Nhật KýTâm Hồn Của ĐGH Gioan XXIII

THỤ PHONG LINH MỤC

1904

LỄ THÁNH GIA

24 /1

[19]

Hôm nay, cần duyệt lại đời sống trong tháng qua.

Vắn tắt thôi. Có tiến bộ, nhưng rất ít. Căn bản là tội lỗi, chừa rất chậm. Tính tự ái bị vố khá đau, vì kết quả kỳ thi không mấy đẹp. Thú thật, tôi nghe nhục. Việc thực hiện khiêm nhường và bỏ mình thật, tôi còn là a b c. Cái bị không đáy làm gì phải bối rối, đổ sao cho đầy.

Đọc kinh vội vã, từng phát một, thiếu sự thanh tịnh an bình liên lỉ trong tâm trí. Ít can đảm để hãm mình, yếu hèn trước cả sự khó nhỏ. Dốc lòng sẽ không phí một giây nhưng thực tế đã phung phí hằng giờ vô ích; thiếu dè dặt khi bàn cãi, lúc tâm sự, có khi trong sự xét đoán. Cách chung, đời sống cần sốt sắng hơn, đạo đức hơn, đượm sức sống siêu nhiên hơn, can đảm và kiên nhẫn trong cách sống và sự dốc lòng.

Tôi bắt đầu làm việc với kinh nghiệm cá nhân dồi dào hơn. Nguyện ngắm là trước nhất, cần giữ đủ thời giờ. Nếu đề tài suy gẫm ít hấp dẫn, tôi sẽ nghĩ đến sự Thương khó Chúa Giêsu, đến thực trạng của linh hồn, thành thật hạ mình với tội lỗi riêng; nghĩ đến sự hiệp nhất với Chúa, đến sự dốc lòng hữu ích trong ngày.

Trong lớp, giữ miệng, nghiêm chỉnh và nhẫn nại; biết bao nhiêu hoa đẹp trong ngày tôi có thể dâng Giêsu.

Khi trò chuyện cần dè dặt về nội dung cũng như hình thức; không nói xấu ai, dù cách úp mở; một chút nghiêm trang, nhưng không kiểu cách; nói về các đấng Bề trên phải cẩn thận; tốt nhất không dự vào việc không liên quan đến bậc mình. Điều mình nghĩ trong bụng sẽ không công khai nói với bất cứ ai.

Thời giờ học là vàng ngọc, không phí phút nào để đọc những gì không liên quan đến môn học. Phải khắt khe trong lãnh vực này, dường như mỗi tối trước khi ngủ tôi sẽ phải trình với Chúa Giêsu về điều tôi học biết và thời giờ tôi phung phí.

Cách chung, sẽ mật thiết và trìu mến hiệp nhất với Thánh Tâm, Mẹ Vô nhiễm, bằng tư tưởng, lời nguyện tắt và quyết chí. Tự ái hay làm chia trí, nên cần đặt trọn tâm hồn vào việc đang làm, không lo đến việc nào khác. “Giêsu, con trông cậy Chúa”.

TĨNH TÂM BA NGÀY TUẦN THÁNH

28-30/3 /1904

[20]

Không thể than vãn mãi cũng như các lần trước. Lần này chỉ xin ghi lại đặc điểm của ba hôm tĩnh tâm. Việc phải đến, đã đến, tôi xấu hổ vì đã bất trung, xin cám ơn Chúa muôn đời vì vô vàn ơn trọng Chúa ban dồi dào.

Ngày thụ phong linh mục sắp đến, tôi bắt đầu hưởng nguồn vui khôn tả. Biến cố trọng đại sắp đến, tôi cần tăng gấp đôi nỗ lực, để cất bớt phần nào sự bất xứng. Bí tích chỉ ban có một lần, được ơn nhiều ít là do ta chuẩn bị.

