Chuyện Phiếm Đạo Đời: Suy Tư Lời Chúa qua cuộc sống

“Đố ai biết lúa… mấy cây”
“biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng...”
(Phạm Duy – Đố Ai)

(Ep 4: 17-24)

Có những câu đố chữ, nghe qua cũng hay dữ. Nhưng nghe lại, khó mà hiểu được. Hiểu rằng, đố như thế chỉ là để như “đố vui để học”, hay “đố vui để chọc” cho vui mà thôi. Có một thời, ở Sàigòn, Trung Tâm Học Liệu đường Trần Bình Trọng, Quận 5 từng khai sáng ra chương trình này “đố vui” này, trên truyền hình.

Bần đạo nhớ không lầm, thì: cũng có một thời, các vị từng làm rộn chương trình này lên phải kể đến người thày nọ có tên và họ là Cao Thanh Tùng, một đàn sĩ lão luyện và quý hiếm chuyên chơi Trung hồ Cầm (Cello/Violoncelle) ở Sài Gòn thời đó, và một cụ nữa là linh mục Dòng cùng thời với bần đạo mang tên rất ư là Tiến Lộc Dòng Chúa Cứu Thế, đã tiếp nối công trình của người tiền nhiệm nay ở Mỹ.

Về những câu thơ đố chữ, bố ai mà trả lời được, những là: quét sạch lá rừng, sông kia mấy khúc, lúa nọ mấy cây? Nhưng, có câu đố mang chất liệu rất thi ca, cứ tà tà đố mãi chỉ như sau:



“Đố ai nằm võng không đưa,

Đố ai gặp lại người xưa không nhìn.

Đố ai quên được chữ tình,

Đố ai quên được bóng hình người yêu.”

(trích điện thư của một bạn tìm lại mãi trong trí nhớ vẫn không nhớ)



Không biết có phải vì người đố chờ mãi chẳng thấy ma nào giải được, bèn có thơ rất “con cóc” như sau:



“Người ta nói yêu là ngốc,

Bởi chữ tình là nguồn gốc chữ ngu…

Đôi khi con người, ta cần dừng lại…

Dừng lại, để rồi bước nhanh hơn.

Đôi khi con người, ta cần buông tay…

Cần cho đi, để rồi có nhiều hơn.

Đôi khi con người ta cần khóc,

khóc thật lớn, để rồi cười thật to…

Đôi khi con người lại cần ở một mình,

một mình, để biết có nhau quan trọng như thế nào.”

(trích dẫn cũng từ một điện thư như trên)



Có câu đố lại cứ hư hư thực thực, rất như sau:



“Ai bảo chăn trâu là khổ.

Tôi đây chăn nàng còn khổ hơn trâu!”

(trích từ nhiều điện thư bay đến như bướm trắng)



Ấy thế nhưng, có câu đố mà rất ít người dám đưa ra để chọc hay để học, dù cũng là đố vè lè nhè nhiều tình tiết nhưng không làm sao biết mà trả lời trả vốn cho đúng cách. Hoặc, có đố thì đố rất nhẹ nhưng câu đáp chẳng ăn khớp, hoặc không mấy thích hợp mỗi thế này:



“Thập niên năm đó, có tương lai

đố ai biết được phụ nữ người gì? ở đâu? Từ bao giờ?

vốn điếc nên không sợ súng, cũng chẳng màng mối sợ nạn nhân mãn,

đã quyết định từ nay không bao giờ lấy chồng, hoặc đẻ con nữa.

Đố ai biết dân tộc ấy người gì?” (trích câu đó của truyền thông không đại chúng)



Bần đạo nghe đố, thấy sao giông giống các câu hỏi của cha cố với đức thày khi bắt đầu một bài giảng ở nhà thờ đến là như thế, bèn xục xạo trên thư viện mạng tìm phần diễn giải từ các bậc thày ở trên cao, mà hội ý. Bỗng chốc, bắt gặp giòng chảy tư tưởng, rất như sau:



“Mới đây, tuần báo The Economist và tờ London Telegraph đã cảnh báo rằng chủ thuyết duy vật nay chừng lại, tại Trung Quốc.



Rõ ràng là, nhiều tuần trước đây ta thấy hiện tượng ly dị đã rộ lên tại nhiều nơi. Đặc biệt hơn cả, là: phụ nữ Trung Hoa sống ở thị thành lại cứ muốn xét lại chuyện cưới hỏi cho đến khi họ gặp được “ý trung nhân” giàu có đủ để có thể giúp họ tậu nhà, sắm xe. Người dân thị thành coi đây là chuyện lạ và đặt cho nó cái tên cũng rất ngộ là “hôn nhân trần trùi trụi”. Có thể nói, đây là chiều hướng từng bị ngành truyền hình tạo ra để lôi cuốn người xem thôi. Nhưng, trong một buổi mạn đàm trên đài, có cô gái trẻ tuổi mới hai bốn đã dám hùng hồn tuyên bố rằng cô chỉ muốn chọn có được căn hộ tươm tất, hoành tráng hơn chọn bạn trai. Bởi, nhà sang cửa rộng vẫn sướng hơn cặp bồ.



Sự thật thì, chính quyền Trung Quốc chẳng mấy thích thú chuyện này. Là bởi vì nghĩ rằng họ đã tạo khúc mắc trong chính sách dân số chăng. Trung quốc, là nước từng chủ trương chính sách “chỉ một con”, nay phải gặp phải tình trạng hiếm muộn phụ nữ -do việc ai cũng chỉ muốn có con trai để nối dõi tông đường nên hễ cứ gặp thai con gái là quyết định đem phá. Và thêm cái tội khác là, số lượng người già sống rất thọ, nay mới đáng sợ. Và chuyện ngưng không lấy chồng của dân con người thường ở Trung Quốc không thuộc vào chính sách nào của giới cầm quyền đưa ra hết.



Để giải quyết tình trạng “không có gì mà ầm ĩ” này, Tối cao Pháp viện của Trung Quốc bèn ra quyết định, là: ai mua nhà chuẩn bị cho gia đình mình về sống; hoặc cha mẹ nào ứng tiền ra mua cho con cái thì vẫn được giữ nó cả sau khi ly dị. Về quyết định này, một luật sư tên là Hồ Bá Chu làm việc tại tỉnh Phù Nam có nói:



“May ra điều này giúp được giới trẻ, đặc biệt là nữ giới trẻ, nay có động thái độc lập hơn trước rất nhiều. Nhờ vào đó, họ có thể suy tư tính toán về chuyện cưới hỏi một cách đàng hoàng đúng đắn hơn là chỉ chú trọng vào tiền của.”



Ở các nước châu Á khác, xem ra người trẻ sống ở thị thành cũng bắt đầu có khuynh hướng gọi là “ta cứ từ từ mà suy tính chuyện lập gia đình”. Theo The Economist xuất bản ở Luân Đôn, thì tại các nước có đời sống khá giả như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Hồng Kông, tuổi trung bình để nam thanh nữ tú tính chuyện gia đình đã tăng nhanh từ thập niên qua, tức là: nay ở độ tuổi 29-30 cho nữ và 31-33 cho nam. Nhưng không phải chỉ có thế, báo này còn cảnh giác:



“Nhiều người Á đông không chỉ muốn lập gia đình rất trễ mà thôi, mà họ cũng chẳng muốn lập gia đình nữa, đó mới là chuyện đáng ngại. Ở Nhật, tính ra có đến gần 30% phụ nữ Nhật không lập gia đình vào hàng tuổi ba mươi. Có nơi còn lên đến 50% số những người này hẹn sẽ làm như thế, đến suốt đời. Với phụ nữ xứ Đài, có đến 20% số phụ nữ còn độc thân dù ở tuổi sắp lên hàng bốn chục. Và, một khi đã bước vào hàng tuổi này rồi, thì hầu như các cô nhất quyết sẽ không còn chịu lập gia đình nữa. Ở nhiều nơi, tỷ lệ những người không chịu lập gia đình còn ghê gớm hơn thế nữa. Riêng ở Bangkok, có đến 20% phụ nữ tuổi từ 40-44 không lấy chồng. Với dân thị thành ở Tokyo, thì 21% nữ sinh viên tốt nghiệp đại học thường ở vậy, không lấy chồng. Singapore còn hơn thế, tỷ lệ nữ giới ở đây đạt mức 27% số nữ sinh quyết không lấy chồng. Cho đến nay, khuynh hướng này chưa ập tràn qua Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước cố dân đông nhất thế giới nhưng chắc rồi cũng sẽ như thế; bởi, nền kinh tế ở hai nước này đã và đang khấm khá hơn trước nhiều. Hậu quả của nền kinh tế phát triển kéo theo việc dân chúng ở nước họ, muốn chọn lựa chuyện nên lập gia đình, nhất là nữ giới, với thế hệ có sinh xuất cao. Đến năm 2050, sẽ có sự chênh lệch khoảng 60 triệu phụ nữ ở độ tuổi dễ lấy chồng nhưng chưa tính, đó là hiện tượng đang xảy đến ở Ấn Độ và Trung Quốc. Điều đó có nghĩa: phụ nữ hai nước này đang bắt đầu đặt vấn đề về chuyện có nên lấy chồng ngay hay không…”



Khuynh hướng này dĩ nhiên là đang gia tăng với các phụ nữ trí thức và/hoặc độc lập về kinh tế. Lý do dễ thấy nhất là: phụ nữ nay không còn mấy thích truyền thống để người đàn ông khuynh loát quyết định mọi chuyện trong gia đình. Số lượng phụ nữ tham gia lực lượng lao động nay đã nhiều hơn. Các người này không còn muốn cảnh ru rú ở nhà chăm lo nội trợ để rồi ngân sách gia đình hoàn toàn tuỳ thuộc vào đồng lương của người đàn ông là gia chủ mà thôi. Nói cách khác, phụ nữ người châu Á nay không còn thích ở nhà làm những việc không tên trong gia đình nữa.



Không riêng gì Trung Quốc, mà tại các nước khác ở châu Á, chuyện “phụ nữ không muốn lập gia đình nữa” có nghĩa là số con cái trong gia đình cũng sẽ giảm sút. Từ đó, lại có thêm vấn đề là đàn ông xứ này sẽ mất dần ảnh hưởng xã hội do không có người để mình cưới và tình phụ tử sẽ biến vào thiên thu. Chuyện đóng vai làm trụ cột gia đình nâng đỡ người già cả/bệnh tật cũng sẽ giảm sút. Cuối cùng, theo quan điểm của tờ The Economist, thì rồi ra chuyện này cũng sẽ là một trong các vấn đề nghiêm trọng không chỉ cho châu Á thôi, mà cho cả thế giới nữa.” (x.Carolyn Moynihan, The Asian marriage in trouble, MercatorNet 24/8/2011)



Đọc tường trình của mấy tờ báo lớn “không nói láo ăn tiền” như thế, chắc hẳn bạn cũng như tôi, ta sẽ khựng lại chừng đôi phút, để khi tỉnh táo, sẽ lại nhớ bài ca “đố ai”, vẫn còn đó câu hát:



“Đố ai biết gió ở đâu,

Gió hay đi vắng lúc nao có nhà.

Đố trăng mấy tuổi trăng già,

để em lên tiếng mặn mà yêu anh…”

(Phạm Duy – bđd)



Hát bấy nhiêu chắc chưa đủ, để diễn tả tình trạng “khá căng” đối với những người xưa nay vẫn cứ bị đố nhăng đố cuội. Đố, cả những câu ca ta từng nghe hát:



“Đố ai tìm được tim ai,

Biết ai nhặt được tim em

Để em ca hát… cho đời nên thơ

Để anh âu yếm, dâng người trong mơ.”

(Phạm Duy – bđd)



Nghe xong câu hát này, hẳn bạn và tôi, ta lại sẽ giật mình mà hỏi rằng, nghệ sĩ già họ Phạm có nghĩ trước những chuyện xảy ra hôm nay ở trời Đông như được cảnh báo không? Chuyện xảy ra, là sao mà “nhặt được tim em”, để “em ca hát, cho đời nên thơ”, được! Bởi rõ ràng, là: chuyện phụ nữ Á Châu nay từ chối không chịu lấy chồng nữa, thì đâu dễ để kết thúc chỉ một bài báo thôi.

Đọc bài báo trên tờ The Economist, chắc hẳn nhiều độc giả cũng thấy ái ngại không ít. Nhất thứ là độc giả gốc người Á Đông vốn có nền văn hoá và văn minh văn hiến rất chính mạch, thường thì không mấy đồng ý. Quan ngại nhiều thì đúng hơn. Quan ngại, là bởi cứ sợ rằng đây là khuynh hướng toàn cầu chịu ảnh hưởng nhiều từ lối sống Âu Tây, do cuộc cách mạng vi tính tạo nên.

Một số người quan ngại, lại cứ cho rằng: quan điểm của người tường trình tình hình ở Đông Á xem ra chưa phản ánh được hết mọi mặt của sự quan ngại hoặc, hiện tượng xảy đến, có khi chỉ một chiều. Có vị độc giả còn nại cớ bảo rằng: không thấy tác giả nói gì về động thái của đàn ông Châu Á. Liệu những người này có phản bác ý kiến của người viết không chứ? Đàn ông Á Đông ở độc thân, có phải vì họ tình nguyện sống như thế hay không? Hoặc, cũng có thể lý do là vì họ cũng chần chừ lâu quá, nên quá thời, chăng?

Không riêng gì châu Á, bà con ở phương Tây nói chung nay cũng chầm chậm không còn hăng say tính chuyện lập gia đình vào hàng tuổi hai mươi như khi trước, vì vẫn muốn để cho xong đại học và có việc làm ổn định đã. Có người lại coi hàng tuổi hai mươi là thời kỳ có tự do bay nhảy; vui chơi cho thỏa thích cho đến khi đứng tuổi, chững chạc mới tính chuyện cam kết với trách nhiệm.

Hiện tượng trì hoãn trưởng thành nay trở nên phổ biến rộng khắp nơi trên thế giới chứ không chỉ ở châu Á mà thôi. Nhiều nhà xã hội học gọi đó bằng tên “tuổi trưởng thành đành chịu hố”. Cuối cùng thì, hiện nay trên thế giới đang xảy đến hiện tượng thật rõ nét, đó là:Tây cũng như ta, già cũng như trẻ, ai cũng chỉ muốn có nhiều tự do chứ không còn muốn ràng buộc vào các gò bó, o ép dưới hình thức hôn nhân giả đình, như trước nữa.

Là dân con nhà Đạo, chắc cũng có ý kiến hỏi rằng: nhà Đạo mình thì sao? Có hiện tượng nào nổi lên như thế không? Và nếu có, ta làm thế nào để dung hoà?

Hỏi, là hỏi thế chứ ai nào dám có câu trả lời. Chí ít, là đám phó thường dân kiêm giáo dân hạng thứ như bần đạo, thì “biết đâu em trả lời”. Có là bé em như bần đạo nhiều lắm cũng chỉ lạo xạo chạy đến với đấng bậc thân quen mà vấn ý. Đấng bậc bạn bè nghe vấn ý bèn nói nhỏ: vấn gì thì vấn sao không vấn ngay nguồn mạch của ý tưởng chân phương, chân thật rất chân chất là Kinh sách của Đạo. Được lời như cởi tấm lòng, bần đạo nghe thế bèn lấy Phúc Âm ra lần giở trước đèn, gặp ngay câu khuyên rất thật, từ Phaolô thánh nhân, như sau:



“Tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa,

vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ…

Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu;

nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu

và được dạy dỗ theo tinh thần của Người,

đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu.

Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa,

là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối,

anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em,

và phải mặc lấy con người mới,

là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa

để thật sự sống công chính và thánh thiện.

(Êp 4: 17-24)



Chẳng giấu gì bạn, gì tôi, bần đạo đây đọc lời khuyên trên suy nghĩ lung lắm bèn tìm đến các truyện kể nhè nhẹ đây đó, để thư giãn bèn tìm ra được một truyện kể, rất nhe, như sau:



“Vào khoảng năm 1982 các giáo sư ra trường từ Đại Học Cao Đẳng Sư Phạm rất nghèo khổ, nên các cô quyết định tìm chồng qua các tiêu chuẩn là: nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách Khoa, bỏ qua Sư Phạm.

Đã vậy, các nàng còn sáng tác và tặng cho một bài thơ độc rằng:

Em chẳng lấy chồng Sư Phạm đâu

Lấy chồng Sư Phạm chẳng bền lâu

Ba năm cao đẳng ho ra máu

Để lại cho em ... lá phổi sầu.

Thiệt là vô cùng ngạo mạn, các chàng giận run người và một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập. Ngài Chủ Tịch ban ra ngay một sắc lệnh tuyển chọn một Trạng Quỳnh để đấu trí với đám con cháu bà Đoàn thị Điểm kia. Và một thiên tài đã xuất hiện đáp trả lại như sau:

Em nên lấy chồng Sư Phạm thôi

Lấy chồng Sư Phạm rất đẹp đôi

Một năm anh nghỉ ba tháng phép

Ấp ủ tình em lúc lẻ loi.

Nghe lời đối đáp như thế này thì thắng lợi hoàn toàn nghiêng về phía các chàng sư phạm rồi còn gì.”

Điện thư viết đến đây bèn “tắt tịt” không thấy lời đối đáp của các cô sư phạm nữa. Chắc là đã hẹn bà con kỳ sau chăng?

Đọc truyện rồi, bần đạo chỉ biết kêu lên: “ôi thôi rồi nồi xôi”, sao bọn trẻ bây giờ nhiều ý kiến thế. Kêu lên rồi, đành tắt đèn, xếp bút nguyện cầu Chúa Chí Ái bổ dưỡng thêm cho vài ba ý tưởng chính xác, để còn đối đầu với chuyện của thời đại để còn đọc nữa chứ.



Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn thiên hạ

làm theo lời khuyên răn

của thánh nhân hiền lành

rất độ lượng.





Suy niệm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Thường Niên Năm B 15.01.2012



“'Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?”

“Mà đây lòng trắng một mùa đông.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương).

Ga 1: 35-42

Tuyết rơi, có rơi xuống mười phương hay tám hướng đi nữa, vẫn cứ lạnh. Tuyết vẫn lạnh, còn hơn cơn bão của “lòng trắng một mùa đông” khi hội lễ Chúa Giáng Hạ vừa mới dứt. Và nay, người người về lại với mùa thường niên để rồi sẽ bước vào mùa Chay tịnh, có trình thuật rất sưởi ấm.

Trình thuật, nay thánh sử ghi về sứ vụ công khai của Đức Giêsu luôn sưởi ấm con người bằng tình thương yêu cứu độ. Trình thuật, thánh sử viết ngay ban đầu về nhận định của thánh Gioan Tẩy giả khi thấy Đức Giêsu đi ngang: “Này là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 36). Qua nhận định này, thánh Gioan Tẩy Giả xác nhận vai trò của Chúa trong công trình cứu độ, Chúa Cha gửi. Nhận định ấy, được diễn bày vào tuần tới, ở các bài Tin Mừng do thánh Mác-cô ghi. Thế nên, đây là dịp tốt để người người tìm hiểu ý-lực được thánh Máccô làm nền cho Tân Ước, để ta hiểu.

Với thánh Máccô, Tin Mừng là tin rất mừng gửi đến dân con Chúa sống ở Rôma, ít năm sau ngày Giêrusalem bị đập phá. Đó, là lúc dân Chúa bị thúc ép làm nô lệ đến cùng tột, để rồi cũng chết khổ nhục như Thầy mình. Đó, cũng là lúc dân-Chúa-chọn bị bách hại đủ điều dưới chế độ đầy bạo lực của đế quốc Rôma tàn ác. Nhưng, trình thuật thánh Mác-cô vẫn viết theo chiều hướng tư riêng, sâu sắc không bị ảnh hưởng của những hành xử từ người của đế quốc.

Thánh Mác-cô coi thế giới ta đang sống như một pháp trường đầy sức chiến đấu. Pháp trường này, có đủ sinh lực để chống lại mãnh lực của sự chết, hệt như bi kịch cuộc đời. Thế nên, ngay ở đầu sách Tin Mừng, thánh sử đã vẽ lên cảnh trí Chúa chìm ngập trong mãnh lực của sự chết, khi Ngài dầm mình nơi sông Gio-đăng để nhận thanh tẩy, từ Gioan Tẩy Giả. Và từ đó, Ngài nhận sức sống đầy Thần Khí khi rời sông nước. Thánh nhân lại viết thêm cảnh Chúa bước vào sa mạc, chốn miền của những khô cằn đầy chết chóc không một ai sống sót; nhưng Ngài tồn tại sau 40 ngày, bởi nơi Ngài tràn đầy sự sống. Và, sứ vụ của Ngài thắng vượt sức mạnh của cái chết xảy đến với Ngài cũng như cho chúng ta.

Thánh sử Mác-cô nhận xét cho ta thấy: ngay trong mãnh lực của sự chết vẫn có kẻ “xuất quỷ nhập thần” vẫn kềm chế được. Chính vì thế, phần đầu Tin Mừng, thánh sử kể cho mọi người nghe truyện Chúa tống khứ đám quỷ sứ khỏi người bị ma nhập, nơi đền thờ. Rồi, Chúa lại chữa lành kẻ mắc bệnh phung, một bệnh bị người đời coi như đã chết dần chết mòn. Sau đó, thánh nhân giải thích về sinh lực sự sống nơi Đức Chúa. Đó không là “mãnh lực của tà thần”, nhưng trái lại, chính Ngài đã tống xuất uy lực của sự chết bằng việc chứng tỏ Ngài mạnh hơn chúng. Ngài làm thế, qua việc chữa lành cho người bệnh, khỏi mãnh lực của tà thần mà họ từng bị uy hiếp. Ngài chữa lành bằng sờ chạm đầy xót thương.

Đức Giêsu chứng tỏ cho mọi người thấy tình thương yêu/đùm bọc tiếp cận được mọi người sẽ mạnh mẽ hơn mọi uy lực, dù là uy lực của sự sống hay nỗi chết. Đây, là điểm nhấn mà các Đức Giáo Hoàng từ Đức Phaolô VI đến các vị về sau, vẫn gọi sự kiện này là “văn hoá của thương yêu”.

Kịp đến khi thánh Gioan Tẩy Giả bị vua quan giết chết, thánh Mác-cô lại kể cho người đọc Tin Mừng biết những ám muội do sức mạnh của tà thần/sự chết tập hợp và trực chỉ vào chính Chúa. Ngài thân hành đi Giêrusalem để giáp mặt với chúng. Giáp mặt không theo kiểu của giác đấu có người thắng, kẻ thua. Ở tình huống này, Ngài tuyên bố Ngài đến không phải để toàn thắng mọi chuyện nhưng là để “phục vụ”, tức cho đi trọn vẹn con người của Ngài như một bảo đảm cho tất cả những ai bị sức mạnh của tà thần sự chết ám hại.

Ngài đã cho đi chính mình Ngài, cho mọi người, không để sử dụng theo cung cách khuynh loát, thống trị mà như món quà dịu hiền để giải thoát con người khỏi mọi loại hình quyền lực. Cách duy nhất giúp Ngài thực hiện điều ấy là bằng cách tự thăng hoá tình thương yêu đối với những người bị hãm hại. Bằng vào con đường sống đem đến cho Ngài vì mục đích cao cả ấy. Thánh Máccô cho thấy Đức Giêsu luôn chọn lập trường chống lại quyền hành và ưu đãi để Ngài có thể làm được thế. Thánh sử còn cho biết: ngay đến môn đồ Ngài cũng hiểu sai hoặc không nhìn thấy mục tiêu Ngài đi tới.

Thánh Máccô nhìn về Hội thánh như thánh hội hành xử khác với đồ đệ của Chúa. Nhưng, ngay sau khi Chúa sống lại, Hội thánh biết dấn bước theo bước đường Ngài đi ngõ hầu làm sống lên sức sống đã được Thần Khí Chúa hỗ trợ bằng mọi ân lộc của ngày lễ Ngũ Tuần.

Với thánh Mác-cô, điểm đặc trưng nơi Đức Giêsu là tính nhân hiền, hiện thực. Đức Giêsu ở Tin Mừng thánh Mác-cô là Đấng sống trong cảnh dậy sóng, rất phong ba. Ngài không như người Galilê nhàn nhã, với tướng tá/lãnh tụ. Ngài cũng chẳng có nét vẻ anh hùng La Mã, Hy Lạp hay Do thái. Ngài chỉ trải rộng cho người sống chung quanh sự kinh ngạc, hoảng hốt đến độ khao khát sự cao cả. Với họ, lời Ngài rất phức tạp, khó hiểu. Toàn ý tưởng làm đồ đệ rối trí. Ai thích chuyện nổ dòn hoặc nệ cổ đều không ưa kiểu Ngài giảng dạy. Họ chỉ muốn Ngài toàn thắng quan chức đô hộ, lộng hành bằng tính quả cảm dám ăn dám nói trước mãnh lực của sự dữ. Nhưng ở nơi Ngài là Đấng duy-thực-tiễn cao cả chưa từng thấy. Dám trực-diện sự chết. Cung cách của Ngài hiền từ, êm dịu hơn mọi người. Nơi Ngài, mọi người thấy phát tiết ra sự hiền dịu trỗi dậy từ sự chết.

Với Tin Mừng thánh Mác-cô, người đọc không thấy nói việc Chúa sinh ra. Nhưng, tác giả đi thẳng vào việc gặp gỡ Đức Kitô trưởng thành dính dự vào những vấn đề của đời Ngài. Ngài giữ kín lý lịch. Ngài chẳng muốn làm phép lạ để tỏ ra là mình cao cả. Nhưng Ngài liều lĩnh đưa mạng sống mình ra để giải thoát sự sống rất hiền dịu là Nước Trời cho mọi người. Dù có bị hành hình đến nỗi chết, Ngài vẫn hiên ngang tiến tới. Ngài không có uy lực trên mọi người, nhưng lại có “quyền lực” trên mọi sức mạnh phi nhân bản chỉ muốn kềm chế con người.

Sống như thế, Đức Giêsu chừng như thách thức các nhóm người Do thái đã vững chãi vào thời Ngài. Thế nên, họ đáp trả bằng việc ly cách Ngài khỏi dân và cuối cùng bằng cái chết rất khổ nhục. Tin Mừng của thánh Máccô viết về Chúa là viết về thân phận của Đức Giêsu đặt trong tay của những con người không niềm tin.

Cuối cùng, Ngài chết trong bóng tối . Và lúc ấy, không có dấu hiệu của sự trỗi dậy và các phụ nữ đành bỏ về trong lặng thinh. Nhưng, Đấng Dịu Hiền đã trổi dậy, về với Galilê để tiếp tục làm sạch nhân trần khỏi uy lực bạo tàn của sự chết. Với thánh Máccô, sống lại không phải là kết hậu cho truyện kể rất sầu buồn mà đó mới chỉ là khởi đầu của truyện kể mới. Của một hiện hữu mới đem đến với Chúa, với đồ đệ và với người đọc Tin Mừng, do thánh nhân viết. Vào cuối trang Tin Mừng, thánh Máccô nói các phụ nữ bỏ chạy vì hãi sợ. Lời thánh nhân viết như thể nói với người đọc rằng: hãy cứ từ từ rồi xem sao. Vâng, có thể là, câu trả lời của thánh Máccô là: sao quý vị lại cứ nghĩ là chính tôi phải viết những đoạn kế tiếp? Và, chính quý vị mới là người lãnh trách nhiệm tiếp tục viết Tin Mừng chứ!

Nơi thánh Máccô, quả có sự hiện thực bất thường, trên thực tế. Bất thường thứ nhất là ở điểm: thánh nhân đề nghị chúng ta hãy nên lĩnh hội khá nhiều thực tế, rất như thế. Thánh Mác-cô trình và thuật cho ta thấy Đức Giêsu có thể đảm nhận trọng trách ấy. Bất thường thứ hai là, nơi thánh Mác-cô lại có sự hiền dịu rất lạ lùng. Trong khi đa số con dân Chúa chỉ có rất ít tính hiền dịu như thế. Phần đông chúng ta đều nhìn thấy được sự hiền dịu ở nơi nào sự hiện thực đang nhạt phai. Thánh Mác-cô còn cho thấy nơi Đức Giêsu, sự hiền dịu đã lên đến cực điểm ngay giữa hiện thực. Đó là nghịch thường của Tin Mừngdo thánh nhân viết. Chính đó vừa là sự chết và sống lại hiện hữu cùng một lượt.

Phụng vụ năm nay còn trưng dẫn nhiều chương đoạn của Tin Mừng thánh Máccô viết. Và, người đọc cũng còn học được nhiều điều về cuộc sống. Về, sự sống có nỗi chết . Về sự sống ngay chính giữa nỗi chết. Có người quan niệm: Mùa Chay năm nay sẽ bắt đầu hơi sớm. Nhưng nếu đọc kỷ Tin Mừng thánh Máccô viết, ta sẽ còn thấy rõ, theo chừng mực nào đó, mùa chay tịnh đã bắt đầu từ lâu rồi. Bắt đầu từ khi cuộc sống mới chớm, nơi ta.

Trong tâm tình nhận ra mùa chay trong đời người, cũng nên ngâm lên lời thơ trên để vui sống:



“Tương tư nổi đuốc thâu canh đợi

Thoảng gió ..trà mi động mấy bông..”

(Vũ Hoàng Chương – Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai?)



Có nổi đuốc thâu canh đợi mấy đi nữa, cũng chẳng thấy rõ Mùa Chay đời người đã có đó nơi con người. Bởi, sự sống của mỗi người đều đính kèm mãnh lực của sự chết, rất dễ biết. Biết rõ khi nhận thức được sự hiền dịu của Đức Chúa, nơi hiện thực ở đời người.



Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh.

Mai Tá phỏng dịch.