Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ hai Phục sinh năm C 07/4/2013

“Trong đôi mắt anh, em là tất cả,”
“Là nguồn vui là, hạnh phúc anh dấu yêu.”
(Đức Huy - Như Đã Dấu Yêu)
( Ga 13: 35)
“Em là tất cả”, là “nguồn vui” và là “hạnh phúc anh dấu yêu”, ư? Lời ở trên, phải chăng là lời trần tình của vị truởng thượng trong Hội thánh vừa gửi đến toàn thể dân con nhà Đạo, như một nhắn nhủ rất chân tình?
Nhắn nhủ này, nay còn gộp cả giòng chảy có ý/lời cũng rất nhẹ, ở bên dưới:

“Anh sẽ cố quên khung trời hoa mộng
Ngày hè bên em tình mình đến rất nhanh
Em sẽ cố quên lần đầu mình đến bên nhau
Nồng nàn như đã dấu yêu từ thưở nào.”
(Đức Huy – bđd)

Vâng. Đúng thế. Đến với thánh hội để gửi gắm/nhắn nhủ những lời vàng của bậc chủ chăn, vẫn là động thái cũng rất tình, như bao giờ. Lời vàng từ bậc trưởng thượng có trách nhiệm chăn dắt hơn một tỷ người, vẫn hàm ngụ thêm một tình tiết rất da diết, như:

“Anh đến với em với tất cả tâm hồn
Em đến với anh với tất cả trái tim
Ta đến với nhau muộn màng cho đớn đau
Một lần cho mãi nhớ thương dài lâu.”
(Đức Huy – bđd)

Hôm nay đây, ở trời Tây bên đó, lại cũng có tình huống diễn tả tâm tình “đến với nhau muộn màng”, nhưng không “đớn đau”. Đến với nhau, một lần “cho mãi nhớ thương dài lâu.”
Hôm nay đây, sự kiện đăng quang Giáo Hoàng của Đức Phanxicô đệ Nhất hôm 19/3/2013 cũng đã có âm vang rộn ràng khắp chốn, được báo đài/truyền thông chuyển tải nhiều chi tiết, rất độc đáo:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất đã chúc mừng và khen ngợi 6,000 phóng viên được ủy nhiệm đến Rôma để tường thuật về cơ-mật-viện và cuộc bầu cử Giáo Hoàng. Ngài đã giải trừ họ bằng nụ cười mỉm nhẹ nhàng, dễ thương và chuyển đến các vị này một thông điệp sâu sắc, trực tiếp đi thẳng đến họ nhưng êm đềm. Đức Giáo Hoàng nói với họ, rằng:

“Vai trò của truyền thông đại chúng trong những năm gần đây đã phát triển rộng rãi đến độ nó trở thành phương tiện thiết yếu ngõ hầu cho thế giới biết về các sự kiện đã diễn biến trong lịch sử hiện giờ. Chính vì thế, mà tôi đây hôm nay, muốn gửi đến quý vị lời cảm tạ đặc biệt về sự việc quý vị đã tường trình theo qui cách chuyên nghiệp trong những ngày này. Quý vị đã thực sự việc rất đắc lực, phải thế không? Bởi, khi mọi con mắt của thế giới, chứ không chỉ mỗi người Công giáo, đều dồn về Thành Đô Vĩnh Cửu này và đặc biệt ở nơi này, ngay trung tâm đây, có mộ phần của thánh cả Phêrô ở bên dưới. Trong mấy tuần vừa qua, quý vị đã cung cấp thông tin về Đức Thánh Cha và Hội thánh, về các nghi lễ và truyền thống, về niềm tin yêu và trên hết mọi sự, về vai trò của Giáo Hoàng và các cộng sự viên.

Tôi đặc biệt biết ơn những vị đã chứng kiến và trình bày các sự kiện lịch sử Hội thánh theo cung cách nhạy bén, trực chỉ bối cảnh trong đó mọi người cần nhận rõ thế nào là niềm tin. Các sự kiện lịch sử hầu như lúc nào cũng đòi một sự diễn giải mang sắc thái mà nhiều lúc cũng chú trọng đến chiều kích của niềm tin. Các sự kiện trong Đạo chắc chắn không đến nỗi phức tạp hơn các biến cố chính trị và kinh tế. Nhưng nó cũng có sắc thái đặc biệt cần ta nhấn mạnh là đang theo kiểu không sẵn sàng đáp ứng với các phạm trù trần thế mà ta quen sử dụng. Thế nên, thật không dễ để ta diễn giải và thông chuyển các điều đó cho quảng đại quần chúng, vẫn đa dạng. Hội thánh, là thể chế mang tính con người lịch sử vốn bao hàm tất cả những chuyện như thế. Chí ít, là bản chất Hội thánh không nhất thiết mang tính cách chính trị, nhưng linh đạo…”

Chừng như, khi đã thông truyền với giới truyền thông rồi, đấng bậc trưởng thượng lại đã có hứng để nói đôi điều cho báo/đài biết thêm:

“Một số bà con lại muốn biết tại sao đấng chủ quản Giáo phận Rôma thích được mọi người gọi mình bằng tên Phanxicô Đệ Nhất. Có người nghĩ: đó có thể là thánh Phanxicô Xaviê, hoặc Phanxicô đệ Lasan. Cũng có người liên tưởng đến thánh Phanxicô thành Assisi. Thôi thì, để tôi kể cho nghe chuyện xảy ra mới đây thôi.

Trong quá trình bầu bán, tôi ngồi cạnh Đức Tổng Giám Mục chủ quản Giáo phận Sao Paolô và vị Tổng quản thánh bộ Giáo sĩ là Hồng Y Claudio Hummes, ofm cả hai đều là bạn thân thiết của tôi.

Khi chuyện bầu bán đã đến hồi căng thẳng, vị này đã khích lệ tôi ghê lắm. Và, khi số phiếu đã đạt kết quả 2/3 rồi, mọi người bắt đầu vỗ tay vì đã có Giáo hoàng mới. Và, hồng y này đã tới quàng vai ôm hôn tôi rồi nói: “Này! đừng quên người nghèo đấy nhé!” Và, cụm từ “người nghèo”, “người nghèo” cứ thế lẩn quẩn bên tai tôi. Thế rồi, ngay lúc đó, tôi đã nghĩ đến thánh Phanxicô thành Assisi. Bởi, thánh-nhân là người của giới nghèo. Và cứ thế, trong lúc diễn tiến cuộc bầu cử cho đến phút chót, tôi vẫn nghĩ đến các cuộc chiến xảy ra ở nhiều nơi. Mà, thánh Phanxicô đích thực là người của hoà bình. Đó là sự thể về tên gọi Phanxicô thành Assisi đã đến với tâm trí tôi là như thế. Với tôi, ngài là người của giới nghèo, của hoà bình, tức một người luôn yêu thương bảo bọc mọi thụ tạo. Quý vị chắc thừa biết rằng ngày hôm nay, ta không có được quan hệ tốt đẹp với mọi thụ tạo, phải thế không? Và, thánh Phanxicô là người đem đến cho ta tinh thần hoà bình. Ôi vị thánh nghèo!…

Xem như thế, đủ biết là tôi rất muốn Hội thánh mình trở nên nghèo và sống cho người nghèo. Và sau đó, có người đến nói đôi câu diễu cợt bảo rằng: Không được. Ngài phải chọn tên Clêmentê mới được. Tại sao ư? Gọi ngài là Clêmentê thứ 15 như thế ngài sẽ trả được món nợ cho Đức Clêmentê thứ 14 là vị Giáo hoàng từng o ép Dòng Tên của ngài… Tóm lại, đó đều là chuyện diễu cợt cho vui thôi. Thật tình, tôi rất thương mến quý vị và cảm ơn quý vị về các công việc quý vị từng làm. Tôi cầu nguyện cho công việc của quý vị được lành mạnh và tạo nhiều hoa trái và rồi quý vị cũng sẽ hiểu tốt Phúc Âm của Chúa và biết rõ sự thực về cuộc sống của Hội thánh một cách dồi dào, phong phú.” (xem Sheila Liaugminas, MercatorNet 19/3/2013)

Nói chuyện với truyền thông đại chúng là nói như thế. Dù có nói theo tư thế của đấng bậc trưởng thượng cả một thánh hội. Cũng thế, giới truyền thông đại chúng cũng từ một tư thế của dân gian quần chúng cũng thường tường trình mọi biến cố/sự kiện xảy ra ở đời hoặc trong Đạo. Và, một tay viết rất chuyên về tiểu sử các vị giáo hoàng là phóng viên George Weigel lại cũng nói và viết một cách chuyên nghiệp như chuyện bình thường, rất như sau:

“Đã có lần, Hồng y Bergoglio (tức đương kim Giáo hoàng Phanxicô Đệ Nhất) từng hạ bút viết lên những điều mà Đức Gioan Phaolô đệ Nhị và Đức Bênêđíchtô thứ 16 gọi là “Rao truyền Phúc Âm theo cung cách rất mới”, bằng giòng chảy suy tư nho nhỏ, như sau:

Hội thánh ở thế kỷ 21 không thể tin tưởng vào thứ văn hoá “lang bạt kỳ hồ” của quần chúng hoặc cứ dựa vào với ký ức của một nền văn hoá thuyền thống ở Đạo Chúa, ngõ hầu rao truyền Phúc Âm theo đường lối khả dĩ chuyển đổi được cuộc sống cá nhân, sửa đổi các văn hoá và xã hội. Điều ta cần là: phải có cái gì đó sâu sắc hơn, phong phú hơn…”

Đó là thông điệp mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất sẽ đem đến với thế giới. Đó là Đạo Chúa tập trung vào Phúc Âm, tức thứ Đạo vẫn thách thức những người luôn cay cú vào thời hiện tại, cả những vị hiện đã chán chường những chuyện siêu hình học và những người đang thấy khô khan về linh đạo, để rồi lại sẽ khám phá ra mạo hiểm to lớn của con người khi họ sống nội tâm với những gì được đề cập trong trình thuật Kinh thánh, suốt nhiều thế kỷ…

Tắt một lời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đệ Nhất đã chính thức đăng quang vào ngày thứ Ba 19/3/2013 vừa rồi. Ngày đó, có thể là một ngày như mọi ngày đối với nhiều người. Tuy nhiên, gọi đó là ngày gì thì gọi, tự nó vẫn là một ngày rất mới đối với nhiều người, trên thế giới.” (xem Sheila Liaugminas, bđd)

Thế đó là những điều được giới truyền thông ở nhà Đạo nói về Đạo và về đấng bậc trưởng thượng trong thánh Hội, tức Hội thánh rất Công giáo. Nói cho cùng, nói như nhà Đạo lại cũng quanh quẩn những điều như thế. Thế nhưng, là nghệ sĩ, có lẽ bạn và tôi, ta lại sẽ không nói nhiều và nói dài dài nhưng sẽ hát vnhững câu của người nghệ sĩ có ý/lời như sau:

“Trong đôi mắt anh em là tất cả.
Là niềm vui là mộng ước trong thoáng giây.
Em sẽ cố quên rằng mình đã đến trong nhau.
Nồng nàn như đã dấu yêu từ thưở nào.”
(Đức huy – bđd)

Là nhà Đạo, có thể bạn hoặc tôi, ta sẽ không nói và hát như người nghệ sĩ, nhưng lại vẫn cứ kể về lời của Chúa được đấng thánh hiền ghi chép cũng như sau:

“Chính nơi điều này
mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta:
ấy là: anh em hãy có lòng yêu thương nhau.”
(Ga 13: 35)

Thật ra thì, chưa chắc ý/lời của người nghệ sĩ cũng na ná giống Lời vàng của Đức Chúa khi Ngài nói về Tình Yêu quan hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con. Quan hệ ấy, vẫn là quan hệ của tình thân thương đùm bọc nhau, dù mình có ở địa vị nào.

“Truyện rằng:
Thời võ sĩ Đạo tại Nhật, có kiếm khách nổi tiếng với đường kiếm tuyệt luân của mình. Ngoài ra, Ông còn có tài đánh cờ thuộc hàng thượng thặng. Sau một quãng đời tung hoành ngang dọc trong chốn giang hồ, vị kiếm khách này đã ngộ ra lý Thiền nên đã “rửa tay gác kiếm”, khoác áo tu hành. Qua nhiều năm dài tu hành tinh tấn, Ông đã trở thành một Thiền Sư được nhiều người biết đến về đạo hạnh.
Trong suốt thời gian đó, Ông cũng đã đem hết tâm huyết ra để nâng khả năng về Kiếm và Cờ của Ông lên hàng Kiếm Đạo và Kỳ Đạo. Vì vậy, tên tuổi của Ông ngày càng thêm lừng lẫy.Nhiều người đã đến xin học đạo với Ông và do đó Ông đã có nhiều môn đệ. Một ngày kia, có một chàng thanh niên đến ra mắt Ông để xin theo học Đạo. Vị Thiền Sư đã nhìn kỹ chàng thanh niên và nói :
- Ta chỉ nhận làm đệ tử những ai có đạo hạnh cao hoặc có khả năng khá về Kiếm hoặc Cờ. Ngươi tự xét thấy có khả năng nào trong các thứ ấy để có thể được ta thu nhận đây? Sau một thoáng suy nghĩ, chàng thanh niên vội đáp :
- Con có khả năng chơi Cờ; mặc dù không phải là hạng cao thủ nhưng con cũng đã từng hạ nhiều tay chơi Cờ giỏi có hạng. Liền đấy vị Thiền Sư lại hỏi :
- Vậy, bây giờ ngươi có muốn thi đấu về Cờ không?
- Dạ, thưa ! Con muốn thử. – Chàng thanh niên đáp.
Nghe vậy, vị Thiền sư vội đi vào phía sau Thiền viện và trong khoảnh khắc lại trở ra với một thiền sinh. Đó là một nhà sư đã có tuổi vẻ mặt hiền lành, phúc hậu và là một trong những thiền sinh rất giỏi về Cờ trong Thiền viện. Sau khi giới thiệu thiền sinh này với chàng thanh niên để thi đấu với nhau, ông đã nghiêm nghị nói:
- Trước khi bắt đầu cuộc đấu, Ta cần phải nói rõ: đây sẽ là một ván cờ “sinh tử”, người thua cuộc sẽ phải chết dưới lưỡi kiếm của ta. Các ngươi có đồng ý nguyên tắc này không? Cả hai đều tỏ vẻ đồng ý và ngồi xuống chiếc bàn có đặt sẵn bàn cờ để bắt đầu thi đấu, trong khi vị Thiền sư đặt thanh kiếm trên chiếc bàn nhỏ trước mặt rồi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên để giám sát cuộc đấu.
Thoạt tiên, khi bắt đầu cuộc đấu cả hai đều rất thận trọng khi đi cờ như để dò ý và tìm hiểu về khả năng cũng như lối chơi cờ của đối phương. Khoảng một lúc sau, với những bước vững chắc về thủ và linh động về công, vị thiền sinh đã đưa chàng thanh niên vào trạng thái bị động, phải lui về thế thủ. Chàng thanh niên đã tỏ ra bối rối trước sự tiến công dũng mãnh của đối phương. Chàng bỗng đâm ra lo ngại là không những sẽ bị thua cuộc và mất dịp được theo học Đạo mà còn bị mất mạng nữa. Do đó, chàng ta cố vận dụng trí óc để moi ra từ ký ức những thế cờ đã từng đánh và từng học được trước đây để mong chận bớt những nước cờ tấn công rất hiệu lực của đối phương.
Nhưng chàng ta chẳng nhớ ra được điều gì có thể xử dụng để thay đổi tình thế. Trong cơn lo lắng miên man, bất chợt chàng có ý nghĩ: hay là xử dụng những nước cờ “liều”, biết đâu sẽ chẳng có kết quả tốt. Nghĩ xong chàng liền áp dụng ngay. Đang ở trong thế thủ, bỗng bất thình lình chàng vùng lên tấn công quyết liệt. Những nước cờ “liều mạng” của chàng vừa đánh ra chẳng có một quy tắc căn bản nào cả, chỉ toàn là những nước cờ “thí” không ai dám sử dụng hay nghĩ đến trong khi chơi Cờ, nhất là trong một ván cờ sinh tử như thế này. Chỉ trong vài nước, thế cờ liều đột nhiên có kết quả. Nước cờ đang ở vào thế thủ bỗng chuyển sang thành thế công, bắt buộc đối thủ phải lui về chống đỡ.
