Thần-học niềm tin như quà tặng: mô-hình vô-thức
Chương III
(bài 20)

Phần 1
Quà tặng niềm tin (tiếp theo)

Nền móng niềm tin rất tâm-lý.

Nay, xin mọi người hãy cùng tôi, ta quay về với tính tâm-lý nơi niềm tin sâu-sắc.

Khi ta đặt hết tin tưởng vào người mẹ và cảm-kích biết ơn người cha đã hội-nhập, là ta có điều gì đó như nhập hội vào hai tiến-trình trong thiên-tính có gốc-nguồn Người Con thuần-khiết tự biểu-tỏ sự tin-tưởng và có Thần Khí Chúa luôn tuôn-đổ ngập-tràn nơi ta để tỏ-bày niềm cảm-kích về tương-lai Ngài tác-tạo. Nền-tảng đích-thực của cung lòng siêu-nhiên, là niềm tin thánh-thiêng cũng đã khai-triển nhè nhẹ một suy-luận tâm-lý nơi tư-tưởng của thánh Augustinô và Tôma Akinô.

Ở đây, tôi thiết nghĩ, ta cũng nên thêm đôi giòng tư-tưởng mà thánh Tôma nhận ra rằng tâm-thức đi sâu vào huyền-nhiệm Thiên-Chúa cũng kiến-tạo sự hiểu/biết đem đến cho ta trong mọi huyền-nhiệm đã tỏ-bày. Kết-cuộc là, việc này tạo nguyên-do cho khả-năng hiểu/biết các huyền-nhiệm khác. Cũng trong cùng một ý-nghĩa như thế, thánh Tôma Akinô thấy được điều mà các triết-gia đã phát-biểu cách rõ ràng về sự việc mà ông gọi là khoa-học nằm trong phương-án khiến ta tin, ngõ hầu đi vào với huyền-nhiệm. Triết-gia Aristotle, bằng lề-lối khoa-học của chính ông, đã tạo ưu-tiên cho cung-cách đầu bằng cách tự nói ra những điều xuất từ đường-lối phát-biểu như nhận ra hiệu-năng của sự việc xuất-phát từ đó, thật sự cũng trôi chảy từ cách-thế khởi-đầu này. Thánh Tôma Akinô đã lĩnh-hội phương-án này (thứ mà thánh Augustinô không tìm ra) và có huyền-nhiệm Thiên-Chúa như thứ gì đó tương-đương với phát-biểu đầu-tiên tự bày-tỏ về huyền-nhiệm và biến nó thành nguyên-do tương-hợp của mọi huyền-nhiệm khác, rất ý-nghĩa. Theo tôi, đó là lý-do khiến cuốn “Tổng-Luận Thần-học” khởi bằng đề-tài Thiên-Chúa nơi nhiệm-thể chính của Ngài. Và đó là điều bắt buộc.

Tiếp đây, ta cũng xem xét sự việc này ở buổi hội-thảo vào kỳ tới, về nội-dung niềm tin.
----------------

Giới-hạn của niềm tin
theo tâm-lý

Mẫu “chọn-lựa có ý-thức” lại quá hời hợt bên ngoài để có thể đưa ta vào với phần nội-tại của niềm tin.

Mọi niềm tin sâu-sắc đều cắm rễ sâu ở trong đó và phát-xuất từ “nhận-thức của bậc mẹ/cha đã hội-nhập”. Cả phần tâm-thức tích-cực đến với niềm tin cũng được thêu-vẽ bằng nhiều sắc-mầu và có giới-hạn thật do tự nhận-thức này. Vâng. Ngay đến nhận-thức này cũng bị giới-hạn bởi thị-kiến thánh-thiêng, nữa.

Điều này có nghĩa: không niềm tin nào lại giống nhau hoặc có cùng một tầm nhìn thần thánh, cho mọi người hết.