Những tháng cuối cùng này, tôi sẽ hết sức cầm trí, tập trung tư tưởng về những gì Giêsu đang chờ nơi tôi. Tôi hồi tưởng những việc đạo đức của các năm đầu nơi tiểu chủng viện, để sự sốt sắng hôm nay được trong mát, thơm tho, trở lại làm chú bé chủng sinh, lấy lại sự đạo đức đơn sơ nhưng khéo léo của những năm hạnh phúc.

Với chức vụ mới, tôi lấy làm thích thú để làm việc kính các thánh hổn mạng khả ái của tôi: ba vị thánh trẻ Luy, Stanislas, Gioan Berchmans, Thánh Philipphê Nêri, Thánh Phanxicô Salêsiô, Thánh Alphongsô Ligôri, Thánh Tôma Aquinô, Thánh Inhaxiô Loyola, Thánh Carôlô Bôrômêô,…

TĨNH TÂM CHUẨN BỊ CHỨC LINH MỤC

TẠI DÒNG CÁC CHA THƯƠNG KHÓ COELIUS

TỪ 1-10/8 /1904

Giêsu, Maria, Giuse.

[21]

1. Những hôm đầu, không tiến mấy. Nơi tôi ở, người tôi gặp gây ra nơi tôi những tâm tình rất tốt, những ý nghĩ nghiêm chỉnh. Tôi suy nhiều về sự bình tâm, mà các kỳ tĩnh tâm trước tôi đã chú ý, nhưng thực hành còn ở số không.

Chúa giữ tôi khỏi tội trọng mà thật sự sa ngã rất dễ. Tôi quyết tiến đến trọn hảo, nhưng lại theo ý tôi hơn theo lối Chúa. Năm nay, điều tôi lo ngại là vấn đề học vấn, tôi viện đủ thứ lý do để khỏi bị gọi rời Rôma về lại quê nhà. Nói khác làm khác. Nếu sống phó thác, cần tinh thần phải đơn sơ, sẵn sàng nhận mọi hy sinh, một chút triết lý: nhất là cầu nguyện, tin tưởng nơi Chúa.

Cẩn thận khi việc không xuôi như ý muốn, đừng tâm sự với bất cứ ai, trừ cha linh hướng hay vị nào liên quan có thể giải quyết thôi. Nói với kẻ khác sẽ mất hết công đức. Trong mọi trường hợp phải vui vẻ luôn “vì chính ở nơi Chúa mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu” (Cv 17,28). Cẩn thận để đừng đi ngược với châm ngôn: “Age quod agis” (Hãy chú tâm làm điều bạn đang làm).

Sau này làm gì? Giỏi Thần học, luật cao, hay cha sở đồng quê, linh mục đơn sơ nghèo? Đừng nghĩ ngợi chi, theo ý Chúa trong mọi sự Chúa là tất cả. Ngoài ra, những mộng đẹp, điều nở mày nở mặt trước thiên hạ, xin Chúa Giêsu cho nó tan thành khói.

Phải ghi mãi vào đầu, là vì thương tôi, Chúa sẽ không giao loại công việc gì lớn lao cho tôi để rồi tham vọng có thể lọt vào, do đó đừng mơ mộng gì vô ích.

Tôi là nô lệ, chủ không bảo, tôi không được rời đi một bước. Chúa biết khả năng của tôi đến đâu, cái gì làm nổi cái gì không, để sáng danh Chúa, giúp ích cho Hội thánh, cứu rỗi các linh hồn. Do đó tôi không nên bàn về vấn đề này với Chúa qua các vị đại diện của Ngài, tức là các vị Bề trên của tôi.

Khi tìm hiểu các năm đầu trong đời sống của các vị thánh, phải chăng ta thấy rõ ràng, các vị sau đó lại sống khác hẳn với cái khả năng tự nhiên và những đức tính tốt đẹp của mình? Và như vậy các vị mới nên thánh và cao cả, cải tổ xã hội và sáng lập những Dòng danh tiếng! Chính vì các ngài tập sự bình tâm, sẵn sàng nghe Chúa nói như Chúa đang nói với mình; không theo tự ái, nhưng nhắm mắt hăng say chú tâm làm những gì Chúa dạy.

“Bạn ơi, xem kỹ mà làm như mẫu gương này” (x. Xh 25,9). Cái tôi muốn nói muốn làm, đúng là tự ái thôi. Nếu tôi quyết nhìn, quyết tâm làm theo như tôi muốn, thì sau đó… nó sẽ biến đi như gió, như gió!

Muốn làm linh mục tốt, phải cởi bỏ hết, như Chúa thân trần trên thập giá; lấy đức tin mà xét đoán những gì xảy đến cho tôi là những gì Bề trên quyết định về tôi. Xin làm ơn đừng phê bình gì về điểm này. Ôi, đơn sơ thật có phúc, đơn sơ đáng chúc phúc!

2. Tôi trở lại vấn đề sự bình tâm. Vì đối với tôi thật khó nuốt trôi. Hãy xét xem. Năm nay, cách chung, tôi sai lỗi ở chỗ kém sốt sắng, nên đã làm hỏng nhiều dịp rất long trọng cho đời tôi, đặc biệt khô khan khi cầu nguyện rước lễ, suy gẫm; chia trí mãi, ít xét về sự tiến đức, lôi thôi cách chung trong mọi sự. Lý do? Theo tôi; tôi đoán không sai là tại thiếu sự bình tâm.

Còn vấn đề cắm đầu làm việc, thật ra mục đích chỉ vì muốn đậu cao, để phần nào được vinh dự trước mắt của giới giáo sĩ; tiếp đó tính tự ái đang hoạt động mạnh, làm cho tôi sợ, sợ đến kinh hãi nếu phải bị gọi về làng, bỏ ngang sự học là bậc thang giúp tôi thực hiện giấc mộng vàng mà tôi đã xây trong những ngày bình an, chính ra chẳng có gì là xấu, tuy nhiên nó cũng có khía cạnh không tốt. Chúa thấy lòng tôi đang phân tán, nên Chúa để mặc tôi bối rối, tôi cảm thấy thế. Ngày vừa qua là bài học cho ngày mai. Phải tiến mỗi ngày, hơn nữa, mỗi giờ. Quên mình, vâng theo lối Chúa chỉ dẫn, để tâm hồn an bình sốt sắng mà tiến đức.

3. Vấn đề học vấn! Bao nhiêu là thành kiến! Tôi cũng lập luận như người đời, thả mình chạy theo những tư tưởng thông thường. Học vấn dĩ nhiên là đại sự: yếu tố thứ hai giúp đời linh mục nên phong phú, tấm ván thứ hai bám vào để khỏi chết chìm, đối với thời đại chúng ta. Xin Chúa đừng để con khinh thường việc học. Nhưng cũng đừng cho học vấn là tuyệt đối. Học vấn là một con mắt, mắt trái, nếu thiếu mắt phải, còn một mắt trái mà thôi nào có đẹp chi? Dù có đỗ tiến sĩ, nhưng tôi sẽ là gì? Vẫn còn dốt lắm chuyện khác. Nếu chỉ có bằng tiến sĩ thôi, tôi có giúp ích gì cho Giáo Hội không? Vậy, cần xét lại quan niệm của tôi về vấn đề học vấn. Trong lãnh vực này cần phải có sự hòa hợp giữa tư tưởng và hành động. Phải, tôi cần học mãi, học không thôi. “Nhưng học có trật tự và điều độ. Việc gì cũng cần giữ tiết độ” (x. Rm 12,3). Tôi cần thông minh, nhưng kiểu thánh Phanxicô Salêsiô. Thật ra, những kẻ tự cho mình là trí thức, họ biết được gì chứ? Biết ít lắm. Tôi không nói đến những nhà bác học uyên thâm, trí thức chân chính. Lời Đức Piô X căn dặn chủng sinh trẻ thật là khôn ngoan: “Các con hãy học, học thật nhiều; nhưng cha xin các con phải ngoan, rất ngoan”.

Tôi sẽ học cách hăng say hơn, nhưng không thay đổi trật tự của sự việc: nghĩa là học không để lấy văn bằng nhưng luôn học để áp dụng vào đời sống, học phải trở nên bản chất thứ hai trong tôi.