Người thiền sinh cao cờ giờ đây bị đưa vào thế bị động vì những bước đi cờ lạ lùng, kỳ dị không thể tiên đoán được của chàng thanh niên liều mạng này. Chàng thanh niên đang ở vào thế “thượng phong”, chàng tấn công tới tấp để mong chiến thắng. Trong lúc hăng say để đạt chiến thắng đó, từ trong nội tâm của chàng bỗng nổi lên ý nghĩ: “Hôm nay, đến nơi này để xin học Đạo, phải đánh ván Cờ “sinh tử” để được nhập môn, rồi trong lúc nguy khốn vì bị tấn công dồn dập đã phải dùng thế cờ “liều mạng” để chuyển bại thành thắng, đưa đối phương vào thế thúc thủ. Trong chốc lát đây ván cờ sẽ kết thúc, người thiền sinh phúc hậu kia sẽ phải chết dưới lưỡi kiếm của Thầy. Người Thiền sinh đã mất gần suốt cuộc đời để học Đạo, tu hành tinh tấn, có được đạo hạnh cao; nay lại phải trở thành “cây thước” để đo tài người đến xin học Đạo, để rồi phải bỏ mạng vì kết quả của ván cờ. Thật là oan uổng… Trong khi những ý niệm đó hiện ra và đưa chàng thanh niên vào suy tư thì nước cờ của chàng đang đi bỗng nhiên có vẻ chậm lại và mất phần kiến hiệu.
Vì vậy, chỉ trong năm, ba nước cờ nguời thiền sinh đã tiến dần đến thế quân bình, rồi trong khoảnh khắc đã nắm lại được thế chủ động. Bây giờ đến lượt chàng thanh niên mất thế “thượng phong”.
Chỉ thêm vài nước, người thiền sinh đã đưa chàng thanh niên vào thế gần như không có lối thoát. Nhưng bất chợt, đột nhiên thế cờ của người thiền sinh bỗng như chậm lại và có vẻ hòa hoãn, ngập ngừng trong khi thế cờ của chàng thanh niên lại có phần chần chừ, bất định. Do đó, ván cờ đang ở vào giai đoạn sắp kết thúc bỗng nhiên như dừng hẳn lại. Nhưng cuối cùng, dù muốn dù không, ván Cờ cũng phải đi đến chỗ kết thúc. Vì vậy, người thiền sinh nhân hậu kia bắt buộc phải ra tay hạ thủ để kết thúc ván Cờ. Thế thắng, bại đã hiện ra trước mắt.
Đột nhiên, vị Thiền Sư bỗng vụt đứng phắt dậy, hét lên một tiếng thật to và rút kiếm ra khỏi vỏ.Mũi kiếm được chĩa ngay vào đỉnh đầu của chàng thanh niên. Nghe tiếng hét của Sư phụ, người thiền sinh vội cúi đầu, chấp tay niệm Phật. Với một đường kiếm tuyệt luân và thần tốc không thể ngờ được, thoáng một cái lưỡi kiếm của vị Thiền sư đã cạo nhẵn mái tóc trên đỉnh đầu của chàng thanh niên. Giờ đây, trông chàng thanh niên chẳng khác nào một người vừa được “thí phát” để “quy y”. Và vị Thiền sư đã cất tiếng nói với chàng thanh niên:
- Hôm nay, ta chính thức nhận con làm môn đệ.
Ván Cờ đã kết thúc trước khi nước cờ cuối cùng được đánh ra để quyết định việc thắng bại mà chiến thắng đang nằm trong tay của vị Thiền sinh nhân hậu. Là một bậc Thầy về Kiếm và Cờ, vị Thiền sư trong khi ngồi giám sát cuộc thi đấu đã thấy và hiểu rõ khả năng và lối chơi Cờ của đôi bên. Ngoài ra, là một Thiền sư đắc đạo, Ông đã đọc được từng tâm niệm khởi nghĩ của hai kẻ ngồi trước mặt, nên hiểu được tánh ý, đức hạnh của người môn đệ của mình và thấy rõ tâm hạnh của người thanh niên xa lạ kia; sau cùng Ông đã đi đến quyết định. Dưới mắt vị Thiền sư: ván cờ đang sắp sửa được kết thúc mà phần thắng lợi đang nghiêng về phía người thiền sinh, môn đệ của Ông, nhưng chàng thanh niên lại là kẻ chiến thắng.
Chàng trở thành kẻ chiến thắng vì đã đánh bại được cái ước vọng nhiều tham muốn và lòng háo thắng của chính mình, dẹp bỏ được cái “ngã” riêng tư để nghĩ đến người mà không màng đến sự an nguy của chính bản thân. Chàng đã tự chiến thắng mình bằng lòng nhân ái. Chàng thực sự là một kẻ chiến thắng trong một chiến công vô cùng oanh liệt và quả cảm đúng như lời dạy của Đức Phật: “Chiến thắng oanh liệt và dũng cảm nhất mà không gây đổ máu và thù hận là tự chiến thắng bản thân mình”.
Chàng thanh niên vô cùng xứng đáng được thu nhận để bái sư học Đạo và có cơ duyên để trở thành huynh đệ với thiền sinh nhân hậu họ Triều kia. “(Tâm Ảnh kể)

Truyện kể thường như thế. Bao giờ cũng “có hậu” và gửi đến người đọc một thông điệp. Thông điệp hôm nay được người nghe chứ không phải người kể liên tưởng đến các đấng bậc dẫn dắt dân con nhà Đạo rất mô phạm, đạo mạo. Hy vọng, truyện kể đem đến cho người nghe ở đây đó thêm đôi điều vào quyết tâm sống Đạo, vì Đạo, mãi về sau.
Quyết tâm ấy, sẽ là tâm can quyết chí theo một con đường cho riêng mình. Lại cũng hy vọng: con Đường sẽ là Đạo, là Đường vẫn sáng chói ở khắp nơi.
Nghĩ thế rồi, nay bần đạo lại xin đề nghị người nghe và người kể truyện, ta ngâm nga hát theo ý/lời của nghệ sĩ từng diễn tả, rằng:

“Trong đôi mắt anh, em là tất cả,”
“Là nguồn vui là, hạnh phúc anh dấu yêu.
Nhưng anh ước gì,
Mình gặp nhau lúc em chưa ràng buộc
và anh chưa thuộc về ai.”
(Đức Huy - Như Đã Dấu Yêu)

Vâng. khi “chưa thuộc về ai”, thì anh có nói câu “Như đã dấu yêu”, thật cũng dễ. Và khi anh đã trở thành đấng bậc trưởng thượng ở đâu đó, có lẽ cũng khó. Khó, vì không chỉ mỗi dấu yêu một mình em thôi, mà là nhiều người, rất nhiều. Ở nhiều nơi, từ chân trời, góc biển đến thôn làng bé nhỏ của quê tôi, quê anh quê chị, rất tế nhị và đẹp đẽ.

