Ðông Timor (UCAN 8/01/2004) - Vào đầu năm 2004, Ðức Cha Basilio Do Nascimiento, giám quản tông tòa Dili và Baucau của Ðông Timor đã bày tỏ sự lạc quan của ngài về tiến trình phát triển dân chủ tại nước này, cũng như quan hệ giữa người công giáo và hồi giáo trong nước.
Ðông Timor là một quốc gia có 92% tổng dân số là người công giáo, trong khi người Hồi Giáo chỉ chiếm 2%. Với 92% dân số công giáo, Ðông Timor được coi là quốc gia có tỉ lệ người công giáo cao nhất ở Á Châu. Trong cuộc phỏng vấn vào dịp cuối năm 2003 với hãng thông tấn công giáo Á Châu UCAN, Ðức Cha Nascimiento ghi nhận là quan hệ giữa người Hồi Giáo và Công Giáo tại Ðông Timor đã có từ gần 4 thập niên qua, đặc biệt trong khoảng thời gian Ðông Timor còn bị sát nhập với Indonesia từ 1975 đến năm 1999, dưới quyền cai quản của Ðức Cha Carlos Felipe Ximenes Belo, nay đã về hưu. Ðức Cha Nascimiento được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám quản tông tòa Baucau vào năm 1996, khi giáo phận này được thành lập tách ra từ giáo phận Dili. Ngài kiêm luôn chức vụ giám quản tông tòa Dili, khi Ðức Cha Belo từ chức vào tháng 11 năm 2002 sau 14 năm cai quản giáo phận Dili.
Theo Ðức Cha Nascimiento, các nhà lãnh đạo kitô giáo và hồi giáo tại Ðông Timor luôn thảo luận về sự phát triển trong các cộng đoàn, mỗi khi họ đến thăm viếng nhau vào những dịp lễ lớn của mỗi tôn giáo. Những cuộc viếng thăm này được đánh giá là có ảnh hưởng rất tốt cho quan hệ giữa người kitô và hồi giáo ở Ðông Timor. Ðức Cha cho biết ngài có đến thăm một đền thờ Hồi giáo ở miền Tây Timor vào tháng 11 năm 2003, nhân dịp kết thúc tháng chay tịnh Ramadan của người hồi giáo. Tại đây, ngài đã gặp đại sứ Malaysia tại Ðông Timor. Vị đại sứ Malaysia rất ngạc nhiên khi thấy có một vị Giám Mục công giáo trong đền thờ hồi giáo. Ông đã liên lạc với giới truyền thông Malaysia để tường thuật về chuyện này.
Ðức Cha Nascimiento cho rằng, việc giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với người Hồi Giáo trong một quốc gia nhỏ và còn trẻ như Ðông Timor là một đóng góp tích cực cho nền dân chủ của quốc gia. Ngài ghi nhận sự kiện vị thủ tướng đầu tiên của Ðông Timor là một người hồi giáo. Ðiều này chứng tỏ dân chủ tại quốc gia mới được thành lập này đang có dấu hiệu phát triển tốt. Ðông Timor chính thức trở thành quốc gia độc lập vào tháng 5 năm 2002. Nhận định về những thành quả của chính phủ Ðông Timor trong năm 2003, nhà lãnh đạo Giáo hội Công giáo Ðông Timor lưu ý tới quan hệ làm việc tốt đẹp giữa tổng thống, thủ tướng và nội các của ông, cũng như giữa các nhà lập pháp. Tuy nhiên trong năm 2002 trước đó, thì các chính trị gia hầu như tập trung vào việc củng cố thế đứng của họ nhiều hơn. Vì thế trong năm 2004, ngài mong đợi là là giới lãnh đạo Ðông Timor sẽ thực sự dấn thân vì quyền lợi chung của người dân Ðông Timor, chứ không phải chỉ chú tâm vào quyền lợi cá nhân hay của đảng phái mà thôi. Theo Ðức Cha, trong một thể chế dân chủ, đảng phái chính trị chỉ là chiếc cầu để thu nhận và chuyển đạt những nguyện vọng của người dân.
Dù vậy, ngài thừa nhận rằng tuy người dân mong đợi các giới chức chánh phủ sẽ giải quyết mau lẹ, --- càng nhanh càng tốt, --- những vấn đề của quốc gia, nhưng mọi người cần phải thực tế hơn. Dân chúng Ðông Timor cần nỗ lực để đạt tới những hy vọng của họ, hợp tác chặt chẽ với chính phủ, với giới lãnh đạo giáo hội, và với cộng đồng quốc tế, để mang lại sự phát triển cho đất nước. Ðức Cha Nascimiento bày tỏ sự hài lòng về sự trưởng thành của người dân Ðông Timor. Ngài nhận thấy trong mọi tầng lớp dân chúng, họ đã ý thức là họ không thể lệ thuộc hoàn toàn vào chính phủ hay người khác, hoặc ngồi đợi phép lạ từ Thiên Chúa. Giờ đây, người dân Ðông Timor ngày một hiểu được rằng họ phải làm mọi nỗ lực có thể để cải thiện đời sống của chính họ. Và ngài kết luận rằng Ðông Timor đang có những cải tiến về mặt ổn định, an ninh và kinh tế. Ðiều thiết yếu là người dân nước này cần gia tăng thêm tinh thần tự lập để góp phần kiến tạo nền dân chủ và phát triển cho quốc gia.
Ðông Timor là một quốc gia có 92% tổng dân số là người công giáo, trong khi người Hồi Giáo chỉ chiếm 2%. Với 92% dân số công giáo, Ðông Timor được coi là quốc gia có tỉ lệ người công giáo cao nhất ở Á Châu. Trong cuộc phỏng vấn vào dịp cuối năm 2003 với hãng thông tấn công giáo Á Châu UCAN, Ðức Cha Nascimiento ghi nhận là quan hệ giữa người Hồi Giáo và Công Giáo tại Ðông Timor đã có từ gần 4 thập niên qua, đặc biệt trong khoảng thời gian Ðông Timor còn bị sát nhập với Indonesia từ 1975 đến năm 1999, dưới quyền cai quản của Ðức Cha Carlos Felipe Ximenes Belo, nay đã về hưu. Ðức Cha Nascimiento được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám quản tông tòa Baucau vào năm 1996, khi giáo phận này được thành lập tách ra từ giáo phận Dili. Ngài kiêm luôn chức vụ giám quản tông tòa Dili, khi Ðức Cha Belo từ chức vào tháng 11 năm 2002 sau 14 năm cai quản giáo phận Dili.
Theo Ðức Cha Nascimiento, các nhà lãnh đạo kitô giáo và hồi giáo tại Ðông Timor luôn thảo luận về sự phát triển trong các cộng đoàn, mỗi khi họ đến thăm viếng nhau vào những dịp lễ lớn của mỗi tôn giáo. Những cuộc viếng thăm này được đánh giá là có ảnh hưởng rất tốt cho quan hệ giữa người kitô và hồi giáo ở Ðông Timor. Ðức Cha cho biết ngài có đến thăm một đền thờ Hồi giáo ở miền Tây Timor vào tháng 11 năm 2003, nhân dịp kết thúc tháng chay tịnh Ramadan của người hồi giáo. Tại đây, ngài đã gặp đại sứ Malaysia tại Ðông Timor. Vị đại sứ Malaysia rất ngạc nhiên khi thấy có một vị Giám Mục công giáo trong đền thờ hồi giáo. Ông đã liên lạc với giới truyền thông Malaysia để tường thuật về chuyện này.
Ðức Cha Nascimiento cho rằng, việc giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với người Hồi Giáo trong một quốc gia nhỏ và còn trẻ như Ðông Timor là một đóng góp tích cực cho nền dân chủ của quốc gia. Ngài ghi nhận sự kiện vị thủ tướng đầu tiên của Ðông Timor là một người hồi giáo. Ðiều này chứng tỏ dân chủ tại quốc gia mới được thành lập này đang có dấu hiệu phát triển tốt. Ðông Timor chính thức trở thành quốc gia độc lập vào tháng 5 năm 2002. Nhận định về những thành quả của chính phủ Ðông Timor trong năm 2003, nhà lãnh đạo Giáo hội Công giáo Ðông Timor lưu ý tới quan hệ làm việc tốt đẹp giữa tổng thống, thủ tướng và nội các của ông, cũng như giữa các nhà lập pháp. Tuy nhiên trong năm 2002 trước đó, thì các chính trị gia hầu như tập trung vào việc củng cố thế đứng của họ nhiều hơn. Vì thế trong năm 2004, ngài mong đợi là là giới lãnh đạo Ðông Timor sẽ thực sự dấn thân vì quyền lợi chung của người dân Ðông Timor, chứ không phải chỉ chú tâm vào quyền lợi cá nhân hay của đảng phái mà thôi. Theo Ðức Cha, trong một thể chế dân chủ, đảng phái chính trị chỉ là chiếc cầu để thu nhận và chuyển đạt những nguyện vọng của người dân.
Dù vậy, ngài thừa nhận rằng tuy người dân mong đợi các giới chức chánh phủ sẽ giải quyết mau lẹ, --- càng nhanh càng tốt, --- những vấn đề của quốc gia, nhưng mọi người cần phải thực tế hơn. Dân chúng Ðông Timor cần nỗ lực để đạt tới những hy vọng của họ, hợp tác chặt chẽ với chính phủ, với giới lãnh đạo giáo hội, và với cộng đồng quốc tế, để mang lại sự phát triển cho đất nước. Ðức Cha Nascimiento bày tỏ sự hài lòng về sự trưởng thành của người dân Ðông Timor. Ngài nhận thấy trong mọi tầng lớp dân chúng, họ đã ý thức là họ không thể lệ thuộc hoàn toàn vào chính phủ hay người khác, hoặc ngồi đợi phép lạ từ Thiên Chúa. Giờ đây, người dân Ðông Timor ngày một hiểu được rằng họ phải làm mọi nỗ lực có thể để cải thiện đời sống của chính họ. Và ngài kết luận rằng Ðông Timor đang có những cải tiến về mặt ổn định, an ninh và kinh tế. Ðiều thiết yếu là người dân nước này cần gia tăng thêm tinh thần tự lập để góp phần kiến tạo nền dân chủ và phát triển cho quốc gia.