Tác giả: Khải Chính Phạm Kim Thư

A.Truyền Thống Hiếu Thảo Của Người Bắc Mỹ
Như trên đã nói, người Bắc Mỹ vì quá nặng về nếp sống tự do và rất trọng sự riêng tư của đời sống cá nhân nên tình đại gia đình rất hời hợt. Tuy nhiên, nhờ có các người con hiếu thảo, các công dân gương mẫu, người ta đã tìm cách để nhắc nhở tha nhân về bổn phận đối với cha mẹ. Chính vì thế mà các Ngày Báo Hiếu Mẹ (Mother’s Day) và Ngày Báo Hiếu Cha (Father’s Day) mới được được đặt ra.
1. Ngày Mother’s Day (Ngày Báo Hiếu Mẹ)
Ngày Mother’s Day được người Bắc Mỹ đặt ra để hàng năm vinh danh tình mẫu tử vào ngày chủ nhật thứ hai trong tháng năm. Vào ngày này, nhiều nhà thờ cũng như các gia đình đều mở tiệc để ca ngợi công lao của các bà mẹ. Người ta có tục lệ gắn hoa cẩm chướng (carnation) cho nhau. Bông cẩm chướng màu hồng hay tím được gắn trên ngực là dấu hiệu mẹ còn sống, bông cẩm chướng màu trắng là dấu hiệu mẹ đã qua đời. Tục gắn hoa cẩm chướng này chỉ áp dụng cho ngày Mother’s Day mà thôi.Vào thời xa xưa, ngày Mother’s Day được tổ chức lần đầu tiên ở Anh (England) dưới cái tên là Mothering Sunday, có nghĩa là ngày ghi ơn sự săn sóc nuôi dưởng của người mẹ đối với con cái. Tuy nhiên, không có tài liệu nào nói rõ là ngày Mothering Sunday đã được tổ chức vào ngày nào. Sau đó các nước khác cũng tổ chức những ngày tương tự như vậy.
Ở Hoa Kỳ, vào năm 1872, bà Julia Ward Howe là người đầu tiên đề nghị tổ chức ngày Mother’s Day vào mùng 2 tháng sáu Tây để dâng hiến cho hòa bình nhân loại. Sau đó, vào năm 1907, bà Anna Jarvis ở thành phố Grafton, W. Virginia, Hoa Kỳ, đứng ra vận động để ngày Mother’s Day được chính thức công nhận trên toàn quốc Hoa Kỳ. Bà đã đề nghị chọn ngày Chủ Nhật thứ hai trong tháng 5 dương lịch, không thấy nói rõ lý do tại sao, để làm ngày Mother’s Day. Tục lệ đeo hoa cẩm chướng cũng bắt đầu từ đây. Bà Anna Jarvis được phái đoàn của nhà thờ Andrews Church đưa ra quyết nghị công nhận là người sáng lập ra ngày Mother’s Day.Vào năm 1914, vị tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ, Tổng Thống Woodrow Wilson, đã phê chuẩn nghị quyết của Quốc Hội Hoa Kỳ về việc chấp thuận ngày Mother’s Day. Năm sau đó, 1915, Tổng Thống Wilson tuyên bố với quốc dân chính thức chấp nhận ngày Mother’s Day là ngày lễ hàng năm tại Hoa Kỳ. Một điều đặc biệt là không những các người con tỏ lòng biết ơn bà mẹ của mình mà cả các nhà thờ, hội đoàn, và bạn bè đều tổ chức những buổi họp mặt để ca ngợi, vinh danh, tặng quà, tặng thiệp, và tặng hoa cho các bà mẹ. Canada và Hoa Kỳ đều tổ chức kỷ niệm ngày Mothet’s Day vào cùng một ngày với cùng ý nghĩa.
2. Ngày Father’s Day (Ngày Báo Hiếu Cha)
Ở Hoa Kỳ và Canada, ngày Father’s Day được tổ chức vào Chủ Nhật thứ ba trong tháng sáu dương lịch. Vào ngày này người ta tỏ lòng biết ơn và vinh danh công ơn của những người cha (bố) bằng cách biếu quà, tặng hoa, và tặng tấm thiệp cho các người cha với những lời ghi ơn và chúc mừng tốt lành. Người khởi xướng ra ngày Father’s Day là bà Sonora Louise Smart Dodd (Smart là họ của cha và Dodd là họ của chồng). Ở thành phố Spokane thuộc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, vào năm 1909, sau khi nghe bài thuyết giảng về ngày Mother’s Day, Bà Dodd đã có sáng kiến dành một ngày đặc biệt để vinh danh những người cha (bố). Bà có ý muốn vinh danh người cha của bà là ông William Jackson Smart. Ông Smart, sau khi vợ mất, đã ở vậy nuôi 6 người con cho chúng khôn lớn nên người. Bà Dodd đã viết thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền chấp nhận việc tổ chức ngày Father’s Day một cách chính thức trên toàn cõi Hoa Kỳ. Hội đồng mục sư thành phố Spokane cùng với cơ quan YMCA (Young Men’s Christian Association) địa phương đều hết sức hỗ trợ cho thỉnh nguyện này. Do sự cố gắng của Bà Dodd mà ngày Father’s Day đã được tổ chức lần đầu tiên tại thành phố Spokane vào 19 tháng 6 năm 1910. Mãi đến năm 1972, Tổng Thống Richard M. Nixon của Hoa Kỳ mới ký sắc lệnh để chính thức công nhận việc tổ chức ngày Father’s Day trên toàn cõi Hoa Kỳ.

B. Truyền Thống Nhớ Ơn của Người Bắc Mỹ

Sự nhớ ơn của người Bắc Mỹ rất là sòng phẳng. Đã chịu ơn ai thì họ cố trả cho bằng được. Họ cũng rất hợp tình hợp lý trong cách đối xử với nhau. Phần đông người Bắc Mỹ rất tôn trọng lẽ phải. Tình cảm tuy không đậm đà nhưng rất lịch sự, trọng hình thức, và rất biết điều. Chính vì thế, họ cũng biết ơn, nhất là đối với Chúa, với các chiến sĩ trận vong và các vị anh hùng liệt nữ đã dựng nước và giữ nước của họ. Sau đây chúng ta hãy thử tìm hiểu những dịp mà người Bắc Mỹ thường bày tỏ lòng biết ơn đối với thượng đế, các vị anh hùng liệt nữ, các ân nhân, thân thuộc, và bằng hữu.