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng cứ xin nói lời
“Như đã dấu yêu”
với hết mọi người,
dù không là trưởng thượng.



.

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Hai Phục Sinh năm C 07.4.2013

“Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy,"
Qua những lần buổn tủi giữa đảo điên.”
(dẫn từ thơ Bùi Giáng)
Ga 20: 19-31
Đảo điên hôm nay, không chỉ nói về lòng thủy chung, buồn tủi của ai đó. Nhưng, nói về sự thân tình đồ đệ như trình thuật thánh Gioan hơn một lần kể lể. Thánh Gioan, nay vẫn kể về quan hệ thân tình giữa thánh Tôma và Thày mình, rất thủy chung, thân tình.
Thân tình, thủy chung được đề cập theo cung cách đặc biệt khi thánh Gioan ghi chép về sự kiện Đức Giêsu “đến ở giữa” họ và nói: “Bình an cho các ngưoi!”
“Đến ở giữa” họ, là đến trong ta và đi vào thế giới của ta, cả thời này. “Đến ở giữa” ta, còn là tiến trình xảy đến chứ không là thành quả ta đạt được. Không cần biết tiến trình này kéo dài bao lâu, nhưng việc Ngài “đến ở giữa” ta là Ngài thực hiện điều Ngài quả quyết “hễ có hai ba người tụ họp vì Danh Ta, thì Ta sẽ đến ở giữa mọi người.”
Trình thuật hôm nay lại cũng ghi: đồ đệ Chúa mất tinh thần, nên cứ phải cửa đóng then cài, “vì sợ người Do thái”. Nên, Chúa “đến ở giữa” các ngài là ở cùng và ở với mối lo ngại về an toàn và “sợ người Do thái”. Xem thế thì, nỗi lo ngại và hãi sợ người Do thái nơi đồ đệ và chúng ta, vẫn là lý do và nơi chốn để Chúa “đến ở giữa”.
Thánh Gioan kể: những lần Chúa “đến ở giữa” ta là Ngài đến vào lúc con người cứ mãi lo ngại và hãi sợ. Đặc biệt hơn, dân con Chúa vẫn “sợ người Do thái”, suốt nhiều thời. Ta cũng thấy đồ đệ Chúa tụ họp để nguyện cầu tại một nơi rõ ràng đã “cửa đóng then cài” rất cẩn thận, vì “sợ người Do thái”. Làm như thế, giống như thể các ngài đang giữ lời Chúa khi được bảo: “Mỗi khi anh em nguyện cầu, hãy vào phòng riêng đóng cửa lại và nguyện cùng Cha anh em, trong thinh lặng..”
Ở đây, đồ đệ Chúa nguyện cầu thinh lặng trong phòng kín có “cửa đóng then cài”, nhưng vẫn “sợ người Do thái.” Chữ “sợ” này, thánh Gioan đã lập đi lập lại rất nhiều lần. Vào lần Chúa lên đền thánh cách lặng lẽ vì “Hêrôđê muốn giết Ngài”. Và, vào lúc không một ai dám nói gì về Ngài, cách công khai, vì “sợ nguời Do thái”. Và, cả vào lúc Chúa chữa cho người mù từ ngày bẩm sinh, cũng như lúc người của Chúa xin phép được chôn Chúa cách bí mật, “vì sợ nguời Do thái”. Cứ thế, nỗi “sợ” này xảy đến rất nhiều nơi.
Tuy nhiên, sau cảnh âu sầu xảy ra trên núi “Sọ”, có hai người xem ra không biết “sợ” và chẳng bao giờ “sợ người Do thái”; đó là: bà Maria Magđala và thánh Tôma. Tảng sáng ngày Chúa trỗi dậy từ cõi chết, các nữ phụ ùn ùn kéo nhau đến mộ phần canh chừng xác Chúa còn đó không, đã thấy mộ phần trống rỗng. Kịp lúc ấy, các bà đã biết “sợ”, nên vội lảng tránh khỏi hiện trường. Duy có bà Maria Magđala là dám “ở lại một mình”, không hề sợ.
Cả vào khi trả lời câu hỏi của thần sứ cứ vấn nạn: “Bà đang tìm ai thế?” bà liền đáp: “Họ lấy xác của Thày tôi đem đi rồi!” Xem thế thì, với Maria Magđala, Đức Giêsu không chỉ là Đấng Tiên Tri cao cả hoặc Đức Mêsia Cứu Chúa mà thôi, nhưng Ngài là Thầy, là Chúa và là Con Thiên Chúa. Bà biết rõ: Ngài là Đấng Thánh Cao Cả nên bà không biết “sợ” điều gì hết. Và khi ấy, bà không chỉ gọi Ngài là Chúa mà thôi, nhưng còn coi Ngài là Thầy và là Chúa của bà nữa. Với bà, Ngài đã tỏ lộ chính mình Ngài giữa cơn “hãi sợ” của nhiều nguời.
Trình thuật thánh Gioan còn nói: thánh Tôma là đồ đệ đầu tiên dám thưa chuyện trực tiếp với Đức Giêsu như Chúa của mình. Làm như thế, thánh Tôma chứng tỏ mình là đồ đệ không biết “sợ” và cũng chẳng “sợ người Do thái”, chút nào hết. Ít ra, thánh-nhân đã tỏ ra can đảm hơn đồ đệ khác. Và khi Chúa “đến ở giữa” các tông đồ, thánh Tôma lúc đó không có mặt. Có thể, thánh-nhân đi mua thức ăn cho bạn đồng môn/đồng hành vốn không dám xuất đầu lộ diện vì “sợ người Do thái”.
Lúc thánh Tôma về lại, đồng môn/đồng hành của thánh-nhân cho biết các thánh đã gặp Thày. Và khi ấy, thánh Tôma yêu cầu xem dấu đinh nơi mình Thày để còn tin. Thánh Tôma biết rõ: lúc ấy, đồng môn/đồng hành của mình vẫn còn lo sợ. Và, một khi con người đã sợ rồi, thì họ chỉ tin vào những gì họ kỳ vọng để được yên thân. Tuần lễ sau đó, Chúa lại đến với đồ đệ đồng hành, có thánh Tôma ở đó. Và thánh-nhân muốn sờ chạm vào Thày Chí Thánh đã “trỗi dậy”. Thánh-nhân đã toại nguyện.