Điều này lại có nghĩa: cả khi ta duy-trì mẫu-mã tham-gia vào niềm tin như thế, thì cung-cách ta tham-gia cũng không là một, với hết mọi người, dù đó có tầm quan-trọng vào bậc thánh tông-đồ từ Lễ Ngũ Tuần, từ Hội thánh, vv... Do nhiều lập-trường có liên-quan đến nguồn-gốc mẹ/cha, mang nhiều luận-điểm về nguồn-gốc và sự phát-triển của niềm tin, nữa.
-------------------


Phần II
Mô-hình vô-thức

Đặc tính vô-thức;
thăng-tiến sự khác-biệt giữa tri-thức và ý-chí

Bên tiếng La-tinh kinh-điển, có thành-ngữ lâu nay được một số người có thói quen dùng nó để nắm bắt đặc-trưng vô-thức. Đó là câu nói về tính-cách của người chủ-trương “công-khai/trổi bật”. Ngay đến tác giả Cajetan cũng từng sử-dụng cụm-từ này khi ông viết về tín-điều thánh-thiêng thực-thi ý-niệm cảm-xúc về người chủ-trương “công khai/trổi bật”. Ở đây, tôi muốn diễn-giải thêm về tính-khả-thi cho thấy vô-thức tự nó không bị cách chia, mà chỉ nằm bên dưới tri-thức và ý-chí cùng sự san-sẻ cách trọn-vẹn về phẩm-chất của cả hai.

Từ một góc độ mang tính-chất rất “Dòng Tên”, tôi sẽ sử-dụng ngôn-từ mà thánh Y-Nhã đã dùng, đó là cụm từ: “pháp-sư” cũng giống thế. Chính thánh Tôma Akinô xem ra đã thừa-nhận cảnh-huống như thế trong “chiêm-niệm”. Thánh-nhân có viết trong lời dẫn đầu khi đưa ra nhận-định tương-tự gồm những chữ đại để như bên tiếng La-tinh cũng từng viết: “finis istus doctrinae est contemplation primae veritatis in patria”.

Tác giả Bion lại cho rằng: ta nên đi vào sự-kiện mà ông gọi là “mộng mơ” ở tâm-lý. Theo tôi nghĩ, ta có thể sử-dụng nó như động-thái trồi lên trên mặt từ phần vô-thức, một động-thái không hẳn là đã có nghĩa như tri-thức hoặc ý-chí, mà theo cách nào đó, nó là động-thái còn sâu sắc hơn cả sự khác-biệt giữa tri-thức và ý-chí, nữa.

Tác giả Rousselot, trái lại, vẫn thường nhấn đến tính-chất “công-nhiên cùng một kiểu” của tâm-thần hoặc của con người vào một cùng-đích hoặc mục-tiêu chung.

Tác-giả Panikkar lại lôi-kéo sự chú ý của nhiều người về động-thái ban đầu mang tính nhân-chủng-học, tức động-thái mở ra với nhiều thứ hơn… Và ở đây, tôi hiểu là: ông muốn nói vô-thức như gốc-nguồn của động-thái nào y như thế.

Có lẽ, đó cũng là điều mà tác-giả Tillich luôn tìm cách nói ra theo ngôn-từ mà ông thường nhắc đến, đó là: “ưu-tư đối-đế”

Trong khi đó, thì tác giả Kristeva lại nhấn mạnh lên điều mà bà gọi là “nhu-cầu không thể tưởng-tượng để tin”; và theo tôi, ta có thể đồng ý cho đó là đúng, ít nhất là ở phần vô-thức. Tôi lại cũng coi đây như biểu-trưng tiên-khởi có trước cả vào lúc ta có thể tưởng-tượng được mọi thứ. Nếu dùng một trong các tự-vựng chính của bà, ta có thể hỏi: có chăng thứ văn-bản nào mang tính liên-đới giữa vô-thức (theo nghĩa này) và mọi sinh-hoạt có ý-thức không?