1. Ngày Thanksgiving Day (Ngày Lễ Tạ Ơn).
Mục đích của ngày lễ Thanksgiving Day là để cám ơn Thượng Đế đã ban phước lành trong năm. Vào ngày này, người ta làm tiệc ăn mừng và dâng lời cầu khẩn. Nguyên thủy, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức lần đầu tiên ở New England. New England là phần đất ở phía đông bắc Hoa Kỳ do Đại Úy John Smith khám phá ra vào năm 1614 và đặt tên là New England vì nó trông giống như địa thế của bờ biển bên Anh. New England gồm các tiểu bang: Connecticut, Maine, Massachusetts, New Hampshire, Rhode Island, và Vermont. Ngày lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ bắt nguồn từ ngày lễ ở New England này. Ở Hoa Kỳ, ngày lễ Thanksgiving Day thường mang tính cách của việc đoàn tụ gia đình với bữa ăn nấu bằng gà tây (turkey) rất thịnh soạn và ấm cúng. Ngày lễ này cũng là dịp để người ta suy tư về niềm tin tôn giáo và dành thì giờ đi nhà thờ cầu nguyện. Có một điều không hợp lý về ngày lễ tạ ơn tại Bắc Mỹ là họ đi sát hại cả hàng chục triệu gà tây (turkeys) để ăn mừng và cám ơn. Như thế thì còn đâu là ý nghĩa cám ơn nữa!
a.Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ý Nghĩa Thuần Túy Tôn Giáo:
Ngày lễ Thanksgiving Day mang ý nghĩa thuần túy tôn giáo đã được một nhóm di dân người Anh tổ chức lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào ngày mùng 4 tháng 12 năm 1619 tại đồn điền Berkeley Plantation bên bờ sông James River mà bây giờ là thành phố Charles City, Virginia. Họ tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day này hoàn toàn với mục đích tôn giáo để cám ơn Thượng Đế và đồng thời để kỷ niệm ngày đầu tiên họ đặt chân lên miền đất hứa này.
b. Ngày Lễ Thanksgiving Day Mang Ý Nghĩa Tạ Ơn vì Được Mùa:
Ngày lễ Thanksgiving Day mang ý nghĩa tạ ơn vì được mùa đã được tổ chức lần đầu tiên tại thành phố Plymouth, Massachusetts, một năm sau khi quân thực dân Plymouth đến định cư ở Hoa Kỳ. Plymouth là tên của một thuộc địa Anh. Một nhóm tín đồ theo đạo Tin Lành người Anh có đầu óc cấp tiến, bị cấm hành đạo, di dân sang Bắc Mỹ thiết lập thuộc địa vào năm 1620 lấy tên là Plymouth Colony. Nhóm tín đồ này được người ta gọi là Quân Thực Dân Plymouth.Thuộc địa này bây giờ là miền đông Massachusetts.
Mùa đông đầu tiên khi uân Thực Dân Plymouth đặt chân đến Massachusetts rất là khủng khiếp. Mùa đông này đã làm chết vào khoảng một nửa số người đến định cư ở đây. Nhưng vào năm 1621, họ có hy vọng được mùa. Chính vì thế mà vào đầu mùa thu năm 1621, Thống Đốc William Bradford đã cho tổ chức ngày hội để ăn mừng hy vọng được mùa và cám ơn Thượng Đế về những tiến triển và thành quả mà dân chúng đã gặt hái được. Tuy nhiên, từ sau mùa thu năm 1621, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào cuối mùa thu khi mà hoa màu đã được gặt hái xong.
c. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Hoa Kỳ:
Phong tục về ngày lễ Thanksgiving Day đã lan tràn từ Plymouth ra các thuộc địa khác của New England. Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng của người Hoa Kỳ khỏi sự cai trị của người Anh từ năm 1775 đến 1781, người Hoa Kỳ có tất cả 8 ngày đặc biệt để tạ ơn sự chiến thắng và thoát khỏi sự hiểm nghèo. Vào năm 1789, Tổng Thống George Washington đã tuyên bố ngày 26 tháng 11 là ngày lễ Thanksgiving Day của quốc gia. Nhưng trong cùng một năm đó, nhà thờ Protestant Episcopal Church lại tuyên bố ngày thứ Năm đầu tiên trong tháng 11 là ngày tạ ơn hàng năm. Trong bao nhiêu năm, Hoa Kỳ không có ngày chính thức dành cho lễ Thanksgiving Day cả. Mãi về sau này, nhờ sự khéo léo và bao công sức vận động của bà chủ bút tờ Godey’s Lady’s Book, bà Sarah Josepha Hale, ngày lễ Thanksgiving Day mới được trở thành ngày lễ chính thức trên toàn quốc Hoa Kỳ. Sau đó Tổng Thống Abraham Lincoln tuyên bố ngày thứ năm cuối tháng 11 năm 1863 là ngày tạ ơn và vinh danh Đức Thánh Cha. Rồi mỗi năm sau đó, trong 75 năm, ngày lễ Thanksgiving Day được tổ chức vào ngày thứ năm cuối tháng 11. Nhưng đến năm 1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt lại cho tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day sớm hơn một tuần nhằm mục đích giúp cho các cơ sở thương mại buôn bán thuận lợi trước mùa Giáng Sinh. Cuối cùng, sau năm 1941, Quốc Hội Hoa Kỳ đã quyết định chọn ngày thứ năm của tuần lễ thứ tư trong tháng 11 dương lịch là ngày lễ Thanksgiving Day và là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa Kỳ.
d. Ngày Lễ Thanksgiving Day của Canada:
Canada cũng tổ chức ngày lễ Thanksgiving Day giống như ở Hoa Kỳ, nhưng lại tổ chức khác ngày vì tùy theo vụ mùa. Trước đây ngày lễ Thanksgiving Day của Canada được tổ chức vào ngày thứ hai cuối tháng 10 dương lịch. Từ năm 1957, chính phủ Canada tuyên bố ngày thứ hai của tuần lễ thứ nhì trong tháng 10 là ngày lễ chính thức dành cho Thanksgiving Day.