Và ngay lúc đó, Đức Giêsu đã nâng-nhấc tinh-thần của thánh Tôma, con người không biết sợ như đồng hành của mình. Cùng với Ngài, hai Thày trò lại đã nâng-nhấc chính mình lên với Cha. Đó là lúc thánh Tôma có động thái tin tưởng rất đích thực, nên quả quyết: “Lạy Chúa là Chúa tôi!” Quả quyết này, chứng tỏ là thánh-nhân đã thực sự tin tưởng vào Chúa và là Thày mình. Như thế có nghĩa: thánh-nhân đã có được niềm tin-yêu của con người quả cảm dám tuyên xưng Thày là Chúa và là Thiên Chúa của người Do thái. Và khi ấy, thánh-nhân đã tiếp cận Thày mình, bằng niềm tin.
Ở đây, hẳn ai cũng thấy một sự thể cũng hơi lạ. Lạ, ở chỗ: sao ta cứ gọi đó là nỗi sợ sệt? Sợ, là sợ ai? Sợ gì? Phải chăng giới cầm quyền Do thái lúc ấy cũng hãi sợ? Họ sợ hãi, thoạt khi khám phá ra Đức Giêsu và đồ đệ Ngài? Là quan, như đấng bậc Philatô mà cũng “sợ”. Ông sợ điều gì? Phải chăng họ đã bắt đầu sợ Đức Giêsu khi Ngài thực sự đã chết?
Nhưng sao họ lại cứ “sợ” một người Do thái bình thường nay chết rồi? Và, đồ đệ Chúa cũng vì “sợ người Do thái” nên mới tụ tập trong phòng có “cửa đóng then cài”, rất cẩn thận! Có lẽ, đồ đệ nào đó đã phá vỡ bầu khí yên lặng trong phòng, nên mới lên tiếng: “Tôi e Thày mình chết thật rồi!” Lại có vị cũng sẽ bảo: không phải thế! Có vị khác, lại cứ nói thẳng ý nghĩ mình từng giấu kín rồi mới bảo: “Chắc tôi phải về thôi, nhưng biết ăn làm sao nói làm sao với người Galilê, bây giờ? Tôi e rằng mình cũng phải cho mấy người ấy biết là tôi đã bỏ chạy! Và nếu tôi báo cho họ biết Thày mình đã trỗi dậy từ cõi chết, tôi sợ những người như họ sẽ bảo tôi khùng, thế mới khó!”
Chắc hẳn có vị tông đồ nào đó vẫn còn “sợ” nên mới bảo: “Họ đã giết được Thày mình, thì sá gì lại không ra tay với anh em mình chứ? Chắc rồi, họ cũng rớ tới anh em mình thôi!” Có điều lạ, là: Chả ai chú ý đến cuộc sống của đồ đệ Chúa, ngoại trừ Đức Giêsu thôi. Nên, có thể cũng có vị nào đó vẫn nghĩ bụng: “Giá tôi không có mặt ở hiện trường này, hôm nay, cũng đâu đến nỗi phải sợ thế này!”
Một điều khác lạ nữa, là: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ nỗi sợ sệt của ta nữa! Giả như, Ngài đến với ta, hôm nay, trong hoàn cảnh này, chắc hẳn cũng có người vẫn “sợ” đấy chứ? Sợ gì và sợ ai? Có ai là người Do thái ở đây mà ta phải sợ, chứ?
Nói cho cùng, mỗi người và mọi người đều có nỗi lo ngại và hãi sợ nào đó. Sợ, cái chết đang từ từ trờ đến, với mình? Cũng có thể là: khi nghe tin bạn bè/nguời thân vừa qua đời, cũng chẳng ai sợ sệt nỗi gì, vì đâu nào liên can đến mình. Nhưng, nếu biết rằng: rồi cũng sẽ đến lượt mình phải chết như người ấy, hẳn mình cũng có nỗi “sợ” nào đó, đâu biết được! Bởi thế nên, nỗi sợ và cái chết thường sánh đôi rất nhịp nhàng. Chả thế mà, mọi người ở đời thường lại cứ la hoảng lên mà nói: “Sợ chết mồ!” Vậy thì, “sợ” là điểm đến nhằm kết thúc sự sống của ta, hôm nay hoặc mai ngày.
Nếu có một ngày nào đó, ta trỗi dậy từ cái chết của chính ta, thì điều trước tiên ta cần làm, là: làm sao trỗi dậy khỏi nỗi “sợ”. Người trỗi dậy, phải chứng tỏ được điều ấy cho riêng mình. Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cái chết của Ngài. Và, trên nguyên tắc, Ngài cũng trỗi dậy khỏi cái chết của chúng ta nữa. Nay, có thể là: Ngài vẫn thực sự trỗi dậy từ bên trong nỗi sợ của ta, để giúp ta loại bỏ nỗi “sợ” ra khỏi chính mình. Vì thế nên, cảnh Phục Sinh ở trình thuật hôm nay cho thấy Đức Chúa đã trỗi dậy. Trỗi dậy rồi, Ngài đã và vẫn “đến ở giữa” mọi người, thế nhưng mọi người chẳng ai đả động gì đến chuyện ấy, tức: chẳng ai quan tâm đến sự thể là Chúa đã và đang “đến ở giữa” ta và mọi người, rất nhất mực.
Thiên Chúa còn làm hơn thế nữa. Ngài vẫn sống, không biết sợ. Với thế giới có sự sống đã trỗi dậy, thì không còn nỗi “sợ người Do thái” nữa; và cũng chẳng còn tình huống để ta sợ bất cứ ai. Bởi, tất cả đều đã tập trung nơi Ngài. Tất cả đã đặt tin tưởng nơi Ngài rồi, ta còn sợ chi.
Kể từ hôm nay, ta lại đã nhận ra rằng: chẳng nỗi “sợ” nào là tuyệt đối hết. Sợ, là do con người tưởng như thế, mà thôi. Bởi còn sợ, nên các thánh tông đồ mới vào phòng họp/nguyện cầu ở trên lầu vẫn “cửa đóng then cài” rất cẩn thận. Nhưng thực tế, đã có Chúa “đến ở giữa” ta và mọi người rồi, sao ta lại cứ sợ? Sợ Chúa ư? Chắc chắn mọi sự sẽ không phải thế, và không như thế, bao giờ.
Để loại bỏ tâm tình hãi sợ, ta sẽ hiên ngang ngâm tiếp ý/lời của nhà thơ không biết sợ, mà rằng:

“Tôi tự nguyện sẽ một lòng chung thủy,
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên.
Thân xương máu đã đành là ủy mị,
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh…”
(Bùi Giáng – Phụng Hiến)

Đã đành, người nhà Đạo cũng “lên thác xuống ghềnh”, “ủy mị” như nhà thơ, nhưng không sợ. Sợ sao được, vì có Chúa “tự nguyện sẽ một lòng thủy chung” khi Ngài trỗi dậy rồi nay “đến ở giữa” mỗi người và mọi người. Khắp mọi nơi.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch