Chuyện Phiếm Đạo Đời: Chúa NHật Thứ 1 Mùa Chay năm B 26.02.2012



“Ngàn mây xám, chiều nay về đây treo lững lờ,”

“Và tiếng hát, về ru mình trong giấc ngủ vùi,,

Rồi từ đó, loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền,

để người về hát đêm hồng, địa đàng còn in dấu chân bước quên.”

(Trịnh Công Sơn – Dấu Chân Địa Đàng)



(Kn 18: 14-15)

“Địa đàng in dấu chân”, nơi nào thế? Phải chăng là: “đêm hồng”, là “bước quên”, hay “giấc ngủ vùi”? Thật ra thì, nghệ sĩ là những vị từng “ru với gió”, “mơ theo trăng”, và “vơ vẩn cùng mây”, làm sao định vị được địa đàng, tìm dấu chân.

Bần đạo đây, cũng đã cảm nghiệm được điều ấy, những hai lần. Lần đầu, là lần quyết tâm về “miền quá khứ”, có người cháu gọi bằng cậu từng 50 năm chôn vùi đời mình chốn viện tu rất khắc kỷ, ở “Castagniers” miền Nam nước Pháp. Lần đó, bần đạo cứ là bon chen tìm đến với núi rừng trùng điệp với hy vọng xa vắng chốn miền có dấu chân “địa đàng”, nhưng không được. Bởi, lúc nào cũng văng vẳng nghe bên tai lời ca vui tựa hồ lời nghệ sĩ đang còn hát:



“Trời buông gió, và mây về ngang bên lưng đèo,

Mùa xanh lá, loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.

Cuộc đời đó, nửa đêm tiếng ca như than phiền

Bàng hoàng lạc gió mây miền,

Trùng trùng, ngoài khơi nước lên sóng niềm.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)



Lần thứ hai, bần đạo lại cũng tìm về miến dĩ vãng chốn khổ tu khi trước, ở vùng sâu vùng xa, rất gần Machu Pichu, xứ Pê-ru. Và lần này, bần đạo cũng lại bị quật thê thảm đến độ toàn thân mình trở thành gần như hư vô/rỗng tuếch, cả đầu óc lẫn con người. Có ở tâm trạng ấy, mới thấy những gì gắn liền đời mình vẫn chẳng là gì cả. Chỉ là hư luống.

Hôm nay, ngồi “một mình trên phố” lố nhố chốn phồn hoa đô hội, lại thấy cần sự tĩnh mịch/lặng thinh, nhưng nay thấy hiếm. Cũng may còn có cái gì đó tựa ơn trên gửi đến cho mình vài ba tư tưởng nhỏ, rất thoáng chốc, giống lời thơ người nghệ sĩ vẫn ray rứt:



“Ngựa buông vó người đi chùng chân đã bao lần

Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng

Vùng u tồi loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng

Một đời bỏ ngõ đêm hồng

Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)



Nhà thơ đây, những là “chùng chân”, ”buông vó” vì đêm đó nghe như “lời ca dạ lan ngại ngùng”. Còn bần đạo đâu dám làm thế, chỉ là bạn bè thấy mà thương bèn tặng cho một bài suy tư có dáng dấp của đấng bậc tải trên báo, có lời lẽ về những “lặng thinh là tình đã thuận”, bận bịu như sau:



“Lặng thinh, không chỉ là việc cần có trong thánh lễ, hoặc các buổi phụng vụ thôi, nhưng cả với cuộc đời nữa. Cuộc sống hôm nay chừng như quá ồn ào, kích bốc. Nhìn vào mọi chốn, người người đều thấy nơi nào cũng lào xảo đủ thứ tiếng động. Thanh âm đủ loại chừng như cứ nối tiếp và nối tiếp không ngừng từ các loa phóng thanh cứ ra rả từ các đài phát sóng, cho đến các loại máy ghi âm tân kỳ phát ra đủ mọi loại âm thanh, cùng tiếng nhạc. Cả khi người ta đang tập trung lái xe hay làm việc quần quật, hoặc ngủ nghỉ, lúc nào cũng thấy toàn những âm thanh và tiếng động. Khủng khiếp hơn, ngày hôm nay, các màn ảnh phát hình và vi tính chiếm đoạt gần như trọn vẹn thời gian trong cuộc sống của nhiều người. Thậm chí, cả vào lúc gia đình tụ họp để ăn uống, bên nhau chuyện trò hoặc nguyện cầu, lại vẫn thấy tình huống sôi động, rất dễ nóng bỏng.



Vâng. Ngày nay người người cần đến thinh lặng. Cần lặng thinh để suy tư, nghĩ ngợi, hiệp thông với Chúa. Nhận ra được sự hiện diện của Đức Chúa. Có lẽ, hơn bao giờ hết, con người cần đến sức mạnh của nội tâm, điều mà sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từng minh định:



“Nhu cầu đời sống nội tâm là tất cả những gì ta cần đến, cho cuộc sống. Bởi, cuộc sống hôm nay, có nhiều thứ khiến con người mình dễ chia trí và ra khỏi mọi động thái suy tư tụng niệm, tự kiểm hoặc xem xét tình trạng an nhiên tự tại, của chính mình.” (x. GLHTCG chưong đoạn 1779)



Chính vì lý do đó, có lẽ cũng nên nhìn ra sự cần thiết để ra khỏi cảnh trí ồn ào nói trên thỉnh thoảng cũng nên tắt máy phát thanh, nghe nhạc trên dĩa hoặc ipod nhét nơi tai. Để rồi, thay vì bị phóng pháo bằng tiếng động, là những dụng cụ khiến con người trở nên thụ động, tê cứng, để mà tìm kiếm những giây phút hoặc kế hoạch chuyện trò với Chúa, qua nguyện cầu. Đó, là thế giới khác hẳn. Thế giới của an bình, lặng thinh. Rồi tự hỏi: sao tôi cứ phải lệ thuộc vào với máy móc, đến là thế…” (x. Lm John Flader, Question Time, The Catholic Weekly 15/1/2012 tr. 10)



Bần đạo đây, chẳng là đấng bậc hoặc thày sáu cao siêu vời vợi để dám đề nghị với chúng nhân anh em, mà chỉ dám đưa ra một nhận định cho riêng mình, ấy là: có lặng thinh mới thấy và nghe được điều Chúa nói với con người, thời đại này. Thấy, là thấy Chúa vẫy gọi mọi người hãy đến với Ngài. Nghe, là nghe lời thầm thì của lặng thinh Chúa nói nhỏ.

Khi xưa, môn đồ gần cận luôn thấy Chúa làm việc trong âm thầm, lặng thinh. Lặng thinh trong nguyện cầu. Thinh lặng khi chữa lành và ban ơn. Và nhiều nữa, kể sao cho hết. Ngày nay, Chúa vẫn còn khuyến cáo con rất nhiều thứ, dù họ không là đồ đệ chẳng tin vào Ngài, cả những hiện tượng ồn ào như thác lũ. Hiện tượng xảy đến với nhân gian, không chỉ cho người ngoài Đạo, mà cả đến dân con của Ngài nữa.

Hôm nay, phiếm luận chuyện Đạo xen lẫn chuyện đời, bần đạo thấy có bổn phận phải mở mắt cho to, vểnh tai cho rộng để thấy và nghe được tiếng lào xào của lặng thinh, lình bình nơi góc xó. Tiếng lào xào của thinh lặng nay không chỉ xảy ra nơi con trẻ, ở trời Tây, mà nhiều địa hạt khác, như: thi ca, âm nhạc, hội hoạ, y tế, giáo dục, và nhiều thứ khác, nói chung nơi cuộc sống thực tiễn.

Cuộc sống hôm nay, ngoài những thông tin rất “loạn” (hiểu theo nghĩa tiêu cực, bóng bảy) còn thấy xảy ra hiện tượng người người chạy trốn, thoát rất xa khỏi chốn miền thiên nhiên, triền miên im ắng. Cả và thiên nhiên hôm nay, lại cũng bị con người dính tay vào để tàn phá, chỉnh sửa hoặc bố ráp theo ý mình. Ý của người vẫn sử dụng tiền tài/của cải mà khuynh loát.

Nói cách khác, những ai bận tâm lo lắng chuyện như thế, nay cảm nghiệm thêm lời người nghệ sĩ xưa vẫn còn hát:



“Tiếng ca bắt nguồn từ đất khô

Từ mưa gió, từ vào trong đá xưa,

Đến bây giờ, mắt đã mù,

Tóc xanh đen vầng trán thơ,

Dòng sông đó, loài rong yên ngủ sâu,

Mới hôm nào bão trên đầu,

Lời ca đau trên cao.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)



Phải chăng, tiếng lào xào của lặng thinh ở đâu đó, là “lời ca đau trên cao”? Phải chăng, chỉ những ai biết được sự lặng thinh/im ắng mới cảm nhận được những ồn ào của lặng câm, ở mọi chốn? Lời ca trên cao và tiếng ồn ào lặng câm ấy, không phải ai cũng cảm và cũng thấy, nhất là chuyện lào xào nghe rất “phiếm” như chuyện bên lề một điện thư/thư điện trên mạng mà bần đạo mới nhận từ bạn bè thân thương, như sau:



“Cảm ơn anh em đã gửi cho bọn này bài viết có "lời lẽ rất phá hoại". Phá cả Đạo lẫn đời. Đúng là “lời lẽ phá hoại” của những người rảnh rỗi không có việc gì làm, hoặc có chủ đích phá Đạo, hoặc được trả tiền để làm việc ấy.

Tôi không theo dõi loạt bài về "Cánh Chung luận" qua lại giữa Gm Nguyễn Văn Khảm và những người "ăn theo" hoặc "nói dựa", vì đâu hiểu gì vấn đề hóc búa là "Cánh Chung", làm sao luận.

Tôi nghĩ, mình cũng nên để tâm hồn lắng đọng mà đi vào thinh lặng, sẽ nghe và thấy nhiều, rồi hãy suy tư tản mạn chuyện "Lặng thinh" luôn thấy cần. Mấy hôm nay, đầu óc bọn tôi cứ rong chơi đâu đó, nên khó viết. Cầu mong mọi sự trở về với lặng thinh, bình dị để người người cảm nhận được sự im ắng của thiên nhiên, vạn vật, cuộc đời.

Cầu chúc anh em và mọi người vẫn cứ bình an sau khi đọc các bài viết mang tính "phá thối" ở trên mạng hay đâu đó, vẫn lền khên xoá không kịp.”



Và sau đó, một thư hồi âm từ bạn tri âm có tâm hồn cũng tri kỷ, lại rất kỹ như:



“Mong rằng Anh sẽ lắng nghe được "TIẾNG VỖ CỦA MỘT BÀN TAY" để cảm nhận và nghe được nội âm vang lừng của TÌNH YÊU THƯƠNG, để viết cho mọi người, không trừ một ai, cả những kẻ có ngôn từ phá hoại nữa.” (trích điện thư qua lại của bạn bè trong nhóm thư từ rất điện tử hôm 03/02/2012)



Với người đời, tiếng lào xào của lặng câm/im như hến, đến là thế. Đến như thế hoặc rặt như vậy vẫn cứ ào ào, khiến con người càng đi dần vào cuộc cãi tranh, giành giựt, tranh chấp. Tranh và chấp, cả khi có sự việc mà mình không tài nào nắm bắt, như chuyện “Cánh chung luận” của ai đó vẫn còn đó. Tranh và chấp, cả khi các thứ ấy không là “của bở” ăn được/uống được, mà vẫn chỉ lặng câm/im ắng, rất miên trường.

Với nhà Đạo, nỗi lắng đọng của lặng thinh mang ý nghĩa một mời gọi ở kinh sách Thánh Hiền đề cập gọi mời mọi người hãy để ý:



“Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng,

lúc đêm trường chừng như điểm canh ba,

thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài

đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người chiến sĩ can trường

xông vào giữa miền đất bị tru diệt,

mang theo bản án không thể huỷ của Ngài

như lưỡi gươm sắc bén. “

(Khôn ngoan 18: 14-15)



Và, Lời của Chúa còn đó rất buồn như sau:



“Còn anh em, khi cầu nguyện,

hãy vào phòng, đóng cửa lại,

và cầu nguyện cùng Cha của anh,

Đấng hiện diện cả nơi kín ẩn.”