2. Ngày Lễ Remembrance Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) của Bắc Mỹ
a. Ngày Lễ Remembrance Day của Canada:
Ở Canada, ngày Remembrance Day được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch mỗi năm để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh trong trận Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ Nhị Thế Chiến, và cuộc chiến tranh Cao Ly. Biểu tượng của ngày Remembrance Day là poppy flowers (hoa anh túc) màu đỏ mà người ta đeo ở ngực trong dịp này. Lý do chính là hoa poppy mọc rất nhiều trên các bãi chiến trường ở Pháp trong Đệ Nhất Thế Chiến.
Loại cây hoa poppy quí nhất là loại có hoa trắng và nhựa của nó được dùng để làm thuốc phiện. Loại cây này được trồng ở Á Đông từ hồi cổ xưa. Có những loại cây poppy mọc ở nơi hoang dã thuộc Châu Âu. Hoa poppy có đủ màu: màu đỏ, màu cam, màu trắng, và màu hồng. Nhụy hoa thường là màu tím hơi đen đen hay màu xanh lam. Hoa poppy đã từng được ngưỡng mộ là một loại hoa có vẻ đẹp thanh tao và duyên dáng.
Vào đúng 11 giờ, ngày 11 tháng 11 năm 1918, một hiệp ước đình chiến được ký kết trên toa xe lửa ở ngoại ô thành phố Compiegne tại Pháp để chấm dứt Đệ Nhất Thế Chiến, 1914-1918. Từ ngày đó, người dân Canada luôn luôn lấy ngày 11 tháng 11 để kỷ niệm những người đã hy sinh cho lý tưởng tự do. Thoạt đầu, ngày lễ kỷ niệm này có tên là Armistice Day (ngày hiệp ước đình chiến). Tiếp đó, nó lại có tên là Thanksgiving Day. Trong đạo luật về các ngày nghỉ lễ (The Holidays Act) được ký vào năm 1970, chính phủ Canada chính thức xác nhận ngày chiến sĩ trận vong của Canada có tên là Remembrance Day và được kỷ niệm vào ngày 11 tháng 11 hằng năm.
Với tinh thần của ngày 11 tháng 11 dương lịch, các nước đều kỷ niệm ngày chiến sĩ trận vong này. Có một số nước dùng cùng tên và cùng ngày, một số nước khác lại dùng khác tên khác ngày. Tuy nhiên, mục đích chung vẫn là để nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh cho lý tưởng tự do và hòa bình của nhân loại. Ở Hoa Kỳ, người ta có hai ngày để nhớ ơn chiến sĩ: ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) và Veterans’ Day (Ngày Cựu Chiến Binh).
Ngày Memorial Day được tổ chức vào ngày thư hai cuối tháng 5 dương lịch, và ngày Veterans’ Day được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Pháp, ngày chiến sĩ trận vong được gọi là Jour Du Souvenir và cũng được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Anh, ngày chiến sĩ trận vong có tên giống như của Canada là Remembrance Day và được tổ chức vào ngày chủ nhật gần nhất của ngày 11 tháng 11 dương lịch. Ở Nga, ngày chiến sĩ trận vong có tên được dịch sang tiến Anh là Victory Day và được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 dương lịch. Ở Đức, ngày chiến sĩ trận vong có tên là Volkstrauertag và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật thứ ba trong tháng 11 dương lịch.
* Truyền Thống Hoa Đeo Hoa Poppy: Trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến mà người Canada gọi là Great War, có nhiều trận chiến dữ dội đã diễn ra tại quận Flanders ở Bỉ (Belgium). Trên bãi chiến trường kinh hoàng đầy chết chóc này, cứ mỗi độ xuân về trong lúc những người lính đang kịch chiến ở hầm hố cá nhân hay giao thông hào, hoa poppy màu đỏ lại nở rộ để đón chào các chiến sĩ can trường đang bảo vệ tự do và hòa bình cho nhân loại.
Vị trung tá quân y kiêm sĩ quan pháo binh Canada, Trung Tá John McCrae, đã viết về chiến trường vinh quang này qua một bài thơ. Với tâm hồn thơ thôi thúc trong khi đang chiến đấu, Trung Tá McCrae đã viết những câu thơ bất hủ. Ông bắt đầu bài thơ “In Flanders’ Fields” bằng những chữ: In Flanders’ Fields the poppies blow. Bài thơ này đã được in trên báo ở Anh, tờ Punch, vào 8 tháng 12, 1915. Chẳng bao lâu, mọi người lính nơi chiến địa đã truyền miệng nhau và họ đều thuộc lòng bài thơ này và coi nó là bài ca của lính vì nó đã chứa đựng tâm tư thầm kín tận đáy lòng cũng như sự kinh hoàng cùng cực của họ trong ý nghĩa cái chết của họ có thể trở thành vô ích và sự hy sinh của họ có thể bị lãng quên.

Bài thơ “In Flanders’ Fields” đã làm cảm động tâm hồn người Canada cũng như bao người khắp nơi trên thế giới đến nỗi họ đã chấp nhận hoa poppy là biểu tượng của nhớ thương và đã được mọi người mua gắn trên ngực vào dịp lễ Remembrance Day, 11 tháng 11 dương lịch. Trung Tá John McCrae quê ở Guelph, Canada. Ông đã tử trận vào ngày 28 tháng giêng năm 1918 trong khi đang chiến đấu ở mặt trận tại Pháp. Sau đây là nguyên văn (bằng tiếng Anh) bài thơ bất hủ “In Flanders’ Fields” của Trung Tá John McCrae.
In Flanders’ Fields
In Flanders’ Fields the poppies blow,
Between the crosses, row on row
That mark our place, and in the sky,
The larks still bravely singing fly,
Scarce heard amidst the guns below.
We are the dead short days ago,
We lived, felt dawn, saw sunset glow,
Loved and were loved, and now we lie in Flanders’ Fields.
Take up our quarrel with the foe,
To you from falling hands we throw
The torch - be yours to hold it high.
If ye break faith with us who die,
We shall not sleep though poppies grow in Flanders’ Fields.
Chiến Địa Phờ Lan Đơ
(Khải Chính Phạm Kim Thư chuyển ngữ)
Nơi đây chiến địa Phờ Lan Đơ, hoa póp-pi khoe mình rực rỡ
Giữa những hàng Thánh Giá mộ chiến binh,
Và trên không, chim sơn ca can trường thản nhiên bay cất cao tiếng hót,
Tuy có du dương nhưng hiếm người nghe được,
Giữa lúc dưới đây lửa đạn tung trời.