Thầy trợ sĩ Tommaso (nơi Dòng tôi đang tĩnh tâm) đang quét phòng, dọn bàn cho tôi, thầy làm tôi suy nghĩ nhiều. Thầy còn trẻ, nhưng rất chín chắn, cử chỉ cao đẹp, lớn tướng, trong chiếc áo dòng đen thật dài, ai nói đến tên thầy đều công nhận đây là vị thánh. Vui tính luôn, thầy vẫn nói về Chúa, về tình yêu của Chúa; không ngước mặt nhìn ai; vào nhà thờ, thầy sấp mình dưới nền gạch, bất động như bức tượng trước Thánh Thể. Từ Tây Ban Nha thầy sang Rôma để làm tu sĩ Dòng Thương khó, thầy được hạnh phúc khi hy sinh phục vụ mọi người, một thầy trợ sĩ đơn mọn, suốt đời đơn sơ không nuôi mộng vàng, không ảo tưởng. Sánh với bản lĩnh của thầy Tommaso, tôi thật không ra gì, tôi phải hôn gấu áo của thầy và nghe thầy giảng dạy như bậc thầy. Đang khi tôi sắp là linh mục, ơn Chúa dồi dào! Thế mà, tinh thần hãm mình, khiêm nhường đoan trang, cầu nguyện, khôn ngoan thật ở đâu? Thầy Tommaso ơi, thầy dạy tôi rất nhiều! Biết bao nhiêu thầy trợ sĩ đang sống âm thầm, nhưng ngày kia trên Nước Trời các thầy sẽ sáng chói! Còn tôi, tại sao không được vậy? Ôi Giêsu, xin thêm tinh thần hãm mình, sám hối, hy sinh đầy lòng con.

5. Cha giám đốc khả kính xin tôi khi đi dạo tiếp chuyện với một thanh niên Tin lành đến đây tĩnh tâm để trở về Công Giáo. Tôi tội nghiệp cho cậu. Năm nay cậu mười tám tuổi, cậu như mất chín năm đẹp nhất của tuổi thơ, cậu đã thâm nhiễm giáo thuyết mà Tin lành đã khéo gieo vào óc cậu. Cậu không có thành kiến đối với Giáo Hội hay giáo thuyết Công Giáo, vì cậu chưa được biết. Làm bạn với cậu cũng vui, và có ích cho tôi để được hiểu rõ rệt hơn về cái mối nguy cơ do các giáo phái đang gây cho đức tin người Ý một cách xảo quyệt. Con sự tối khôn hơn con sự sáng (x. Lc 16,8). Kết luận trước hết, là tôi khẩn thiết cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cao quý: chỉ cần nói chuyện với anh em Tin lành vài tiếng là cảm thấy ngay ý kiến này. Do đó miệng tôi phải luôn ca tụng (x. Tv 33,2) vì ơn này, đặc biệt vì ơn đức tin này. Những đứa con còn sống ngoài Giáo Hội thật đáng thương, vậy cần cầu nguyện nhiều, cố gắng tận tình tận lực để đưa họ trở về.

6. Phải nghĩ đến chức linh mục, nghĩ kỹ. Tôi ở đây cốt để tĩnh tâm, chỉ có thế, “đây là việc quan trọng” (x. Xh 4,19), biến cố long trọng nhất của đời tôi. Từ trên đỉnh núi mà vài hôm nữa tôi sẽ đến tột đỉnh, tôi lại cảm thấy mình lùi…

.

Những hàng nhật ký đã ngưng nơi đây, nhưng dòng cảm tưởng lành thánh của những ngày tĩnh tâm vào năm ấy đâu có chấm dứt, thật là những ngày hồng phúc. Hôm nay cách tám năm sau (1912) tôi viết tiếp và những cảm tưởng này vẫn còn rõ rệt trong trí tôi; và mong rằng Chúa cho tôi mãi mãi không quên.

Vào thời kỳ đó tôi hằng muốn và càng quyết định trở nên hoàn toàn ra không trong tay Chúa Giêsu, cạnh bên Trái tim Chúa, càng hoàn toàn lột bỏ con người của mình, càng thính tai và tuân theo theo ngay những dấu chỉ rất nhỏ của Thầy, trở thành dụng cụ thật tốt để mưu ích thật nhiều cho Giáo Hội, không theo những điều kiện do sự tự ái của tôi sắp xếp, mà nhắm mắt, đơn sơ phó thác theo lệnh của Bề trên. Những ngày cuối cùng của tuần phòng rất có ích, nhất là có một trong quí cha giảng phòng, đã giảng rất hay, đầy lửa mến. Tuần phòng đó cũng có mười anh em sắp được phong linh mục, từ nhiều quốc gia, nhiều trường tựu lại tĩnh tâm: một Florentin ở trường Capranica; một Bồ Đào Nha quí danh Nicola Turchi, đồng lớp với tôi ở Đại chủng viện Rôma từ năm 1901 v.v…

Thật là hữu ích, khi hằng ngày chúng tôi ngắm đàng thánh giá chung trong nhà nguyện, mỗi người thay nhau vào giờ cơm đọc hạnh tích Gabirie Addlorata vừa được phong thánh, mỗi chiều đọc Nhật tụng chung nơi nhà nguyện có di hài của thánh Phaolô Thánh Giá – đây cũng là tuần chín ngày áp lễ Mông Triệu – và gương sống khắc khổ của các cha Dòng đem lại nhiều lợi ích.

Tôi nhớ mãi cảm giác mỗi khi đêm khuya, các cha Dòng thức dậy đọc kinh sáng, tôi nghe tiếng chân, tiếng áo dòng đen dài của các ngài qua các lối đi trong nhà. Đặc biệt những di tích thánh, mà từ cửa sổ tu viện nầy tôi thấy được. Đây hí viện Côlisêô, đền thờ Latêranô, đại lộ Appia. Từ cảnh vườn, tôi thấy đồi Palatin, Đồi Coelius với những cơ sở Công Giáo trên đỉnh đồi. Từ phía phòng tôi ngụ là phòng xưa thánh Phaolô Thánh Giá đã qua đời, nơi phong nầy, chiều nào chúng tôi cũng tập dâng lễ. Cái gì cũng nhắc tôi về sự thánh thiện, về lòng quảng đại về sự hãm mình, đó là lý do tôi cám ơn Chúa đã đưa tôi vào đó để tĩnh tâm chuẩn bị chịu chức linh mục.

Áp ngày chịu chức hồng phúc, cha khả ái Luy Rôsariô, đã vui vẻ nhận lời tôi xin, ngài giúp các người tĩnh tâm, ngài đưa tôi hành hương sang những nơi rất thánh. Như đền thánh Gioan Latêranô, nơi đây để tôi tuyên xưng đức tin; sang nhà thờ có (Thang Thánh Chúa Giêsu đã lên xuống ở tòa Philatô); sang đền thánh Phaolô ngoại ô. Những gì tôi đã thề nơi mồ Thánh Tông đồ dân ngoại chiều hôm đó? “Bí mật” (x. Is 24,16).

Sáng sớm ngày lễ Thánh Lôrensô, cha Phó Giám đốc Chủng viện đến tận Dòng đón tôi về Thủ đô Rôma vẫn còn yên ngủ. Chính nơi đền Đức Maria trên Núi thánh, công trường Dân chủ, là nơi có nghi lễ phong chức không thể quên. Tôi còn nhớ từng chi tiết. Đức Cha Ceppetelli phụ tá quản lý Rôma tấn phong, các thầy trường Capranica giúp lễ. Khi nghi lễ xong, và đã tuyên thệ tuân phục đấng bản quyền, tôi ngước mắt lên và gặp ngay ảnh Đức Maria Mẹ hiền, mà thú thật, trước đó tôi không chú ý, ảnh Mẹ nhìn tôi như mỉm cười, mắt Mẹ nhìn làm cho tôi an tĩnh lạ thường, thấy được bảo đảm và quảng đại hy sinh, Mẹ dường như tỏ vẻ hài lòng, và hứa sẽ bảo vệ tôi luôn; nói tóm là Mẹ đổ ngập hồn tôi nguồn an vui không sao quên được.

Cha Phó Giám đốc đưa tôi trở lại chủng viện, các thầy đã đi nghỉ ở Roccantica. Việc thứ nhất là tôi viết thư cho Đức Giám Mục giáo phận nhà, Đức Cha Guindani . Tôi lặp lại lời tôi đã thề dưới chân Đức Giám Mục tấn phong, là sẽ tôn kính vâng lời ngài. Sau tám năm, hôm nay tôi còn vui mừng lặp lại lời thề này. Sau đó tôi đã viết thư cho ba má, và cả gia đình để mọi người chia sẻ cái vui với tôi, xin tất cả cùng cám ơn Chúa và xin cho tôi ơn trung thành. Buổi chiều tôi sống một mình với Chúa, Ngài đã làm cho tôi tràn ngập vui mừng, một mình với bao tư tưởng, bao lời dốc lòng, tận hưởng nguồn êm dịu của chức linh mục.

Rồi tôi ra đi, một mình với Chúa, qua thủ đô như chỗ không người, để hành hương đến các thánh đường mà tôi quí mến, bàn thờ các thánh mà tôi yêu chuộng, những nơi kính Đức Mẹ. Tuy viếng thăm nhau cách ngắn ngủi, nhưng vị nào cũng được tôi thưa cách riêng, và mỗi vị thánh cũng đã có lời nói riêng với tôi. Và có đúng như vậy.

Tôi đã thăm Thánh Inhaxicô, Thánh Gioan Baptista Rossi, Thánh Luy, Thánh Gioan Berchmans, Thánh Catarina Sienna, Thánh Camillô Lellis, và vài vị thánh khác. Ôi các thánh hồng phúc, các ngài hãy chứng minh cho những điều tôi đã dốc lòng, các ngài hôm nay hãy xin Chúa tha cho những sự hèn yếu của tôi, các ngài hãy giữ mãi trong tôi ngọn lửa nồng cháy hôm ấy.

Sáng hôm sau cha Phó giám đốc lại đưa tôi đến đền Thánh Phêrô để dâng lễ mở tay… Bao nhiêu ý tưởng tôi đã có khi đi ngang qua công trường vĩ đại này! Bao nhiêu lần đã qua công trường vĩ đại này! Bao nhiêu lần đã qua đây, và lần nào cũng bị cảm xúc; buổi sáng hôm đó… khi đã vào bên trong thánh đường vĩ đại với bao nhiêu di tích khả kính của Giáo Hội! Tôi đã lần xuống hầm, cạnh mồ Thánh Tông đồ. Nơi đây đã có mặt một nhóm bạn vây quanh bàn thờ do cha Phó giám đốc mới: có Đức Cha Palica, nguyên giáo sư triết của tôi, các linh mục Benedetti, Moriconi, Baldi, Fazi và nhiều vị khác. Hôm ấy tôi đã dâng lễ ngoại lệ kính hai Thánh Phêrô và Phaolô. Êm đẹp thay thánh lễ mở tay. Một trong các cảm tưởng xảy ra mạnh nhất trong tim tôi là tình yêu tha thiết đối với Giáo Hội, Đức Thánh Cha, tôi tận hiến để suốt đời phục vụ Chúa Giêsu và Giáo Hội, hứa trung thành với Tòa thánh Phêrô, và hoạt động không ngừng cho các linh hồn. Lời thề đã mang thêm vẻ hệ trọng vì tôi thề tại mồ Thánh Phêrô, với khung cảnh quanh tôi lúc đó, khiến nó sống động và vang dội mãi trong tim tôi, mà bút khó tả ra lời.

Nơi mồ Thánh Phêrô tôi đã thưa: “Lạy Chúa, Chúa biết tất cả, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga 21,27). Tôi ra về như người đi trong giấc mộng. Tất cả những ảnh Giáo hoàng bằng cẩm thạch, hoặc bằng đồng hai bên vương cung thánh đường như đang nhìn tôi với cái nhìn mới lạ, như khuyến khích tôi hãy can đảm và tin tưởng.

Trưa đến, tôi càng thêm vui mừng, vì được vào chầu Đức Piô X. Nhờ cha Phó giám đốc đã xin giùm tôi đặc ân này – tôi mang ơn ngài mãi với tất cả những gì ngài đã làm cho tôi trong những ngày hồng phúc này! Hôm ấy ngài đi với tôi vào chầu Đức Thánh Cha. Khi Đức Thánh Cha đến gần, cha Phó giám đốc giới thiệu tôi, Đức Thánh Cha mỉm cười và nghiêng mình nghe tôi nói. Tôi quì gối; và thưa rằng tôi rất sung sướng mà lặp lại dưới chân Ngài những tâm tình tôi đã có nơi mồ Thánh Phêrô trong thánh lễ mở tay lúc sáng. Tôi cố nói hết sức vắn tắt.

Khi ấy Đức Thánh Cha, vẫn nghiêng mình, Ngài đặt tay trên đầu tôi và nói: “Con ơi, tốt, tốt lắm?... Ta bằng lòng lắm, Ta cầu xin Chúa giúp con trung thành giữ các lời hứa tốt đẹp ấy, Ta chúc con nên linh mục đúng như Trái Tim Chúa muốn. Ta cũng chúc lành cho những ý tưởng khác của con và cho những người đã góp công để có những ngày vui này”. Ngài chúc lành cho tôi, đưa tay cho tôi hôn. Rồi Ngài đi sang kế bên, dường như là anh Balan, rồi bỗng như Ngài còn tưởng về tôi nên trở lại hỏi: “Chừng nào con về quê?” – Thưa lễ Mông triệu! “Ô, lễ Mông triệu sẽ được long trọng mừng ở làng con, chuông Bergamô rất hay, sẽ đổ liên hồi để mừng con hôm ấy”. Nói xong Ngài mỉm cười bước đi (Ngài nói thế vì trước đó đã hỏi tôi quê ở đâu).

Chiều lễ Thánh Lôrensô, tôi ra nhà mát của chủng viện tại Roccantica. Cha Piccirilli ra đón tôi tại nhà ga Poggio Mirtelo. Đường vào nhà mát hôm ấy đốt đèn sáng làm tôi bồi hồi. Vào nhà nguyện các thầy trẻ hát bài ca thánh rất đẹp: Con là linh mục.

Hôm sau, lễ trọng, tất cả đều rước lễ. Đức ông giám đốc Bugarini giúp tôi dâng lễ. Cha linh hướng khả ái Pitocchi giảng sau Tin mừng. Cha Dòng Cứu Thế này rất thương tôi, có lẽ quá thương mà ngài như chẳng thấy khuyết điểm nơi tôi. Và suốt ngày hôm ấy đã diễn ra như hôm lễ trọng.

Ngày 13 tôi dâng lễ ở đền truyền tin Florence. Tôi có nhiệm vụ đến tạ ơn Mẹ, vì trước khi nhập ngũ tôi đã đến xin Mẹ giữ tôi trong trắng. Ngày 14, tôi về Milan nơi mồ Thánh Carôlô. Tôi thưa với Ngài nhiều chuyện. Và từ hôm ấy mối tình tha thiết của tôi với Ngài càng thêm thiết tha. Ngày 15 lễ Mông triệu, tôi về quê Sotto il Monte. Tôi xem đây là ngày hạnh phúc nhất đời đối với tôi, với cha mẹ bà con và mọi người.

Nhắc lại làm gì? Những việc trên sẽ thúc đẩy tôi mãi trung thành với lời hứa, mãi nhớ ơn Chúa đã ban: để lời thề của tôi sống lại nếu đã có lần tôi thất tín, để nhờ đó mà tôi sống cao thượng xứng chức vụ linh mục, xứng với Chúa Giêsu, chỉ có Ngài mới đáng được chúc tụng!

TĨNH TÂM ĐẦU NĂM HỌC

NGÀY 4/11/1904

Giêsu, Maria, Giuse!

[22]

Hôm nay không có gì phải sửa đổi như tôi đã dốc lòng ở bốn cuộc tĩnh tâm trước khi chịu chức thánh. Để có trật tự hơn trong đời sống và tiến đức trên những điểm vững chắc, xin đặc biệt nhớ những lời dốc lòng sau đây, hôm nay lễ Thánh Carôlô Bôrômêô xin ngài bảo vệ nâng đỡ.

1. Sáng sớm vừa thức dậy cho đến sau thánh lễ một lúc, chỉ dành cho tư tưởng và việc thiêng liêng: kinh nguyện, sách thiêng liêng, nguyện ngắm, kinh Nhật tụng….

2. Trước trưa sẽ đặt hết tâm trí vào năm phút xét mình riêng.

3. Lưu ý nhiều đến việc viếng Thánh Thể hằng ngày cho đặc biệt sốt sắng. Tôi mang ơn Thánh Tâm và Thánh Thể, nên cần hết lòng yêu mến Thánh Thể.

4. Không bao giờ đi ngủ trước khi đọc xong ba phần Kinh Sách của hôm sau. Việc gì cũng phải nhường cho kinh Nhật tụng, nó phải chiếm chỗ nhất.

5. Với giá nào cũng phải tĩnh tâm tháng, từ chiều thứ bảy đến trưa Chúa Nhật đầu tháng.

6. Tiếp tục giữ luật chủng viện như chú bé, nhớ rằng, là giám luật, tôi chỉ có ảnh hưởng trên các chú do gương tốt tôi làm.

7. Khi đi dạo sẽ hết sức đoan trang. Là linh mục chưa bảo đảm để tôi khỏi ngã. Nhờ làm chủ các giác quan mà tôi không chia trí và giữ lòng sốt sắng.

8. Hết sức quí thời giờ, đặc biệt là để học. Trước là chương trình học trong năm, kế đến các môn khác.

9. Khiêm nhường trong tất cả, rất sốt sắng, tử tế vui vẻ với mọi người, vui tính và giữ tâm hồn an tĩnh. “Xin Tim Chúa đang cháy lửa yêu con, hãy đốt lòng con cháy lửa mến Chúa”.

KỶ NIỆM 50 NĂM TUYÊN BỐ TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM

8/12/1904

[23]

Tôi xem ngày này như ngày trọng đại của đời tôi. Lòng tràn ngập niềm vui thanh nhã, hôm nay tôi dự lễ khải hoàn của Mẹ Maria tại đền Thánh Phêrô và các nhà thờ khác ở Giáo đô.

Sự thi đua chân thành và ưu ái để mừng lễ Mẹ cho thấy Rôma rất khắn khít với Mẹ. Đền Thánh Phêrô đầy người, nghi lễ thật uy nghi trang trọng ở nơi đáng tôn trọng nhất thế giới, và trên bàn thờ, giữa ánh sáng chói chang, ảnh Mẹ Vô nhiễm như đang mỉm cười với Đức Thánh Cha, ngài đang uy nghi trong phẩm phục Giáo hoàng giữa đông đảo Hồng Y và Giám mục từ khắp thế giới về, với bao nhiêu chức sắc giáo sĩ cũng như giáo dân; đang mùa lễ, nhạc phẩm Perosi vang lên khắp đền thánh như tiếng nhạc từ trời. Vinh hiển thay cho Mẹ! Cao đẹp thay cách tuyên xưng đức tin!

Thiết tưởng trần gian này không có cách nào cao đẹp hơn để tỏ lòng cung kính. Riêng tôi hòa mình với tất cả chủng sinh khắp thế giới, nhưng được đứng khá gần bàn thờ Confession để theo sát tất cả các nghi lễ… (Bản văn ngưng nơi đây).