Và, tác-giả cũng từng nói rằng: đối với bà, nguyện-cầu là thứ suy-tư giống như nhiễm-sắc-thể ở tâm-thân nơi đó tình-cảm và tri-thức thực sự có cùng chung một động-thái.

Tác-giả còn tiếp tục lập-trường này ở tác-phẩm của bà mang tên Powers of Horror: An Essay on Abjection, khi bà viết:

“Khi khung trời đầy sao, viễn-cảnh mở rộng trên biển cả hoặc khung cửa lộng kính lờ mờ chiếu rọi sắc-mầu tím ngắt khiến tôi choáng ngợp với đủ loại mầu-sắc đến thích-thú vẫn kéo theo một mớ các ý-nghĩa, sắc màu, lời lẽ và cả những vuốt ve/mơn trớn, nữa. Từ đó, cũng có những sờ chạm của lằn sáng, mùi hương, những tiếng thở dài, và nhịp điệu cứ thế trổi lên đã phủ lên tôi như lớp vải liệm rồi đem tôi đi xa và càn quét tôi qua bờ phía bên kia của mọi vật khiến tôi thấy được, nghe được hoặc suy nghĩ được. Vật thể “uy-nghi” đã phân-hủy trong trạng-thái mê-say của thứ ký-ức không có đáy. Trong ký-ức tương-tự đi từ lần ngưng đọng này đến một dừng-đứng khác, từ nỗi nhớ-nhung này đến niềm nhung-nhớ khác, từ tình thương-yêu này đến nỗi niềm yêu-thương khác đã chuyển-tải đối-tượng ấy về điểm ngời-sáng của kinh-ngạc trong đó tôi cứ lang-thang về chốn xa vời, để hiện hữu.”

Theo tôi thấy, thì: ở đây ta đang đứng trên một mặt bằng gồ-ghề thật khó lòng. Chắc chắn là, khi nói vô-thức là ta nói về cái ý-thức của chính ta. Ta không thể có lối nói-năng nào khác như thế. Tự bản thân, tôi cũng nhận ra rằng thánh Tôma Akinô đã từ-chối không quyết tạo nên động-thái trực-tiếp cấp bách nào khả dĩ dẫn đến bản-chất của chính con người hoặc chính linh-hồn và đòi hỏi các quan-năng như tri-thức và ý-chí như cội-nguồn trực-tiếp. Tôi chấp-nhận cuộc tranh-luận này. Thắc mắc của tôi, đúng ra là: ta phải có quan-năng thứ ba, sâu sát hơn cả tri-thức và ý-chí nữa, bởi đó là nguồn-cội của sinh-hoạt nào mà ta không thấy mình có khả-năng định-vị như sinh-hoạt của tri-thức hoặc của ý-chí, chứ? Tôi, thì tôi nghĩ nhiều về những gì mà nền thần-học linh-thiêng muốn nói lên cũng thấy có sự hỗ-trợ ở trong đó.

Dĩ nhiên, tôi đang chuyển-hướng vào việc định-vị nguồn-gốc của niềm tin sâu-sắc ở trong đó. Điều ấy cũng có thể là lý-do để hỏi rằng: sao điều ấy lại không đối-đầu một cách đích-thực hoặc trọn-vẹn từ một quan-điểm tri-thức hoặc ý-chí. Kỳ thực, nó vừa là tri-thức sâu-sắc vừa là cảm-xúc bén nhạy, cùng một lúc.

--------------------


Tôi cũng tự hỏi: giả như phần đông các vấn-đề thực-tế của con người trong đó vấn-đề linh-đạo vẫn nằm ở ngay đấy. Chẳng hạn như, đây có phải là địa-hạt thuộc phạm-vi phán-đoán của lương-tâm về những gì là thực-chất vẫn có thể có cho con người ở tình cảnh nào đó, chứ? Phải chăng, một trong các lý-lẽ để hỏi: tại sao tác-giả Kristeva lại chối-từ không nói ra rằng: bà có được niềm-tin thuộc loại-hình dễ nhận biết (như trong tâm-thức hoặc ý-chí chẳng hạn) nhưng bà lại cứ nhấn mạnh vào niềm tin sâu-sắc có nền-tảng mà qua đó sự hiện-hữu của ta ra như không khả-thi được, chứ?