(Mt 6: 6)



Thiết tưởng, “Nơi kín ẩn” mà thánh sử nói đến, hẳn là chốn miền đầy ắp những lặng thinh, tình thông thoáng. Có lắng đọng hiệp thông, chung sống với thiên nhiên vạn vật, hoặc con người. Im ắng ấy, chắc không là tranh chấp, cãi tranh, giành giựt như ngôn sứ Habacúc từng khẳng định:



“Và Giavê, ngự trong thánh điện của Người ,

toàn thể cõi đất, hãy thinh lặng trước nhan Người!”

(Ha 2: 20)



Trên thực tế, nhiều “thánh điện của Chúa” vẫn trưng bảng chỉ dẫn “Nơi này, Nhà của Chúa” để nhắn nhủ dân con bước vào đó, hãy cứ lặng thinh, im ắng, nguyện cầu. Còn ngoài đời, làm sao tìm được chốn nguyện cầu im ắng, giống như thế? Vũ trụ vạn vật vẫn còn đó, đón chờ loài người hãy cùng chim muông, thú vật, đến mà xem. Xem rồi, hãy hoà mình mà lắng đọng trong thinh lặng. Và khi đã lặng thinh/im ắng rồi sẽ phát hiện tình huống rất dễ thương, như truyện kể ở bên dưới:



“Nhà hiền triết nọ dẫn học trò đi ngao du khắp chốn trên đời. Trong mười năm, thày trò theo nhau đi hầu hết các nước, gặp hầu như tất cả những người có học vấn. Nay, thày trò trở về, người nào người nấy kinh luân đầy một bụng. Kinh nghiệm đầy mình.



Trước khi vào thành, nhà hiền triết ngồi nghỉ trên bãi cỏ ở ngoại thành, nói với học trò: “Mười năm ngao du, các con đều trở thành kẻ sĩ học rộng hiểu nhiều. Nay, sự học sắp kết thúc, ta sẽ giảng cho các con bài học cuối.”



Học trò kéo đến vây quanh nhà hiền triết. Một lát sau, bậc thày hỏi:

-Hiện chúng ta đang ngồi ở đâu thế?

-Dạ thưa, ta đang ngồi nơi bãi cỏ hoang ngoài thành.

-Trên bãi hoang này, có cây gì mọc lên không?

-Dạ, Bãi hoang này, mọc toàn cỏ dại.”

-Đúng! Nơi đây mọc toàn cỏ dại. Giờ ta muốn biết có cách gì để trừ nó không?



Đám học trò thi nhau đáp:

-Dạ. Chỉ cần một xẻng là đi hết.

-Dạ thưa thày, dùng lửa để diệt cỏ, cung là phương cách rất hay!

-Thưa thày, theo em, rắc vôi lên là tốt nhất.

-Theo em, diệt cỏ phải trừ tận gốc. Chỉ cần nhổ được hết thứ đó là xong!



Nghe vậy, nhà hiền triết đứng dậy nói:

-Bài học hôm nay, đến đây là hết. Các con hãy đi về, làm theo cách suy nghĩ của mình mà diệt cỏ. Nếu không được, năm sau quay lại ta nói chuyện tiếp.



Năm sau, thày trò quay lại, ai cũng thấy cỏ hoang hôm trước nay trở thành đồng lúa ngô xanh tươi. Đám học trò quây quần bên đám ruộng, chờ thày đến, nhưng chờ mãi vẫn không thấy thày. Ít năm sau, nhà hiền triết quá vãng, đám học trò cũ của ông mới lại tìm đến nhau để tu sửa các tài liệu cùng luận thuyết của thày mình, chợt thấy ở chương cuối, ông có ghi thêm một câu: “Muốn diệt hết cỏ dại ở bãi hoang, chỉ một cách hay nhất, là trồng cấy mùa màng ở trên đó. Cũng vậy, muốn cho bãi cỏ nhà mình không còn lo buồn chuyện ồn ào/huyên náo, cách duy nhất là đem vào đó, sự lặng thinh tuyệt đối, mới được.”



Học thuyết của nhà hiền triết, có thể chỉ áp dụng trên giấy bút, thôi. Thực tế ở đời, người người nên ứng dụng sự lặng thinh cho riêng mình, rồi sẽ thấy. Thấy và đạt, chỉ khi nào ta quyết tâm sống bền bỉ, không nôn nóng. Đó mới là điểm son vàng của cái-gọi-là “lặng thinh là tình đã thuận.” Thuận, trong an vui. Hiền hoà. Lặng lẽ.



Trần Ngọc Mười Hai

Tuy chưa đạt

tình trạng an và vui ấy.

Nhưng đã cảm nghiệm

về quỵ ngã,

những hai lần.

Suy niệm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay Năm B 26.02.2012



“Anh trốn sao đêm, lẩn mặt trời,”

“Ghê từng ý gió, sợ hoa rơi.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mc 1: 12-15

Có thể rằng, với anh, là nhà thơ hay nghệ sĩ, thì như thế. Còn sự thực, với Chúa, là Đấng vẫn lẳng lặng vào chốn hoang vu/xa vắng mãi để giáp mặt ác thần/sự dữ, chịu thử thách. Thử thách hoặc khuyến dụ, là tình huống ghi lại ở trình thuật, rõ nhất hôm nay.

Trình thuật, nay thánh sử Máccô chỉ viết có đôi hàng về thử thách thức và khuyến dụ Ngài ở lặng thinh trong 40 ngày/đêm. 40 đây, là con số biểu tượng chỉ thời gian cũng rất dài. Dài ngày, dài tháng. Trong cuộc sống của Chúa, vẫn thấy có khuyến dụ kéo dài ngày cho đến lúc Ngài giáp mặt sự thật trên đồi Can-va-riô. Thử thách và khuyến dụ, đưa Chúa đi vào chốn choá ngợp ở đời thường để mong dẫn dụ Ngài gia nhập vào sự ngợp choáng ấy.

Quả là thế! Chúa choáng ngợp với khuyến dụ trở thành Đấng Mêsia, mà mọi người trông đợi. Choáng đến ngợp, khi Ngài buộc phải đặt mình trước cảnh tình quyết đối đầu, hầu có quyết định cho đúng. Choáng và ngợp, trước quyết định hành động sao cho hợp ý Chúa Cha. Choáng rồi ngợp, trước chọn lựa những 3 cách thế để thể hiện vai trò được Cha giao phó. Cách đầu, là quyết tham gia vào chốn quyền bính ngõ hầu có thể kình chống người La Mã, cũng khá khó. Cách thứ hai, là hoà nhập với người đương thời, để rồi sẽ thống trị mọi người ở chốn dân gian, trần thế.

Nếu làm thế, Ngài sẽ có thể giải quyết chuyện đói nghèo do vua quan/lãnh chúa người La Mã từng tạo ra. Thử thách và khuyến dụ, cốt ý tạo lòng ham muốn tự mình giải quyết hết mọi việc ở thế giới, là chuyện giúp kiến tạo cuộc sống tốt lành cho mọi người.

Và thử thách cùng khuyến dụ cuối, là: nhắm mắt làm ngơ chẳng cần biết sự thể ở đời sẽ ra sao, vẫn lặng thinh đi vào chốn linh thiêng thần thánh, mà chỉ ê a vài ba kinh kệ để rồi sẽ lại giao hết cho Cha giải quyết. Đó là 3 thử và thách rất khuyến dụ thấy rõ ở trình thuật được thánh Mátthêu ghi chép.

Thử và thách cùng khuyến dụ dễ thấy nhất là những thử thách và dụ dỗ về quyền bính. Là, cung cách mà người La Mã khi xưa sử dụng hòng thống trị kẻ ở dưới. Người La Mã xưa, vẫn muốn tạo khó khăn đặt để lên đầu kẻ dưới. Làm thế, sẽ khiến họ lại trông mong có được đấng cứu tinh nào đó khả dĩ đem họ ra khỏi mọi thứ bất ưng kéo dài ngày. Có lẽ, giới thống trị La Mã khi ấy đã bất lực trong sử dụng quyền thế cách sai sót, để rồi người người ở dưới vẫn phải ngóng trông đấng bậc nào khác đầy uy lực đến thay thế.

Với thử thách/khuyến dụ này, Giêsu Đức Chúa không những chỉ trích cung cách mà vua quan cùng lãnh chúa người La Mã sử dụng quyền bính tối cao để cai trị, mà Ngài còn đả phá cả quyền uy/thế lực là những thứ mà Ngài chẳng bao giờ muốn tạo lấy cho Ngài. Chúa chọn cuộc sống thấp hèn không mang nặng quyền uy vật chất để Ngài có thể hoà mình với người thấp bé, chẳng khi nào có được quyền uy thế lực ở trần gian.

Thử thách/khuyến dụ thứ hai tỏ cho Chúa, là lòng ham muốn giải quyết tệ trạng đói nghèo của thế gian. Rõ ràng vào thời Chúa sống, trạng huống này từng xảy đến. Hầu như 95% người dân Galilê vẫn sống dưới mức độ những khó cùng nghèo. Tức: họ không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày mà còn thiếu cả đức tính tự tin vào bản lãnh cũng như tư cách của chính họ. Thêm vào đó, là: tình trạng đau yếu, chết yểu vẫn diễn ra thật khó giải quyết.

Những khó khăn này, đều do vua quan lãnh chúa trần gian như Hêrôđê tạo nên bằng vào chương trình xây dựng các đền đài bề thế, khiến dân con ở dưới đã nghèo lại thêm khổ cực. Nhằm thực hiện những mưu đồ như thế, vua quan ở đời lại đã phải bổ thêm thuế má đánh trên đầu dân con thiên hạ. Thử và thách cũng như khuyến dụ đây, là tìm cho ra đấng bậc vị vọng nào khả dĩ có thể dấy động cuộc cách mạng để chống nạn nhũng lạm quyền thế. Chính đó là lý do để người người trông chờ Đấng Thiên Sai mau đến cứu vớt họ.

Thử và thách thức cuối, là: gạt sang một bên những chuyện thực tế ở đời để rồi chỉ nghĩ chuyhện siêu thăng phụng thờ và tế tự. Rồi từ đó nghĩ rằng: bằng vào quyền sinh sát mình tự phát, sẽ có thể buộc Chúa phải dính dự vào với suy nghĩ cùng quyết định của riêng mình hầu giải quyết cho dân con của Ngài. Thử thách và khuyến dụ ở đây, hôm nay, còn là sử dụng chốn kinh kệ/phụng thờ mà cầu Chúa ra tay giải quyết hết mọi khó khăn đang diễn ra. Người Do thái thời trước, cũng từng sống với những thử và thách giống như thế.

Thử thách trên là khuyến dụ ta chỉ sống đời thiêng liêng/linh đạo, hơn sống cho ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã nhận ra chính những thử thách và khuyến dụ như thế, sẽ là chúa tể để có thể dám tự mình gạt qua một bên ý định rất thực của Chúa. Thế nên, Ngài mới không chọn đường lối kinh kệ/sùng Đạo như đám Pharisêu từng thêm vào luật tế tự. Trái lại, Ngài đích thực tuân theo ý định của Cha, chứ không phải ý tư riêng của Ngài.

Hội thánh hôm nay cũng đang sống cùng một cảnh tình rất tương tự. Cảnh tình, có thử và có thách thức cùng những khuyến dụ, hệt như thế. Cảnh tình, là cảnh của đấng bậc chỉ biết sống ở trên cao, vẫn muốn người của Giáo hội phải biết ganh đua với thế trần. Ganh và đua, hầu đoạt lại quyền uy thế lực từng để mất trong chính trường, ngoài xã hội, là nơi chốn mang nhiều ảnh hưởng lên dân chúng. Thông thường thì, người người thấy Hội thánh cứ ganh đua với cơ quan từ thiện ở nhiều nơi. Vẫn muốn người đời nể trọng mình vì mình cũng từng ban phát ân huệ, tài chánh và bổng lộc cho nhiều người.

Thường thấy hơn, rõ ràng hôm nay người người đều thấy thánh hội mình chỉ lo chuyện linh thiêng chốn tháp ngà nhiều mây tầng vần vũ. Lo rồi, còn bắt Chúa đồng thuận mà tuân theo qui định do thánh hội mình đề ra. Hội thánh hôm nay cũng gặp cùng một thử thách cũng như khuyến dụ bằng nhiều cách, giống hệt như Đức Giêsu vào thời trước. Tức, cũng nghĩ rằng Chúa Thánh Thần uỷ thác cho mình làm mọi chuyện theo ý của nhóm hội phe đảng cầm quyền, chứ không là ý định của Cha. Bởi, ý của Cha luôn là ý kiến và quyết định mời gọi thánh hội theo đường khổ ải, trầm lắng chứ không sống đời ồn ào, những là phô trương lực lượng.

Chúng ta cũng thế. Ngày nay, ta vẫn muốn trở thành dân con đặc biệt được Chúa tuyển chọn. Tức: những người có khả năng chỉnh sửa mọi thứ, cả những thứ ta không có thẩm quyền cùng chức năng, trọng trách. Nói tóm lại, ta thường nghĩ mình có khả năng giải quyết hết mọi chuyện trong huyện/ngoài đời dù nhiều lúc không được Cha uỷ thác. Dù, nhiều khi chính ta cũng không rành rẽ, bằng người đời nữa.

Nhiều lúc, Hội thánh muốn lôi kéo Chúa vào với lập trường rất riêng tư của một nhóm người chưa thành thánh, nhưng vẫn muốn dân con Đạo mình ở trên mọi cơ chế, hoặc tôn giáo. Trên mọi sự. Hơn mọi người. Chính vì lý do này, mà một số người trong Đạo ngoài làng, nay bớt tin vào thánh hội của Chúa, dù vẫn tin vào tình thương của Ngài đối với mọi Đạo. Mọi người.

Nhiều lúc, Hội thánh cũng đối xử với con dân trong Đạo như khách lạ người dưng, cùng lắm chỉ như kẻ đứng ngoài dự khán, không hơn không kém. Thế nên, mới bỏ giờ ra mà thêm thắt cho diện mạo Đạo mình thêm phần hấp dẫn. Chính vì thế, nên người người mới không thấy được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, trong Đạo. Không còn mong đợi Hội thánh giúp mình sống xứng hợp với Lời của Chúa hoặc làm sống dậy như Chúa từng khuyên dạy.

Nhiều vị trong thánh hội của ta, vẫn sống cuộc đời phụng tự, cũng rất thật. Nhưng, quá đặt nặng hình thức rất lễ nghi, chỉ muốn điệu võ dương oai, nên đôi lúc hiểu sai ý nghĩa niềm tin rất thực. Nói tóm lại, dân con Hội thánh nay có lúc đặt quá nặng phần hình thức với diễn trình, cốt để khuyến dụ nhiều người vào Đạo, và theo Đạo. Phải chăng, đó cũng là thử và thách rất khuyến dụ, thời hôm nay.

Nếu quả có thế, cũng nên nguyện cầu cho thánh hội mình có lại cơ hội lướt thắng chính mình, mà hồi hướng trở về với con đường chính mạch do Đức Giêsu vạch ra. Hội thánh nói ở đây vẫn là mỗi người và mọi người trong thánh hội Công giáo rất La Mã, chứ không chỉ là cơ chế mạnh mẽ, rất Va-ti-căng.

Trong cảm nhận như thế, cũng nên để ra đôi phút mà ngâm lại lời thơ vừa trích dẫn ở trên, rằng:



“Anh trốn sao đêm, lẩn mặt trời,

Ghê từng ý gió, sợ hoa rơi.

Chao ôi! Mỗi cánh sương run rẩy.

Nghe cũng vang âm giọng nói Người.”

(Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)



Trái tim có hồng và có ngọc, nay cũng nghe vang giọng nói của Người. Giọng Người khuyên nhủ hãy sống đời thực thụ có niềm tin rất thánh và cũng rất người, ở nơi đây. Chốn này. Khó lòng mà lẩn trốn.



Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.

Mai Tá phỏng dịch.