằng mình có phép giáng sấm. Gặp khi có tiếng sấm kêu, Cao-tông bảo nó làm phép. Dư ngửng mặt lên trời đọc chú. Sấm lại càng kêu lớn. Vua hỏi tại sao, Dư trả lời: "Tôi đã răn nó từ lâu, mà nó còn cường-bạo như thế đó!" (VSL 1206).6

(11) - Sau đây, kê những việc các vua Lý làm, có liên quan với đạo Phật, Lão và Nho. Bảng kê theo hai sách TT3 và VSL4. Khi nào cả hai sách cùng chép một việc, thì sau việc ấy, có đánh dấu (C). Khi nào chỉ một sách chép chuyện ấy mà thôi, thì chỉ đánh một dấu (T) hay (V). Còn về cách chép năm, thì trong khoảng từ năm 1133 đến 1155, hai sách ấy chép lệch năm nhau. Trong khoảng 1133-1139, cũng cùng một chuyện, sách TT chép chậm lại một năm đối với VSL. Trong khoảng 1140-1155, sách TT chép chậm đến hai năm đối với VSL. Muốn biết đâu là hư thực, ta phải so sánh với những tài-liệu thứ ba.

Trong khoảng đầu, TS5 và bia Ðỗ Anh-Vũ đều cho ta biết rằng Lý Thần-tông mất năm Ð. Tị 1137, y như trong VSL. Thế mà TT lại chép chuyện ấy vào năm sau. Ta phải nhận rằng TT sai, mà VSL đúng. Vì đâu có sự sai ấy? Xét kỹ, ta thất TT bỏ sót mất đề-mục năm Q. Sửu 1133, cho nên chép chuyện năm ấy vào năm sau: rồi sự sai ấy kéo truyền đến năm Canh-thân 1140, mà ta phải chữa ra K. Vi 1139.

Trong khoảng thứ hai, TS cho ta biết rằng tháng 4 năm A. Su 1145, có sao Chổi hiện. Thế mà sách TT lại chép vào năm 1146, và VSL lại chép vào năm 1144. Vả chăng, TT còn cho biết rằng năm ấy có tháng 6 nhuận; mà theo lịch Tống thì chính năm A. Su có tháng nhuận. Vậy những việc chép vào năm có sao Chổi đều thuộc về năm A. Su 1145. Trong khoảng nói đây, 1140-1145, TT vẫn chép chậm một năm, mà VSL lại chép sớm một năm.

Trong bảng kê sau đây, tôi sẽ theo nguyên-tắc trên mà chữa niên-kỷ của hai sách.

Ðời Lý Thái-Tổ. - Năm:

1010, dựng chùa riêng Hưng-thiên-ngự-tự và lầu Ngũ-phượng-tinh-lâu trong thành nội. Dựng chùa Thắng-nghiêm ở phương nam thành Thăng-long (C). Phát 2 vạn quan tiền để dựng 8 chùa ở phủ Thiên-đức, đều có dựng bia ghi công. Sức cho các làng phải trùng-tu chùa-chiền. Phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông chùa Ðại-giáo. Chọn dân làm tăng. (T)

1011, trong thành, dựng cung Thái-thanh ở bên tả, chùa Vạn-thọ ở bên hữu. Dựng nhà tăng-kinh Trấn-phúc. Ngoài thành, dựng chùa Tứ-dạ-thiên-vương (T). Dựng chùa Cẩm-y và Long-hưng-thanh-thọ (C).

1014, tăng-thống Thẩm Văn-Uyển xin lập giới-trường ở chùa Vạn-thọ để cho tăng-đồ thụ-giới (xem 1011). Phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng-thiên, và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng-nghiêm và lầu Ngũ-phượng (xem 1010). (T)

1016, dựng các chùa Thiên-quang, Thiên-đức, và tô tượng Tứ-thiện-đế (C). Dựng đền Lý Phục-Man. Chọn hơn 1.000 người ở kinh-sư, cho làm tăng và đạo. (T)

1018, sai Nguyễn Ðạo-Thanh và Phạm Hạc đi Tống xin kinh Tam-tạng (C). Năm 1020 mới về. Vua Lý sai sư Phi Trí tới Quảng-châu đón. (T)

1019, độ dân làm tăng. (T)

1021, dựng núi Nam-sơn chúc thọ (C). Dựng nhà tăng-kinh Bát-giác (T).

1023, sai viết lại kinh Tam-tạng, rồi trữ tại tàng-kinh Ðại-hưng. (T)

1024, dựng chùa Chân-giáo ở trong thành nội, để tiện việc tụng kinh. (T)

1027, sai viết kinh Tam-tạng.

Ðời Lý Thái-Tông. - Năm:

1028, dựng núi Nam-sơn chúc thọ. Dựng miếu thần Ðồng-cổ ở phía hữu thành Ðại-la, cạnh sau chùa Thánh-thọ. Ðặt các giai-cấp cho tăng và đạo. (T)

1031, sai chữa và dựng nhiều chùa và quán; sách VSL chép 150 nơi, sách TT chép 950 nơi. Lập pháp-hội. Ðặt chức ký-lục coi cung Thái-thanh (xem 1011) và giao cho đạo-sĩ. (T)

1034, vua thăm chùa Trùng-quang ở núi Tiên-du. Dựng nhà tàng-thư Trùng-hưng. Sai Hà Thụ và Ðỗ Khoang đi sứ Tống. Vua Tống tặng cho kinh Tam-tạng. Hai vị tăng Nghiêm Bảo-Tính và Phạm Minh-Tâm tự thiêu; sai để xá-lị ở chùa Trường-thánh (T). Ðào được hòm xá-lị ở chùa Pháp-vân tại Cổ-Pháp (C).

1035, cấp 6 nghìn cân đồng để đúc chuông chùa Trùng-quang (xem 1034); chuông "tự dời đến chùa". (T)

1036, khánh-thành phật-hội Ðại-nguyện ở Long-trì. Sai viết kinh Ðại-tạng để trữ ở tàng-thư Trùng-hưng (xem 1034). (T)

1037, tượng Phật cổ ở dưới đất mọc ra ở một vườn dâu tại Ô-lộ. (T)

1038, dựng bia chùa Trùng-quang (xem 1034) (T)

1040 đặt hội La-hán. Khánh-thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh và một vạn cờ phướn. (T)

1041, xây viện Thiên-phúc ở núi Tiên-du; cấp 7.560 cân đồng để đúc tượng Di-lặc và chuông, đặt tại viện ấy (T)

1043, vua đi thăm chùa cổ ở núi Tùng-sơn tại châu Vũ-ninh. Chùa đã đổ. Có một cột đá tự nhiên dựng lại. (T)

1048, dựng đàn Xã-tắc ở ngoài cửa Trường-quảng, để cầu được mùa (C). Ðặt lễ rước trâu đất đầu mùa xuân (V).

1049, dựng chùa Diên-hữu, tức chùa Một-cột (C). Nguyên vua mộng thấy Phật-bà Quan-âm ngồi trên đài hoa sen, đến dẫn vua lên trên đài. Lúc tỉnh, vua kể chuyện lại Triều-thần cho là điềm gở (điềm vua chết). Sư Thiền-tuệ khuyên nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, đặt đài hoa sen có tượng Quan-âm ở trên, như thấy trong mộng. Tăng-đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho vua sống lâu (T).

Ðời Lý Thánh-Tông. - Năm:

1055, dựng chùa Ðông-lâm (TUTA nói ở Ðiển-lạnh) và chùa Tĩnh-lữ, ở Ðông-cứu. (V)

1056, lập hội La-hán ở điện Thiên-an (V). Dựng chùa Sùng-khánh-báo-thiên; phát 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa. Vua tự làm bài minh khắc vào chuông. Chùa này thường gọi là chùa Báo thiên, ở chỗ nhà thờ lớn Cơ-đốc tại Hà-nội ngày-nay. (C)

1057, xây tháp Ðại-thắng-tư-thiên, tức tháp chùa Báo-thiên (xem 1056). Tháp cao vài mươi trượng. TT chép tháp có 12 tầng, VSL chép 30 tầng chắc sai. Dựng các chùa Thiên-phúc và Thiên-thọ; đúc tượng Phạn-vương và Ðế-thích để thờ ở đó. (C)

1058, vua đi xem chỗ xây tháp Ðồ-sơn (ở nơi khách-sạn lớn tại mỏm núi Ðồ-sơn ngày nay). (V)

1059, dựng chùa Sùng-nghiêm-báo-đức ở châu Vũ-ninh. Vua đặt tên cho tháp Ðồ-sơn là Tường long, vì "có rồng vàng hiện ở điện Vĩnh-thọ". (V)

1063, dựng chùa ở núi Ba-sơn để cầu-tự. (V)

1066, sai lang-tướng Quách Mãn dựng tháp ở núi Tiên-du. (C)

1070, dựng chùa Nhị-thiên-vương ở đông-nam thành Thăng-long (V). Tháng 8, dựng (hay chữa, TT chép tu) văn-miếu; tô tượng Khổng-tử, Chu-công, tứ-phối, thất-thập-nhị-hiền để thờ. Cho hoàng thái-tử ra đó học (T).

1071, vua viết chữ Phật, cao một trượng 6 thước (C); khắc vào bia để tại chùa núi Tiên-du. (T)

Ðời Lý Nhân-Tông. - Năm:

1072, ngày Phật-đản, vua tới xem làm lễ tắm Phật. (C)

1073, rước phật Pháp-vân về kinh để cầu tạnh. Lập đền thờ núi Tản-viên (VSL chép vào năm trước).

1075, thi minh kinh bác-sĩ. (T)

1077, đặt hội Nhân-vương ở điện Thiên-an. (V)

1080, đúc chuông chùa Diên-hữu (xem 1049), chuông không kêu, bèn vứt xuống ruộng Qui-điền, cạnh chùa. Ðời sau, tướng Minh là Vương Thông bị Lê Lợi vây ở Thăng Long, bèn phá chuông để đúc súng. (T)

1081, sai Lương Dũng-Luật sang Tống xin kinh Ðại-tạng. (V)

1085, thái-hậu đi chơi khắp sông núi, có ý dựng chùa. (T; nhưng chép lầm ra hoàng-hậu).

1086, thi chọn những kẻ có văn-học, để bổ vào Hàn-lâm. Dựng chùa ở núi Ðại-lãm. (C)

1087, khánh-thành chùa ấy. Ðặt dạ-yến. Vua làm hai bài thơ. (C)

1088, phong sư Khô-đầu làm quốc-sư. Chia chùa làm ba hạng, thượng, trung, hạ. Dựng tháp ở chùa Lãm-sơn (xem 1086). (C)

1094, tháp chùa Lãm-sơn (xem 1088) xong. Vua đặt tên chùa là Cảnh-long-đồng-khánh, và đề tên bằng chữ triện vào trán bia. (V)

1097, được mùa, thái-hậu dựng nhiều chùa. (T)

1098, lập núi Ngao trên đất. Sai Nguyễn Văn-Tín đi sứ Tống, xin kinh Tam-tạng. (V)

1099, dựng chùa ở núi An-lão. (V)

1100, dựng chùa Vĩnh phúc ở núi Tiên-du. (V)

1101, dựng quán Khai-nguyên (V). Chữa chùa Diên-hữu (xem 1080). (C)

1102, dựng quán Thái-dương, Bắc-đế và Khai-nguyên (xem 1101), để cầu-tự. (V)

1105, xây hai tháp lợp bằng ngói sứ trắng ở chùa Diên-hữu và chữa chùa ấy (xem 1101, còn chi tiết thì xel XIV/7). Dựng ba tháp bằng đá ở chùa Lãm-sơn (xem 1094). (C)

1108, xây tháp ở núi Chương-sơn. (V)

1109, xây đài Ðộng-linh. (V)

1110, mở hội đèn Quảng-chiếu ở ngoài cửa Ðại-hưng. (V)

1112, xẩy ra chuyện Giác Hoàng (XIV cth 2)

1114, chữa chùa Thắng-nghiêm (xem 1014). Ðặt Thiên-pháp-đường. Dựng lầu Thiên-phật để đặt một nghìn pho tượng Phật (V)

1115, khánh-thành chùa Sùng-phúc ở làng Siêu-loại, là quê thái hậu Ỷ-lan (V). Trước sau, thái hậu dựng hơn trăm ngôi chùa. Thế truyền rằng thái-hậu hối việc ép Thượng-dương và các cung-nữ chết, cho nên dựng nhiều chùa để sám-hối. (T)

1116, mở hội đèn Quảng-chiếu. Từ Ðạo-hạnh mất và đầu-thai (xem XIV/cth 2). (C)

1117, khánh-thành tháp Vạn-phong-thành-thiện ở núi Chương-sơn (xem 1108). Thái-hậu Ỷ-lan mất. Hỏa táng, và ba cung-nữ chết theo. (C)

1118, khánh-thành tháp Thất-bảo. Khánh thành hội Thiên-phật ở các chùa Thắng-nghiêm (xem 1114) và Thánh-thọ (xem 1028); có dẫn sứ Chiêm-thành đi xem. Cầu được mưa. Vua viết vào bia tám chữ: Thiên-hạ thái-bình, Thánh-cung vạn-phúc. (T)

1119, khánh-thành hội chùa Tĩnh-lữ (xem 1055). (C)

1120, đặt hội đèn Quảng-chiếu (T). Dựng đài Chúng-tiên. (C)

1121, dựng chùa Quảng-giáo ở núi Tiên-du (C). Khánh thành điện Trùng-minh ở chùa Báo-thiên (xem 1057). (T)

1122, khánh-thành tháp Sùng-thiện-diên linh ở núi Ðội-sơn (C).

1123, khánh-thành chùa Quảng-giáo (xem 1121) và chùa Phụng-từ. Dựng đài Tử-liêu. (T)

1124, dựng chùa Hộ-thánh (T). Cầu mưa và xây đài Uất-la. (C)

1126, mở hội đèn Quảng-chiếu, hội Nhân-vương ở Long-trì, hội khánh-hạ Ngũ-kinh ở chùa Thọ-thánh (hay Thánh thọ xem 1118). (T)

1127, khánh thành chùa Trùng-hưng-diên-thọ. Vua mất. Cung-nữ lên hỏa-đàn chết theo vua. (T)

Ðời Lý Thần-Tông. - Năm:

1128, vua tới chùa Thiên-long và Thiên-sùng để tạ sự cờ phướn ở đó tự-nhiên bay. Vua lại tới hai cung Thái-thanh (xem 1011), Cảnh-linh và các chùa quán khác để tạ ơn Phật. Cầu mưa được. (T)

1129, đặt hội khánh-thành tám vạn bốn nghìn bảo-tháp ở các Thiên-phù (có lẽ tháp bằng đất nặn, nay còn thấy nhiều ở đưới đất thành Thăng-Long). (C)

1130, khánh-thành chùa Quảng-nghiêm-tư-thánh. (T)

1132, làm lễ nghinh-xuân ở đình Quảng-văn, trước cửa Ðại-hưng, nay là cửa Nam. (T)

1133, dựng các quán Diên-sinh và Ngũ-nhạc (C). Dựng hai hùa Thiên-ninh và Thiên-thành. Tô tượng Ðế-thích. Vua tới xem. (T)

1134, khánh-thành ba tượng Tam-tôn bằng vàng để ở quán Ngũ-nhạc (xem 1133). Khánh-thành quán Diên-sinh (xem 1133). (T)

1135, chuông cổ ở dưới đất lộ ra (C). Vua ốm nặng, sư Minh-không chữa lành. (T)

1136, rước Phật Pháp-vân về chùa Báo-thiên để cầu mưa. Khánh-thành chùa Linh-cảm. (T)

Ðời Lý Anh-Tông. - Năm:

1142, vua cầu mưa. (T)

1144, vua cầu tạnh. Dựng đền thần Tản-viên (xem 1073), và đền ông Nghiêm, ông Mẫu ở phường Bố-cái. Dựng chùa Vĩnh-long và Phúc-thánh. (T)

1148, đặt hội Nhân-vương ở Long-trì. (T)

1154, đắp đàn Viên-khâu ở phía nam thành Thăng-long để tế lễ Nam-giao. (V)

1156, dựng miếu Khổng-tử (xem 1070). (C)

1160, dựng đền Nhị-nữ (Hai bà) và X y-vưu ở phường Bố-cái (V). Dựng chùa Chân-giáo. Lấy vàng đúc tượng Phạn-vương và Ðế-thích, đặt ở hai chùa Thiên-phù và Thiên-hữu. (V)

1161, dựng lại chùa Pháp-vân ở châu Cổ-pháp. (C)

1162, dựng đài Chúng-tiên, trên lợp ngói bằng vàng, dưới lợp ngói bằng bạc. (V)

1165, mở hội đèn Quang-chiếu-diên-mệnh. (V)

1166, bắt đầu làm lễ tắm Ðạo. Ðến năm 1171 thì bỏ lễ ấy. (V)

1169, chữa chùa Chân-giáo (xem 1160). Rằm tháng ba, có nguyệt-thực, cá ở các cửa sông, cửa bể chết nổi. Vua sai các tăng, ni, đạo-sĩ tụng kinh cầu đảo. (T)

1171, chữa miếu Khổng-tử (xem 1156) và miếu Hậu-thổ. (C)

Ðời Lý Cao-Tông. - Năm:

1179, chữa thêm chùa Chân-giáo (xem 1169). Thi các tử-đệ tăng và tăng-quan. (V)

1180, sai Tam-giáo làm bia để ở Ðại-nội. (V)

1187, chuyện sư giáng hổ (XIV cth 4)

1188, vua đi cầu mưa ở chùa Pháp-vân, rồi rước tượng Phật ở đó về để tại chùa Báo-thiên. (T) Dựng cung Thánh-nghi. (V)

1189, vua đi chơi khắp mọi nơi; đến đâu cũng có phong thần và lập miếu. (T)

1194, lấy vàng sai thếp tượng Phạn-vương và Ðế-thích, đặt tại các chùa ấy. (V)

1195, thi Tam-giáo. Mở hội đèn Quảng-chiếu. (V)

1198, sa thải tăng, theo lời Ðàm Dĩ-mông (XIV 4)

1206, dựng chùa Thánh huân. Chữa chùa Chân giáo (xem 1179). (V) Chuyện vua sợ sấm (XIV 4)

Ðời Lý Huệ-Tông. - Năm:

1224, vua nhường ngôi cho công chúa Chiêu thánh, và ra ở chùa Chân-giáo (xem 1206)

1226, vua Lý tự thắt cổ chết ở chùa ấy. (T)

(Thuvienhoasen.org)