Chúng tôi là những người đã chết trong mấy ngày ngắn ngủi vừa qua,
Nhưng chúng tôi đã sống, đã thấy bình minh lồng lộng,
Và ngắm hoàng hôn đỏ ối phương trời.
Chúng tôi đã yêu, yêu say đắm,
Và cũng đã được yêu nồng thắm một thời.
Nay báo đáp Hồng Ân, đền bồi nợ nước ,
Thảnh thơi an nghỉ dưới nấm mộ hoang nơi chiến địa Phờ Lan Đơ.
Hỡi các bạn còn sống nhờ hy sinh yêu thương đùm bọc
Của bao người đã ngã gục cho tự do,
Hãy đối diện cùng quân thù hung hiểm,
Hãy tiếp lấy đuốc thiêng với những cánh tay rắn chắc,
Dâng cao ngọn đuốc nhân bản soi đường,
Từ tay chúng tôi, những người đã năm xuống nhưng cố vươn lên.
Nếu các bạn phản bội niềm tin chính nghĩa
Của chúng tôi, những người đã khuất,
Chúng tôi không thể nào yên giấc,
Dù hoa póp-pi có nở rộ khắp chiến địa Phờ Lan Đơ!

Hằng năm cứ vào khoảng độ hai tuần trước ngày lễ Remembrance Day, ngày 11 tháng 11 ở Canada, và ngày Memorial Day, ngày thứ hai cuối tháng 5 ở Mỹ, người ta có bày bán hoa poppies giả, cánh hoa màu đỏ, nhụy màu xanh lam, ở các cửa tiệm và nhà ngân hàng để gây quỹ giúp thương phế binh. Những người có lòng nhớ ơn các chiến sĩ đã hy sinh vì chính nghĩa tự do và hòa bình nhân loại đều mua bông poppy gắn vào ve áo ở trước ngực trong dịp này.
* Ba Phút MăNiệm: Theo phong tục về sự tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong trong kỳ Đệ Nhất Thế Chiến, ngày kỷ niệm ký hiệp ước đình chiến Armistice Day đã được tổ chức từ năm 1919 theo lời đề nghị của Anh Hoàng, King George V. Nhà vua yêu cầu toàn dân Anh dành 3 phút vào đúng 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 để tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong và Bản Tuyên Cáo Hòa Bình.
Trong ngày tưởng niệm đầu tiên, người ta thấy bất cứ người nào đang làm việc gì cũng tự động ngừng lại và đứng nghiêm để ngả nón cúi đầu tưởng niệm trong ba phút. Không những người ta mà mọi thứ như nhà máy, xe hơi, xe lửa, và ngay cả tàu thủy cũng tắt máy trong ba phút này, dĩ nhiên máy bay được hưởng ngoại lệ. Kể từ dạo đó đến nay, trong ngày Remembrance Day, người ta đều dành ra 3 phút măniệm. Cũng có nơi dành hai phút mà thôi. Người Việt mình thường chỉ dành 1 phút măniệm để tưởng nhớ các chiến sĩ trận vong. Đây là sự khác biệt mà chúng ta cần lưu ý.
b. Ngày Memorial Day (Ngày Chiến Sĩ Trận Vong) của Hoa Kỳ:
Ngày Memorial Day còn được gọi là Decoration Day. Đây là ngày lễ mang tính cách ái quốc tại Hoa Kỳ để vinh danh những người Hoa Kỳ đã hy sinh mạng sống của mình cho đất nước của họ. Nguyên trước đây, ngày này chỉ để vinh danh những chiến sĩ đã chết trong trận nội chiến Civil War vào các năm từ 1861 đến 1865. Nhưng hiện nay ngày Memorial Day mang ý nghĩa vinh danh tất cả những ai đã hy sinh trong các cuộc chiến khi đang phục vụ cho đất nước Hoa Kỳ.
Sau Đệ Nhất Thế Chiến, ngày Memorial Day cũng được coi là Ngày Hoa Poppy (Poppy Day). Từ đó hoa poppy trở thành biểu tượng của một thảm kịch cũng như của sự tái sinh bởi vì những bông hoa poppy đã nở rộ trên khắp các chiến trường ở Pháp vào thời đó. Có nhiều cộng đồng người Hoa Kỳ tuyên bố ngày Memorial Day là do họ khởi xướng mà thành. Tuy nhiên, vào năm 1966, chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng thành phố Waterloo của tiểu bang New York là nơi khai sinh ra ngày Memorial Day.
Dân chúng thành phố Waterloo đã tổ chức buổi lễ Memorial Day lần đầu tiên vào ngày 6-5-1866 để vinh danh các chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc nội chiến Civil War của Hoa Kỳ. Bây giờ, ngày Memorial Day là ngày lễ chính thức của hầu hết mọi tiểu bang ở Hoa Kỳ và đã được chính phủ ban hành thành luật kể từ năm 1971. Các tiểu bang ở phía bắc và một số các tiểu bang phía nam đều tổ chức ngày Memorial Day vào ngày Thứ Hai cuối tháng 5 dương lịch.
c. Ngày Veterans Day (Ngày Cựu Quân Nhân) của Hoa Kỳ: Ngày Veterans Day dùng để vinh danh các chiến sĩ đã từng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Đây là ngày nghỉ lễ chính thức của Hoa Kỳ được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch. Trong ngày lễ này người ta tổ chức các buổi diễn hành, nói chuyện, và các nghi lễ để vinh danh các chiến sĩ vô danh trong nghĩa trang quốc gia Arlington National Cemetery ở Arlington thuộc về miền đông bắc tiểu bang Virginia trên bờ sông Potomac River, đối diện với thủ đô Washington D.C., Hoa Kỳ.
Nguyên trước đây, vào năm 1919, Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tuyên cáo ngày 11 tháng 11 là ngày Armistice Day (Ngày Hiệp Ước Đình Chiến) để nhắc nhở dân chúng Hoa Kỳ về những thảm họa chiến tranh. Rồi một đạo luật được ban hành vào năm 1938 công nhận ngày Armistice Day là ngày nghỉ lễ chính thức của liên bang. Sau cùng, vào năm 1954, Quốc Hội Hoa Kỳ đổi tên ngày Armistice Day (Ngày Hiệp Ước Đình Chiến) thành ngày Veterans Day (Ngày Cựu Quân Nhân) để vinh danh tất cả những cựu chiến binh Hoa Kỳ được tổ chức vào ngày 11 tháng 11 dương lịch.

3. Ngày Independence Day (Ngày Độc Lập) của Hoa Kỳ
Để nhớ ơn tiền nhân đã dựng nước và giữ nước, người Hoa Kỳ hàng năm có kỷ niệm ngày lễ Independence Day (Ngày Lễ Độc Lập) của họ. Người Mỹ tổ chức ngày lễ Independence Day vào mùng 4 tháng 7 hằng năm để kỷ niệm ngày thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ mà ta gọi là ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ.
Nguyên trước kia, vào ngày 2-7-1776, Quốc Hội Cách Mạng của mười ba thuộc địa Anh tại Mỹ đã tuyên bố các thuộc địa này được hưởng tự do và độc lập. Nhưng mãi tới ngày 4 tháng 7, Quốc Hội Mỹ mới chấp thuận Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Kể từ đó, ngày 4 tháng 7 được công nhận là Ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ.
Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ được tổ chức đầu tiên ở tiểu bang Philadelphia vào ngày 8 tháng 7 năm 1776. Vào ngày này, Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được đọc cho dân chúng nghe, chuông từ mọi nhà thờ đều được rung lên vang dội, các ban nhạc đều được người ta thi nhau hòa tấu, và mọi người dân tưng bừng hoan hỉ đón chào ngày trọng đại của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Mãi tới năm 1941, Quốc Hội Hoa Kỳ mới tuyên bố ngày 4 tháng 7 là ngày nghỉ lễ hợp pháp trên toàn nước Mỹ.
4. Ngày Canada Day (Ngày Quốc Khánh Canada)
Người Canada cũng như người các nước khác rất biết nhớ ơn tiền nhân đã tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia họ. Ngày Quốc Khánh Canada có tên là Canada Day. Canada Day là một trong những ngày lễ quan trong nhất của Canada. Nó được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 dương lịch mỗi năm để kỷ niệm ngày mà bốn thuộc địa Anh gồm Newbrunswick, Nova Scotia, Ontario, và Quebec được thống nhất thành một nước dưới cái tên Dominion of Canada. Dominion of Canada do điều luật The British North America Act có hiệu nghiệm từ ngày 1 tháng 7 năm 1867 chi phối.
Các thuộc địa khác của Anh gia nhập Dominion of Canada gồm: Manitoba (1870), British Columbia (1871), Prince Edward Island (1873), Alberta (1905), Saskatchewan (1905), và Newfoundland (1949). Lãnh thổ Yukon chính thức được hiến pháp Canada công nhận là lãnh thổ của Canada vào năm 1898. Lãnh thổ Northwest Territories được Anh chuyển giao cho Canada vào năm 1870.
Lãnh thổ Nunavut được thành lập vào năm 1999. Hiện nay, Canada gồm có 10 tỉnh và 3 lãnh thổ được chia thành 6 vùng: The Atlantic Provinces (gồm bốn tỉnh: Newfoundland, NewBrunswick, Prince Edward Island, và Nova Scotia); Quebec; Ontario; Prairie Provinces (gồm ba tỉnh: Alberta, Saskatchewan, và Manitoba); British Columbia; và Territories (gồm ba lãnh thổ: Yukon Territory, Northwest Territories, và Nunavut Territory).
Từ năm 1867 đến 1982, ngày quốc khánh Canada có tên Dominion Day. Sau khi Thủ Tướng Pierre Elliott Trudeau viết lại hiến pháp Canada, bản hiến pháp này đã trở thành luật của Canada vào năm 1982. Từ năm 1982, ngày lễ Dominion Day được đổi thành ngày Canada Day.
5. Ngày Valentine’s Day (Lễ Tình Yêu)
Lòng biết ơn, tình cảm, cũng như tình yêu có được là nhờ sự quan hệ và giao thiệp trong cuộc sống của ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, thầy trò, bằng hữu, họ hàng, người yêu, đồng nghiệp, và tha nhân. Ở Bắc Mỹ, có một ngày đặc biệt gọi là ngày Valentine’s Day dành để kỷ niệm tình thương yêu giữa các cặp tình nhân, bạn bè với nhau, học trò và thầy cô, và giữa những người thân thuộc trong gia đình với nhau.
Ngày lễ Valentine’s Day được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 dương lịch. Trong dịp này người ta gửi cho nhau những thiệp chúc mừng Valentine. Thiệp Valentine thường được người yêu tặng cho nhau, bạn bè gửi cho nhau, và những người trong gia đình cùng thân thuộc trao nhau để tỏ lòng biết ơn và nhớ tới nhau.
Hàng tuần lễ trước ngày 14 tháng 2, các cửa tiệm đều bán đủ thứ thiệp Valentines và những đồ trang trí cho ngày Valentine. Biểu tượng của Valentine là hình trái tim màu hồng hay đỏ. Học sinh ở các trường trang hoàng lớp học với những trái tim bằng giấy màu hồng hay đỏ cùng với dây đăng ten bằng giấy nhiều màu. Các em còn mua các thiệp Valentines để tặng nhau và tặng thầy cô.
Vào ngày Valentine, người ta tặng kẹo, hoa, và các thứ quà cho người yêu, bạn bè, thầy cô, cha mẹ, anh chị em, ông bà, và họ hàng. Các học sinh lớn hơn thường mở dạ vũ Valentine và tổ chức các buổi tiệc và các cuộc vui khác thật là linh đình và náo nhiệt. Như đã trình bày, ngày Valentine không phải chỉ dành riêng cho những cặp tình nhân, nó dành để mọi người bày tỏ tình thân thương với nhau, trong đó có tình yêu trai gái. Vì thế, nếu ai dịch từ Valentine ra tiếng Việt là Ngày Lễ Tình Nhân thì e không được ổn. Ngày lễ Valentine này phải được gọi là “Lễ Tình Yêu” mới chính xác vì “tình yêu” đây tượng trưng cho cả tình yêu của ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, thầy trò, bằng hữu, họ hàng, người yêu, đồng nghiệp, và tha nhân.
a. Nguồn Gốc Ngày Lễ Valentine:
Có nhiều sự tích để giải thích nguồn gốc của ngày lễ Valentine. Có người cho rằng ngày lễ này bắt nguồn từ ngày hội của người La Mã tên là Lupercalia. Có người cho nó có liên quan đến các vị thánh trong đạo Thiên Chúa lúc mới được thành lập.
Theo tín ngưỡng của người Anh, ngày lễ Valentine được tổ chức vào 14 tháng 2 dương lịch là do các giống chim đều kén vợ tìm chồng của chúng vào ngày này. Có lẽ ngày Valentine tồn tại được đến ngày nay là do sự tổng hợp của ba nguồn gốc trên. Thêm vào đó, người ta tin là mùa xuân là mùa của những cặp tình nhân để họ yêu thương, trân trọng, và trìu mến nhau.
* Ngày hội Lupercalia của người La Mã:
Người La Mã tổ chức ngày hội Lupercalia vào ngày 15 tháng 2. Trong buổi lễ này, những người đàn ông con trai lấy roi da quật nhẹ vào các người tham dự buổi lễ. Trong khi đó thì đàn bà con gái tình nguyện đưa thân mình đón lấy ngọn roi vì tin rằng làm như thế họ sẽ có cơ hội mắn con (sinh đẻ nhiều). Khi người La Mã đô hộ nước Anh vào năm 43 dương lịch, người Anh mới đồng hóa phong tục này của người La Mã để tổ chức ngày lễ Valentine. Các văn thi sĩ cho rằng ngày Valentine có liên hệ với ngày hội Lupercalia vì nó có ngày kỷ niệm gần trùng nhau và có tính cách sinh sôi nẩy nở.
* Các vị Thánh Valentines của đạo Thiên Chúa:
Từ hồi xa xưa, Thiên Chúa giáo có ít nhất là hai vị thánh có tên là Valentine. Chuyện kể rằng Hoàng Đế La Mã tên là Claudius II, vào năm 200 dương lịch, đã cấm thanh niên không được lập gia đình. Nhà vua tin rằng những chàng trai độc thân sẽ là những chiến sĩ giỏi và can trường hơn những đàn ông có gia đình. Trong khi đó, một tu sĩ tên là Valentine lại không tuân lệnh nhà vua và cứ bí mật làm lễ cưới cho các cặp trai gái trẻ.
Có chuyện khác kể rằng một tín đồ đầu tiên của đạo Thiên Chúa có tên là Valentine đã làm bạn với rất nhiều trẻ em. Trong thời gian này, người La Mã đã bỏ tù Valentine bởi vì anh ta không chịu tôn thờ Thượng Đế của họ. Vì không được gặp Valentine nữa, các trẻ em, bạn của Valentine, rất nhớ anh ta. Chúng viết vào các mảnh giấy nhỏ những lời nhớ thương trìu mến đối với Valentine rồi ném mảnh giấy qua song cửa nhà tù cho anh ta đọc. Căn cứ vào câu chuyện này, người ta có thể giải thích tại sao mà có lệ gửi thiệp với những lời yêu thương cho nhau vào dịp lễ Valentine. Trong khi ở tù, anh chàng Valentine đã chữa sáng mắt cho người con gái mù của người cai ngục. Sau đó người ta được biết Valentine đã bị hành quyết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 dương lịch.
Mãi đến năm 496, Thánh Pope Gelasius Đệ I đã phong thánh cho Valentine và chọn ngày 14 tháng 2 làm ngày Thánh Valentine (St. Valentine’s Day). Ngoài ra, chữ Galantine trong tiếng Pháp do người xứ Normandy (ở tây bắc nước Pháp) sử dụng vào thời Trung Cổ có âm gần giống chữ Valentine và có nghĩa là người yêu hay người có tính ga-lăng (lịch sự, biết chiều chuộng đàn bà con gái). Chính vì sự tương đồng này mà người ta cho Thánh Valentine là vị thánh đặc biệt của những cặp tình nhân. Xin nhớ rằng người Pháp dùng chữ Galantine với nghĩa khác và cách phát âm khác, không giống như người xứ Normandy đã dùng ở thời Trung Cổ.
b. Các Giống Chim Chọn Vợ Chồng Vào Ngày 14 Tháng 2 Dương Lịch:
Hồ sơ lâu đời về ngày Valentine’s Day ở Anh ghi rằng các giống chim chọn vợ chồng vào ngày 14 tháng 2. Đây là điều mà các thi sĩ và kịch sĩ Anh như Geoffrey Chaucer và Shakespeare đều ca ngợi trong các tác phẩm của họ.
Geoffrey Chaucer, một thi sĩ của Anh vào những năm 1300, đã viết trong thi phẩm The Parliament of Fowls các câu thơ sau: For this was on St. Valentine’s Day, / When every fowl cometh there to choose his mate (Vì đây là vào dịp của ngày Thánh Valentine, Bao nhiêu chim chóc đều về đây kén vợ tìm chồng).
Shakespeare cũng đề cập lòng tin này trong kịch phẩm A Midsummer Night’s Dream. Một nhân vật trong vở kịch đã gặp cặp tình nhân trong rừng và hỏi họ: St. Valentine is past; / Begin these woodbirds but to couple now? (Thánh Valentine không còn nữa, / Có phải những con chim rừng này bây giờ trở thành đôi uyên ương không?).
Một trong những phong tục thời xưa là vào dịp Valentine, người ta biên tên của các cô gái vào từng mảnh giấy nhỏ rồi bỏ vào trong một caí lộc bình (cái hũ) để các đấng đàn ông con trai rút thăm. Nếu tên của cô nào được một cậu rút thăm trúng thì cô đó sẽ trở thành Valentine của cậu ấy. Cậu ta sẽ chú ý săn sóc cô ta thật đặc biệt và mua quà Valentine cho cô này. Chính vì thế mà người ta có thói quen gọi người mình yêu thương là My Valentine.
Ngày lễ Valentine’s Day đầu tiên trên thế giới được tổ chức ở Anh vào khoảng năm 1400 dương lịch. Hiện nay ngày lễ này được đa số các nước trên thế giới tổ chức để mọi người có dịp bày tỏ và trân trọng tình yêu của nhau. Thật là một tục lệ rất đáng được bảo tồn và phát huy.
