Cách đây hai năm, lúc 12 giờ trưa ngày 27.06.2009, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã tiếp kiến chung Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhân dịp ‘Ad Limina’, gồm 29 vị và ban Diễn từ bằng tiếng Pháp. Trong đó, Đức Thánh Cha đã khích lệ người Công giáo Việt hãy thực hành trong cuộc sống hàng ngày bằng tình bác ái, sự chân thật và tình yêu mãnh liệt của họ cho công ích của xã hội để mọi người nhận ra chân lý là ‘Một người Công giáo tốt cũng là một người công dân tốt’ (un bon catholique est aussi un bon citoyen).

Trong hai năm vừa qua, người cộng sản không từ chối một cơ hội nào để bóp méo lời khuyên này của vị Lãnh đạo Giáo hội Công giáo theo chiều hướng có lợi cho họ hay đảng phái và đi ngược lại với Giáo huấn xã hội Giáo hội để gây nhiều hoang mang, hiểu lầm ngay nơi Kytô hữu chúng ta.

I. NGƯỜI CÔNG GIÁO TỐT.

Khi tự do thuận nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta gia nhập Giáo hội Công giáo và trở thành người Công giáo hay tín hữu Đức Kitô. Người Kitô hữu được mời gọi Nên Thánh để sau khi, chấm dứt đời sống trần gian, linh hồn được vào Thiên Quốc, như các Thánh tiền nhân chúng ta. Đó là những người Công giáo tốt.

Nên lưu ý, các Thánh mà chúng ta nói trên không chỉ là các Thánh mà Giáo hội Công giáo đã tôn phong như 117 Thánh và một Chân phước Tử đạo (Anrê Phú Yên) nước Việt, nơi hạt giống Tin Mừng được gieo vào từ năm 1533, tức đã 478 năm qua. Nếu kết quả chỉ như vậy thì thật là một thất bại cho Đức Kitô và Hội thánh Người. Các Thánh và Chân phước là những Kitô hữu có đời sống anh hùng theo như Chúa Giêsu đáng là những gương sáng cho chúng ta noi theo để đáp lời Thiên Chúa mời gọi Nên Thánh. Trong gần năm thế kỷ qua, nhiều triệu ông bà, cha mẹ chúng ta đã âm thầm sống đời Nên Thánh bằng tuân giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời, có thể tóm tắt trong ‘Kính Chúa, Yêu Người’ và được hoàn thiện bởi đời sống và lời dạy của Ngôi Hai Thiên Chúa được mặc khải trong bốn Phúc âm (x. Khải huyền 7, 9 và 14-17).

Ngoài ra, người Công giáo tốt, để chiến đấu và thắng Sự Dữ trên đường lữ thứ trần gian, còn có những hướng dẫn được ghi trong Sáu Điều Luật Hội Thánh và những tín điều phải tin được viết trong ‘Kinh Tin Kính’. Giáo luật dành những điều khoản từ số 208 đến 223 để qui định những ‘Nghĩa Vụ và Quyền Lợi của các Tín Hữu’. Giáo luật cũng qui định những điều khoản khác liên hệ đến các Giáo sĩ, đặc biệt các Linh mục, những người Công giáo nhận Ơn Thánh để thi hành chức năng của chính Chúa Giêsu.

Các Đức Giáo Hoàng thường ban hành các văn kiện, luôn cập nhật hóa với thời gian, nhưng vẫn theo đúng Phúc âm, về Giáo huấn xã hội để người Công giáo và những người thiện chí dựa vào đó mà đối xử với nhau hầu tạo một xã hội Công Bằng và vì Công Ích.

II. NGƯỜI CÔNG DÂN TỐT.

1. Công dân tốt là người biết thực thi hoàn hảo quyền chính trị của mình.

Tham gia bầu cử trong một quốc gia dân chủ và tự do, công dân cử tri dùng lá phiếu của mình để ủy nhiệm quyền chính trị của mình cho một (hay nhiều) ứng cử viên để, thay mặt mình, quản trị quốc gia theo những điều đã hứa hẹn. Khi đắc cử, sau khi nhậm chức, công dân ứng cử viên phải thực hiện những điều đã hứa nhưng phải nhằm xây dựng và phát triển xã hội Công Bằng và vì Công Ích.

Công Bằng cần thiết để bảo đãm Hòa bình trong nước và tránh những tranh chấp trong xã hội. Công ích hướng tới việc thăng tiến con người; ‘trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại’. Trật tự này đặt nền tảng trên chân lý, được thiết lập trong công bằng, được sinh động bởi tình yêu (x. GLHTCG, các số 1910-1912).

Người công giáo còn nhìn xa hơn : làm sao để cho dân tộc mình chẳng những được hạnh phúc trần thế, mà còn được hạnh phúc vĩnh viễn, điều mà mọi người đều mong ước. ‘Công ích’ đời đời vĩnh cửu. Vì thế, Đức Phaolô VI đã dám quả quyết : ‘làm chính trị là một việc bác ái có tầm vóc quốc gia’. Đức Piô XI còn quả quyết trước rằng : ‘Lãnh vực chánh trị là phạm vi mênh mông của bác ái, bác ái chánh trị’ (18.12.1927).

2. Tại Việt Nam, người cộng sản biến Quê hương thành quốc gia độc đảng.

Tại Việt Nam, người cộng sản biến Quê hương thành quốc gia độc đảng, nơi đó, chỉ có việc ‘đảng cử, dân bầu’ khiến cử tri không tìm thấy ứng cử viên có thể đáp ứng nguyện vọng của mình, nên những công dân tốt có tự do từ chối đầu phiếu.

Hơn nữa, từ ngữ ‘chánh trị’ được người cộng sản làm sai lạc ý nghĩa để coi như đó là một cái gì xấu xa và là một độc quyền của họ. Từ đó, người ta tạo ra biết bao bất công : các Linh mục xin xỏ Đảng để có những chức vụ trong công quyền, dù trái Giáo luật, vẫn được nể nang, trong khi các Linh mục như Cha Nguyễn văn Lý lên tiếng theo lương tâm hay Đức cha Nguyễn văn Thuận (trong thời gian đầu cộng sản chiếm Miền Nam) đã bị đội cho cái mũ ‘làm chánh trị’, dù không một lần tranh cử hay tham chánh. Chưa hết, ngày nay, khi người Công giáo hiệp thông cầu nguyện hay thắp nến vì hoà bình, công lý, tự do và bình an cho những người bị tù oan như tiến sĩ Cù huy Hà Vũ, bị giam cầm trái luật như luật sư Lê quốc Quân, bác sĩ Phạm hồng Sơn, cùng những buổi cầu nguyện tại Thái Hà, Tam Toà, Cồn Dầu… là họ đang làm chính trị… Phải chăng đó là thực thi kinh ‘Thương người có mười bốn mối’, nhất là khi những người không Công giáo đến hiệp thông cầu nguyện với chúng ta.

Đến đây, chúng tôi xin phép Chị Maria Tạ phong Tần để trích một đoạn trong bài viết của Chị có tựa đề ‘Chính trị và Quyền Phản đối theo Lương tâm’ :

« Nguyên tôi có mua quyển Đại Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ (NXB Từ Điển Bách Khoa - 2007) bự tổ chảng, nặng hơn 2 kg, giá 280 ngàn đồng. Sách dày 1476 trang, mỗi trang chia làm ba cột chữ nhỏ lít nhít. Lúc mua tôi nghĩ sách bự chữ nhỏ như vầy chắc là chữ nào cũng có hết. Hôm nay lấy sách ra tra tìm chữ “chính trị” để “nói có sách mách có Từ điển” tôi mới biết mình lầm. Ở trang 195, vần Ch- tr thấy liệt kê có mấy chữ: “chính trung, chính truyền, chính trực” là chuyển sang Ch-v (chính văn, chính vị) rồi. Than ôi! Đại Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ mà không có từ “chính trị”. Thế mới biết nền giáo dục què quặt mấy chục năm nay đã “thành công tốt đẹp” về mục tiêu bưng bít, ngu dân. Hậu quả là dân chúng không hiểu biết (hoặc hiểu biết mơ hồ) về khái niệm chính trị, tạo điều kiện cho “phe ta” cứ đem “con ngáo ộp” chính trị ra nhát ma hay khủng bố.

Bèn lôi quyển Từ điển Trung Việt to chẳng kém của Viện Khoa Học Xã Hội (NXB Khoa Học Xã Hội - 2000) thì thấy:

Chữ “chính” (政,dùng trong từ chính trị), là chữ “chính” (正, giữa, ngay thẳng) được ghép thêm bộ “phộc” (攵, đánh sẽ), được giải thích nghĩa là: là nghiệp vụ của cơ quan nhà nước, công việc. Chữ “chính” có thêm “phộc” tức công việc này phải ngay thẳng, chính danh và có tính bắt buộc (nếu không thực hiện có thể bị “phộc”). Chữ “trị” (治) gồm bộ “thủy” (氵) bên trái, chữ “đài” (台, lầu, cái đài) bên phải, nghĩa là: sắp đặt, quản lý, mở mang, chữa trị. Chữ “trị” có bộ “thủy” (nước) là phải thuận theo nước, nước ở đây có nghĩa là dân, theo đạo “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (民為貴, 社稷次之, 君為輕). Vì vậy, chính trị đơn giản chỉ là công việc quản lý xã hội, thuận theo lòng dân chớ chẳng có gì phức tạp, khó hiểu cả. »

3. ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội’

Chương 8 có tựa đề ‘Cộng đồng chính trị’ giúp chúng ta hiểu thêm về ‘Quyền Hành Chánh Trị’ :

a. Nền tảng của quyền hành chính trị.

Giáo Hội luôn xem xét những cách khác nhau để hiểu quyền hành, đồng thời cố gắng đưa ra và bênh vực một mô hình quyền hành dựa trên bản tính xã hội của con người. Chính vì thế, quyền hành chính trị rất cần thiết vì những trọng trách được giao cho quyền hành ấy. Quyền hành chính trị vốn là và phải là một nhân tố tích cực tới mức không thể thay thế được làm nên đời sống dân sự (Tóm lược Học thuyết xã hội Công giáo số 393).

Quyền hành chính trị phải bảo đảm cho có được một đời sống cộng đồng trật tự và ngay thẳng, không tước đoạt sự hoạt động tự do của các cá nhân và tập thể, nhưng phải điều tiết và định hướng cho sự tự do ấy bằng cách tôn trọng và bảo vệ sự độc lập của các cá nhân và chủ thể xã hội hầu đạt được ích chung. Đây là một công cụ để phối hợp và điều khiển, nhờ đó nhiều cá nhân và đoàn thể trung gian sẽ tiến tới một trật tự, trong đó mọi mối quan hệ, mọi định chế và mọi tiến trình làm việc đều nhằm giúp con người phát triển toàn diện. Quyền này phải được thi hành trong khuôn khổ luân lý và nhân danh công ích theo đúng trật tự pháp lý được luật pháp công nhận. Khi thực hiện được như thế, các công dân bị buộc tự trong lương tâm phải tuân hành’ (số 394).

Chủ thể của quyền hành chính trị là chính nhân dân, được nhìn một cách tổng quát như những người đang nắm chủ quyền. Nhân dân chuyển việc thi hành chủ quyền đó cho những người được họ tự do bầu chọn làm đại biểu của mình, nhưng vẫn giữ đặc quyền là bày tỏ chủ quyền của mình mỗi khi đánh giá công việc của những người có trách nhiệm cai trị, đồng thời thay thế những người ấy nếu họ không chu toàn thoả đáng vai trò được giao phó. Dù đây là quyền đang được thi hành trong mọi quốc gia dưới mọi chế độ chính trị, nhưng quyền ấy sẽ được thi hành một cách bảo đảm và đầy đủ nhất bởi một chính phủ theo một hình thức dân chủ nào đó, nhờ các thủ tục kiểm tra của thể chế dân chủ này. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa trên sự ưng thuận của nhân dân mà thôi thì chưa đủ để đánh giá các phương cách thực thi quyền hành chính trị là ‘công bằng’ (số 395).

b. Quyền hành xét như một sức mạnh luân lý.

Quyền hành phải được hướng dẫn bởi luật luân lý, nên có phẩm giá nhờ được thi hành trong khuôn khổ của trật tự luân lý, ‘trật tự này lại do Thiên Chúa làm nguồn gốc đầu tiên và làm mục tiêu cuối cùng của mình’. Vì quy chiếu về trật tự luân lý, như một trật tự vừa có trước vừa là nền tảng, và vì mục tiêu của quyền hành và vì nhân dân mà quyền hành này hướng tới, nên quyền hành không thể được hiểu là một sức mạnh chỉ được đánh giá theo những tiêu chuẩn mang tính xã hội hay lịch sử. Trật tự này không thể có ở ngoài Thiên Chúa nên, khi dựa vào nó, nhà cầm quyền mới có uy lực để đề ra các nghĩa vụ, có tính hợp pháp luân lý, không phải nhờ vào một ý muốn tuỳ tiện của ai hay do sự khao khát quyền lực, mà chỉ nhằm những hành vi cụ thể để đem lại công ích (số 396).

Chính quyền phải nhìn nhận, tôn trọng và phát huy các giá trị nhân bản và luân lý thiết yếu. Đó là những giá trị bẩm sinh, “phát xuất từ chính sự thật của con người, phản ánh và bảo vệ phẩm giá con người; là những giá trị mà không cá nhân, tập thể hay Nhà Nước nào có thể tạo ra, sửa đổi hay huỷ bỏ”.

Các giá trị này được nhìn nhận, tôn trọng và phát huy như những yếu tố làm nên trật tự luân lý khách quan, làm nên luật tự nhiên được khắc ghi trong tâm hồn con người (x. Rm 2,15) và được coi là điểm tham chiếu chuẩn mực cho các luật lệ dân sự (số 397).

Chính quyền phải ban hành các luật công bằng, tức là những luật phù hợp với phẩm giá con người và phù hợp với những gì lý trí đúng đắn đòi hỏi. ‘Luật con người chỉ là luật bao lâu nó phù hợp với lý trí đúng đắn, và bởi đó, luật ấy được rút ra từ luật vĩnh cửu. Tuy nhiên, khi luật đi ngược lại lý trí, nó được xem là luật bất công; trong trường hợp ấy, nó không còn là luật mà thay vào đó, nó trở thành một hành vi bạo lực’ (số 398). Sự cai trị theo lý trí đặt công dân vào một mối quan hệ, không phải lệ thuộc người kia nhưng là mối quan hệ mà mọi người tùng phục trật tự luân lý, tức tùng phục Thiên Chúa, nguồn gốc tối hậu của trật tự luân lý. Khi chính quyền, vốn có nền tảng nơi bản tính con người và thuộc về một trật tự do Thiên Chúa quy định trước, không chịu theo đuổi công ích, tức đã bỏ qua mục tiêu riêng của mình, và như thế đã vô tình biến mình thành bất hợp pháp (số 398).

(Còn tiếp)