Theo tin Tòa Thánh, các nhà lãnh đạo Ki-tô giáo thuộc đủ tín phái đã cùng Đức Giáo Hoàng Phanxicô tụ tập tại Quảng trường Các Đệ nhất Tử Đạo của Vatican để cử hành buổi canh thức đại kết với sự tham dự của hàng ngàn tín hữu khắp thế giới, đánh dấu ngày kỷ niệm Công đồng Vatican II và khởi đầu một kỷ nguyên đại kết mới.

Thực vậy, ngày 11 tháng 10 không phải là một ngày được chọn tình cờ mà nó nhắc người ta nhớ tới Công đồng Vatican II vốn được long trọng khai mạc vào đúng ngày này cách đây 62 năm. Theo lời Tổng thư ký Thượng hội đồng hiện đang triển khai, Công đồng này “khai mở một kỷ nguyên mới mà Thượng hội đồng là một biểu thức và chứng tá trong ý muốn của nó giúp toàn thể Giáo Hội tiến lên theo con đường hoàn toàn hiệp nhất”.



Dịp này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giảng bài giảng sau đây:

“Vinh quang mà Cha đã ban cho Con, Con đã ban cho họ” (Ga 17:22). Những lời này trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trước Cuộc Khổ Nạn của Người có thể được áp dụng trước hết cho các vị tử đạo, những người đã nhận được vinh quang vì chứng tá mà các vị đã làm cho Chúa Kitô. Tại nơi này, chúng ta tưởng nhớ các vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội Rôma. Vương cung thánh đường này được xây dựng trên địa điểm mà máu của các vị đã đổ ra; Giáo hội được xây dựng trên máu của các vị. Xin các vị tử đạo này củng cố niềm tin của chúng ta rằng, khi đến gần Chúa Kitô hơn, chúng ta đến gần nhau hơn, được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của tất cả các vị thánh trong Giáo hội của chúng ta, giờ đây hoàn toàn là một nhờ việc chia sẻ mầu nhiệm vượt qua. Như chúng ta đã đọc trong Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio, mà chúng ta đang kỷ niệm sáu mươi năm, các Kitô hữu càng gần Chúa Kitô thì họ càng gần nhau hơn (x. 7).

Vào ngày này, khi chúng ta kỷ niệm ngày khai mạc Công đồng Vatican II, đánh dấu sự gia nhập chính thức của Giáo Hội Công Giáo vào phong trào đại kết, chúng ta tụ họp cùng với các đại biểu anh em, những anh chị em của chúng ta từ các Giáo hội khác. Tôi xin trích lại lời của Thánh Gioan XXIII đã nói với các Quan sát viên tại lễ khai mạc Công đồng: “Sự hiện diện rất đáng trân trọng của các bạn ở đây và cảm xúc tràn ngập trái tim tôi với tư cách là một linh mục, một Giám mục của Giáo hội Chúa... khuyến khích tôi tâm sự với các bạn về nỗi khao khát trong trái tim tôi, cháy bỏng mong muốn được làm việc và chịu đau khổ cho đến bình minh của ngày mà lời cầu nguyện của Chúa Kitô trong Bữa Tiệc Ly sẽ được ứng nghiệm cho tất cả mọi người” (ngày 13 tháng 10 năm 1962). Cùng với lời cầu nguyện của các vị tử đạo, chúng ta hãy bước vào cùng lời cầu nguyện đó của Chúa Giêsu và biến nó thành lời cầu nguyện của chính chúng ta trong Chúa Thánh Thần.

Sự hiệp nhất Kitô giáo và tính đồng nghị có liên quan với nhau. Trên thực tế, “con đường đồng nghị là con đường mà Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba” (Diễn văn kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng hội đồng giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015), và tất cả các Kitô hữu phải đi theo con đường này. “Hành trình đồng nghị... là và phải mang tính đại kết, cũng như hành trình đại kết mang tính đồng nghị” (Diễn văn gửi Đức Mar Awa III, ngày 19 tháng 11 năm 2022). Trong cả hai quá trình, vấn đề không phải là tạo ra điều gì đó mà là chào đón và làm cho hồng ân mà chúng ta đã nhận được trở nên có giá trị. Và hồng ân hiệp nhất trông như thế nào? Trải nghiệm đồng nghị đang giúp chúng ta khám phá ra một số khía cạnh của hồng ân này.

Sự hiệp nhất là một ân sủng, một hồng ân bất ngờ. Chúng ta không phải là động lực thúc đẩy; động lực thực sự là Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn chúng ta hướng đến sự hiệp thông lớn hơn. Cũng giống như chúng ta không biết trước kết quả của Thượng hội đồng sẽ như thế nào, chúng ta cũng không biết chính xác sự hiệp nhất mà chúng ta được kêu gọi sẽ như thế nào. Tin Mừng cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu, trong lời cầu nguyện vĩ đại của Người, “đã ngước mắt lên trời”: sự hiệp nhất không đến chủ yếu từ trái đất, mà từ trời. Đó là một hồng ân mà chúng ta không thể lường trước được thời điểm và cách thức. Chúng ta phải đón nhận nó bằng cách “không đặt bất cứ chướng ngại vật nào trên con đường của Chúa Quan Phòng và không [cho phép] có phán đoán định kiến nào [làm suy yếu] những linh hứng tương lai của Chúa Thánh Thần”, như Sắc lệnh của Công đồng đã nói (Unitatis Redintegratio, 24). Như Cha Paul Couturier đã từng nói, sự hiệp nhất của các Kitô hữu phải được khẩn cầu “như Chúa Kitô muốn” và “bằng phương tiện Người muốn”.

Một bài học khác mà chúng ta có thể học được từ tiến trình đồng nghị là: sự hiệp nhất là một hành trình: nó phát triển dần dần khi tiến triển. Nó phát triển thông qua việc phục vụ lẫn nhau, thông qua đối thoại trong cuộc sống, thông qua sự hợp tác của tất cả các Kitô hữu, điều này “làm nổi bật rõ hơn các đặc điểm của Chúa Kitô là Người Tôi Tớ” (Unitatis Redintegratio, 12). Nhưng về phần mình, chúng ta phải bước đi theo Chúa Thánh Thần (x. Gal 5:16-25); hoặc, như Thánh I-rê-nê nói, as tôn adelphôn synodía, như “một đoàn lữ hành anh em”. Sự hiệp nhất Kitô giáo phát triển và trưởng thành thông qua một cuộc hành hương chung “theo nhịp độ của Chúa”, giống như cuộc hành hương của các tông đồ trên đường Emmaus, những người đã đồng hành cùng Chúa Giêsu phục sinh.

Bài học thứ ba là: sự hiệp nhất là sự hòa hợp. Thượng hội đồng đang giúp chúng ta khám phá lại vẻ đẹp của Giáo hội trong sự đa dạng của các khuôn mặt. Do đó, sự hiệp nhất không phải là sự độc dạng, hoặc là kết quả của sự thỏa hiệp hoặc cân bằng. Sự hiệp nhất Kitô giáo là sự hòa hợp giữa sự đa dạng của các đặc sủng được Chúa Thánh Thần đánh thức để xây dựng tất cả các Kitô hữu (x. Unitatis Redintegratio, 4). Sự hòa hợp là con đường của Chúa Thánh Thần, vì như Thánh Basiliô nói, Người chính là sự hòa hợp (x. Về Tv 29:1). Chúng ta cần theo đuổi con đường hiệp nhất nhờ tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Kitô và tất cả những người mà chúng ta được kêu gọi phục vụ. Khi chúng ta bước đi trên con đường này, chúng ta đừng bao giờ để những khó khăn ngăn cản chúng ta! Chúng ta hãy tin vào Chúa Thánh Thần, Đấng lôi kéo chúng ta đến sự hiệp nhất trong sự hòa hợp của sự đa dạng nhiều mặt.

Cuối cùng, giống như tính đồng nghị, sự hiệp nhất của các Kitô hữu là điều cốt yếu đối với chứng tá của họ: sự hiệp nhất là vì sứ mệnh. “Để tất cả nên một... để thế giới có thể tin” (Ga 17:21). Đây là niềm tin của các Nghị phụ Công đồng khi họ tuyên bố rằng sự chia rẽ của chúng ta “làm thế giới phải xấu hổ và làm tổn hại đến mục đích thánh thiện là rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Unitatis Reintegratio, 1). Phong trào đại kết phát triển từ mong muốn làm chứng chung: làm chứng cùng nhau, không đứng tách biệt hoặc tệ hơn là bất đồng với nhau. Tại nơi này, các vị tử đạo Rôma nhắc nhở chúng ta rằng ngày nay, ở nhiều nơi trên thế giới, các Kitô hữu thuộc các truyền thống khác nhau đang cùng nhau hy sinh mạng sống vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, thể hiện chủ nghĩa đại kết bằng máu. Lời chứng của họ có sức mạnh hơn bất cứ lời nói nào, bởi vì sự hiệp nhất được sinh ra từ Thập giá của Chúa.

Trước khi bắt đầu Phiên họp này, chúng ta đã cử hành một buổi lễ sám hối. Hôm nay, chúng ta cũng bày tỏ sự xấu hổ của mình trước sự chia rẽ đáng xấu hổ giữa các Kitô hữu, sự xấu hổ khi chúng ta không làm chứng chung cho Chúa Giêsu. Thượng hội đồng này là cơ hội để làm tốt hơn, để vượt qua những bức tường vẫn tồn tại giữa chúng ta. Chúng ta hãy tập trung vào nền tảng chung của Phép Rửa chung của chúng ta, điều thúc đẩy chúng ta trở thành những môn đệ truyền giáo của Chúa Kitô, với một sứ mệnh chung. Thế giới cần chứng tá chung của chúng ta; thế giới cần chúng ta trung thành với sứ mệnh chung của mình.

Anh chị em thân mến, trước hình ảnh Chúa Kitô chịu đóng đinh, Thánh Phanxicô thành Assisi đã nhận được lời kêu gọi khôi phục Giáo hội. Xin Thánh giá Chúa Kitô cũng hướng dẫn chúng ta trên hành trình hằng ngày hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn, hòa hợp với nhau và với toàn thể tạo vật: “Vì trong Người, tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa đã vui lòng ngự trị, và qua Người, Người đã hòa giải mọi vật với chính Người, dù là dưới đất hay trên trời, bằng cách tạo nên hòa bình nhờ máu Người trên thập giá” (Cl 1:19-20).