6. Ngày Lễ Christmas Day (Lễ Giáng Sinh)
Ngày lễ Thanksgiving của Hoa Kỳ cùng với ngày lễ Giáng Sinh và ngày Tết Tây tạo thành một mùa nghỉ lễ vui tươi bắt đầu từ tháng 11 đến hết tháng 12 Dương lịch. Ngày lễ Christmas mà ta thường gọi là Nô-En (Noel) hay Lễ Giáng Sinh và ngày Tết Tây là hai ngày lễ hết sức trọng đại của người Bắc Mỹ. Không khí của hai ngày lễ này cũng giống như không khí ngày Tết Nguyên Đán của ta vậy. Đây là dịp để mọi người bày tỏ lòng săn sóc, cám ơn, và tình thương đối với nhau, đồng thời cũng là dịp cho mọi người được ăn chơi thỏa thích. Có nghèo đến mấy, mọi người cũng phải sắm những món quà tặng nhau, nhất là các bậc ông bà cha mẹ, bằng đủ mọi cách họ phải mua cho mỗi đứa con, mỗi đứa cháu, hay mỗi người trong gia đình một món quà thật là ưng ý. Con cháu cũng mua quà và thiệp Giáng Sinh tặng bố mẹ và ông bà.
Người ta chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh hàng hai tháng trời trước đó. Kể từ đầu tháng 11 dương lịch, mọi người đều háo hức rộn rực đón mừng Giáng Sinh và năm mới giống như người Việt ta chuẩn bị cho ba ngày Tết vậy. Có một điều khác biệt là người ta ăn mừng Giáng Sinh vừa theo tinh thần tôn giáo vừa theo phong tục dân gian. Cao điểm của sự háo hức rộn rực là vào tối trước ngày Giáng Sinh (Chirstmas Eve). Sau đó mọi thứ coi như bị xì hơi từ từ cho tới đêm trừ tịch của Tết Tây thì không khí vui nhộn lại bùng lên một chút rồi tắt lịm.
Tết ta mang nặng ý nghĩa phong tục dân gian nhiều hơn. Có nhiều người Việt chúng ta chuẩn bị cho 3 ngày Tết trước đó cả năm. Náo nức nhất là từ tháng một (tháng 11) đến tháng chạp (tháng 12). Đêm giao thừa thì thật là tuyệt vời. Đây là giờ phút thiêng liêng nhất của một năm. Sau ba ngày Tết, dân gian ta còn vui cái không khí của Tết cho mãi đến hết tháng giêng (tháng 1). Ca dao ta có câu: Tháng giêng ăn Tết ở nhà, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Dù giầu nghèo thế nào mặc lòng, người ta cũng phải lo cho ba ngày Tết thật chu đáo. Người xưa có câu: Giầu ba ngày Tết, khốn khó cũng ba ngày Tết. Người Bắc Mỹ cũng vậy. Họ còn vay nợ để tiêu xài cho thỏa thích trong mùa Giáng Sinh. Đây là cái mốt của mọi người. Trước đây, chính phủ Canada còn cấp cho dân ăn tiền trợ cấp xã hội (welfare) một khoản tiền đặc biệt chỉ dành để tiêu xài trong mùa Giáng Sinh .
Tuy rằng ngày lễ Giáng Sinh là ngày lễ của các người theo đạo Thiên Chúa được tổ chức mỗi năm vào ngày 25 tháng 12 dương lịch để kỷ niệm ngày sinh của Chúa Jesus, nhưng đã hàng bao thế kỷ nay, ngày lễ này đã trở thành phong tục truyền thống của đời và đạo. Mọi người, dù có theo đạo Thiên Chúa hay không, cũng đều tổ chức mừng ngày Chúa ra đời.
Truyền thống tôn giáo gồm có các sinh hoạt như kể chuyện về ngày Chúa ra đời, hát các bài hát Giáng Sinh gọi là Christmas Carols, đi lễ nửa đêm vào tối hôm trước ngày Giáng Sinh, và trang hoàng nhà cửa cùng nhà thờ bằng những cảnh chúa sinh ra đời như hang đá và máng cỏ, v.v.
Truyền thống dân gian gồm có diễn hành Santa Claus Parade, trang trí nhà cửa và các công viên bằng hình Ông Già Nô-En (Santa Claus), cây Nô-En (Chirstmas Tree), dây đèn đủ màu să㬠và vòng hoa (Wreath). Mọi người tặng quà cho nhau, mở tiệc và dạ vũ, kể chuyện cho trẻ em nghe, và hát những bài hát vui tươi hay đọc thơ như bài “The Night Before Christmas” (ĐêmTrước Lễ Giáng Sinh) v.v.
Ngày Lễ Giáng Sinh và Tết Dương Lịch quả thật là thời gian tuyệt vời để mọi người nghĩ tới nhau, săn sóc nhau, tỏ lòng biết ơn nhau, và vui chơi thỏa thích. Mùa đông tháng giá cũng vì thế mà ấm áp lên, có vẻ ngắn đi, và mang đầy ý nghĩa thân tình.

III. Nhập Gia Tùy Tục, Nhập Giang Tùy Khúc

Đành rằng phong tục của người Việt ta phải giữ, nhưng chúng ta chỉ nên giữ lấy cái hay cái đẹp của phong tục mình và tránh những điều có thể gây phiền hà cho người chung quanh cũng như làm sao để khỏi lôi thôi tới pháp luật ở nơi quê hương mới này. Để được sống hạnh phúc nơi quê hương mới này, đa số người Việt đang sống ở hải ngoại đều đồng ý là ta phải học thêm những cái hay cái đẹp của người để làm giầu cho phong tục Việt và nhất là để hòa mình vào nếp sống mới cho đời chúng ta được thoải mái và con cháu chúng ta được vui tươi.
Các nhà giáo dục đều nhận thấy vai trò của phụ huynh và các hội đoàn người Việt ở hải ngoại rất là quan trọng trong việc tiên phong hướng dẫn con em chúng ta về truyền thống hiếu thảo và lòng biết ơn của người Việt. Tuy sống và lớn lên ở xứ ngưới, con em chúng ta vẫn cần phụ huynh khuyến khích chúng học hỏi cái hay cái đẹp về phong tục mới của người bản xứ trong khi vẫn giúp chúng duy trì phong tục và tập quán của người Việt Nam. Người ta tin rằng việc làm cụ thể và có hiệu quả nhất là phụ huynh và cộng đồng nên làm gương cho con em về những hành động hiếu thảo và biết ơn.
Chúng tôi ghi nhận được những hoạt động đầy ý nghĩa của các hội đoàn người Việt trên toàn cõi Bắc Mỹ. Có rất nhiều nơi đã tổ chức được những ngày cám ơn Canada, Thank You Canada, hay ngày cám ơn nước Mỹ, Thank You America, để cám ơn chính phủ và nhân dân Canada và Hoa kỳ về nghĩa cử cao đẹp mà họ đã làm để giúp đỡ người Việt tỵ nạn cộng Sản chúng ta.
Đã có rất nhiều các hội đoàn người Việt tham dự và đặt vòng hoa tại đài kỷ niệm nhân ngày chiến sĩ trận vong Remembrance Day của Canada, ngày chiến sĩ trận vong Memorial Day, và ngày cựu quân nhân Veterans Day của Hoa Kỳ. Trong các ngày quốc khánh của Canada cũng như của Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt chúng ta còn tham gia vào các cuộc diễn hành và triển lãm nữa. Còn có nhiều hội đoàn tổ chức ngày nhớ ơn người bảo trợ thật là trọng thể. Đây là những việc làm đáng được khuyến khích và tuyên dương.
Chúng tôi còn nhớ ở thành phố London, Canada, hồi Hội Người Việt London mới được thành lập vào 1979, một đại diện của hội đã hiện diện và đặt vòng hoa trong buổi lễ chiến sĩ trận vong Remembrance Day. Một điều đặc biệt hơn nữa là có trên năm chục hội đoàn của những người di dân thuộc các nước khác ở London mà dạo đó chỉ có vị đại diện của Hội Người Việt London ghi danh tham dự buổi lễ này mà thôi. Các viên chức tòa đô chính London và các giới cựu chiến binh Canada đã hết sức thán phục nghĩa cử biết ơn cao đẹp của đồng bào người Việt chúng ta.
Vào năm 1996, các hội đoàn người Việt ở Toronto, Canada còn có sáng kiến tổ chức ngày vinh danh thầy cô, Teachers’ Day. Buổi sinh hoạt này đã thành công mỹ mãn và làm các viên chức của sở giáo dục, thầy cô người Canada, và các cấp chính quyền địa phương hết sức thán phục truyền thống biết ơn thầy cô của dân Việt. Người Canada chưa có ngày nào dành riêng để nhớ ơn thầy cô cả. Học trò ở đây coi việc dạy học của các thầy cô như một dịch vụ thương mại, nhất là ở bậc đại học. Hằng năm, cứ đến cuối học kỳ, sinh viên của một số các trường đại học có quyền cho điểm thầy cô. Tùy theo chúng thương hay ghét mà thầy cô có được dạy tiếp trong học trong niên khóa tới hay không.
Đa số học sinh, và ngay cả phụ huynh người Bắc Mỹ đã không coi trọng thầy cô như học sinh và phụ huynh người Việt chúng ta. Chính vì thế mà việc làm của cộng đồng người Việt Toronto đã làm cho các bậc phụ huynh và chính quyền Canada phải xét lại thái độ của họ đối với thầy cô. Thầy cô giữ vai trò tối quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Địa vị của thầy cô có được kính trọng, công việc làm của thầy cô có được phụ huynh và học trò nhớ ơn, thì việc giáo dục con em mới khá được. Cao dao của ta có câu: Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thời yêu lấy thầy.
Trước đây, Liên Hiệp Quốc có yêu cầu các quốc gia tổ chức ngày vinh danh các thầy cô của họ. Tên bằng tiếng Anh của Ngày Vinh Danh Các Thầy Cô là World Teachers’ Day. Theo tin tờ Toronto Star, số ngày 5-10-2000, ngày Vinh Danh Thầy Cô là ngày Thứ Năm, 5-10-2000. Tuy nhiên, chưa thấy ngày Vinh danh Thầy Cô được ghi trong các tự điển hay trong World Book, Millennium 2000. Ngày này cũng chưa được phổ biến rộng rãi. Rất nhiều học sinh chưa biết tới Ngày Vinh Danh Thầy Cô. Dù sao đây cũng là một tiến bộ lớn lao trong sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc.
Chúng tôi cũng đã chứng kiến một hội đoàn người Việt ở Toronto tổ chức buổi sinh hoạt hằng năm vào mùa báo hiếu Vu Lan để vinh danh các bậc cha mẹ rất có ý nghĩa và rất cảm động đối với những người có mặt ngày hôm đó. Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có nhiều tờ bao Việt Ngữ và các tổ chức cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ có nghĩa cử vị tha thật cao đẹp. Đó là việc tổ chức quyên tiền giúp nhân dân Bắc Mỹ tại những nơi bị các trận thiên tai như động đất và bão lụt. Cử chỉ cao đẹp này đã làm vẻ vang người Việt ở Bắc Mỹ trong tinh thần: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ nguồn, và Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Chúng tôi lại tận mắt thấy trong một số các gia đình Việt Nam ở Bắc Mỹ có những người con dù đã ngoài 60 tuổi mà vẫn đích thân chăm nom săn sóc cha mẹ già, tuổi từ 85 đến ngoài 90. Dù có bận trăm công nghìn việc, các người con này cũng giữ cha mẹ ở nhà để phụng dưỡng chu đáo, chứ không chịu giử cha mẹ vào viện dưỡng lão như người bản xứ đã và đang làm.
Trên đây là những cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa. Tuy nhiên đó mới chỉ có một số các hội đoàn và cá nhân làm được mà thôi. Chính vì vậy mà các người hoạt động cộng đồng lâu năm đều đồng ý với nhau rằng các phụ huynh và cộng đồng người Việt phải khuyến khích con em mình tham gia mọi sinh hoạt của địa phương nơi mình đang định cư. Phải coi đất nước này ít ra cũng như quê ngoại của mình, coi mọi sinh hoạt ở địa phương cũng như sinh hoạt của gia đình mình. Có như thế chúng ta mới xứng đáng với truyền thống hiếu thảo và biết ơn của tiền nhân để lại.