Tôi đang viết đôi điều, hầu giúp bà con mình suy-niệm Tin Mừng thánh Luca năm C cho các tuần sắp tới. Viết tới đây, tôi chợt tự hỏi: có chăng một động-thái nguyện-cầu mang tính cứu-độ cho mọi người, không chỉ gồm mỗi việc đọc kinh “ê a” hoặc ngay đến động-thái có ý-niệm đơn-thuần chỉ một lời cầu không hơn không kém, nhưng khả dĩ nhấn mạnh động-thái của niềm tin, thế cũng nên?

Dĩ nhiên, con người mình có nhiều động-tác không đến từ chiều-kích thứ ba này, mà đúng hơn đến từ chính tri-thức và chính ý-chí, thật như thế. Thế nhưng. Vâng. Chữ “nhưng” ở đây thật cũng rất ư là...

Càng ngày, tôi càng có chiều-hướng nhận ra được tính vô-thức, coi đó không như nền-tảng của những thúc-bách về sinh-lý hoặc như định-hướng tâm-thần, mà là sự lắng-đọng trong sinh hoạt kềm-nén có ý-thức ngay từ đầu. Nay, tôi tự hỏi thêm rằng: giả như ta đặt tất cả những thứ đó vào trong “sự” vô-thức như thể chúng là sự vật và như thể chúng là sự kềm-nén sâu-sát của hồn-thiêng/linh-đạo, thì sao? Phải chăng, đây là những gì để ta phân-tách sự việc “lắng nghe” hoặc chỉ thoáng nghe thấy, mà thôi?

Phải chăng trị-liệu là phương-thức học-hỏi cách chầm-chậm để xem ta có thể tìm ra được sự tương-hợp giữa tâm-thần và ý-chí với sinh-hoạt có mức-độ sâu-sát hơn, chăng?

Có đúng như tác-giả Kristeva từng nói: lịch sử Đạo Chúa đã chuẩn bị cho chủ-nghĩa nhân-văn không? Hoặc, cả Đạo Chúa lẫn chủ-nghĩa nhân-văn đều chuẩn-bị cho thế-giới biết mà nhận ra tầng lớp nhấn mạnh đến kinh-nghiệm của ta và trong đó có cả khuynh-hướng ngay từ ban đầu của bản-thể con người hướng vào niềm tin và bằng vào niềm tin đến với thị-kiến của Thiên Chúa?

Phải chăng, một trong các vấn-đề mục-vụ của ta hiện giờ là sự bất-nhất giữa chất-liệu của những bài “chia-xẻ” ta giảng-giải lẽ ra phải mang tính-cách cởi mở hơn, đi thẳng vào vấn-đề hơn là cứ nói loanh-quanh chuyện này chuyện khác với các truyện kể chứ không đi vào mức-độ sâu-sắc qua đó đa số những người hạnh-đạo đang thực sự sống đạo? Có phải, đó cũng là lý-do cho thấy tại sao việc thúc đẩy tình thương-yêu trìu-mến ở mức-độ mở rộng cõi lòng như vào thập niên ’70 lâu nay vẫn đạt cao-điểm và ngày nay không còn hấp dẫn nữa?

Tôi cũng tự hỏi: giả như ta nhấn mạnh quá nhiều vào mẫu-mã niềm tin có ý-thức và triển-khai tính-chất ấy mà không cản-trở ánh-sáng chiếu-dọi sự thông-hiểu niềm tin và đặc-tính siêu-nhiên của niềm tin chăng? Tự hỏi như thế rồi, lại sẽ nhường bước cho bà con, anh chị em có cơ-hội để suy-tư nhiều hơn nữa...

---------------
(còn tiếp)

Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch