Giáo dân cộng tác với giáo sĩ một cách tích cực và đắc lực
(Bài 1)

Về trách nhiệm của cha sở và sự cộng tác cần thiết của giáo dân, Giáo Luật 1983 và Công Đồng Vatican II đã xác định rõ ràng rằng :
"Cha sở là chủ chăn riêng của giáo xứ đã được giao phó, và thi hành việc săn sóc mục vụ của cộng đoàn được ủy thác dưới quyền của Giám Mục giáo phận, vì được gọi thông phần với Giám Mục vào tác vụ của Đức Kitô, ngõ hầu chu tất nhiệm vụ giảng dậy, thánh hóa và quản trị đối với cộng đoàn ấy, với sự cộng tác của các Linh mục khác hoặc với các Phó tế và cả sự hợp lực của các giáo dân, theo qui tắc luật định". (Can.519).
Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo Hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian (Lumen Gentium, 37).
Ba nhiệm vụ giảng dậy, thánh hóa và quản trị của cha sở đã được Giáo luật xác định. Hai tính cách cộng tác tích cực và đắc lực của giáo dân đã được Hiến chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II nêu rõ. Nhưng trong thực tế, hai câu hỏi được đặt ra. Cha sở phải làm sao để được giáo dân cộng tác tích cực và đắc lực ? Giáo dân phải làm sao để có thể cộng tác tích cực và đắc lực với giáo sĩ, đặc biệt là cha sở của mình ?

Hè 2011 năm nay, tôi được tiếp xúc với nhiều giáo dân đã có dịp cộng tác với các cha sở của họ, ở Pháp, ở Mỹ, ở Việt Nam. Sau đây, tôi xin tóm tắt những điều đã ghi nhận được qua các cuộc trao đổi, trả lời câu hỏi thứ hai : Giáo dân phải làm sao để có thể cộng tác tích cực và đắc lực với giáo sĩ, cha sở của mình ?
Những giáo dân mà tôi đã được gặp tất cả đều đã hay đang là những cộng tác viên thân cận của các cha sở trong các giáo xứ họ sống ; hầu hết đã tham gia Hội Đồng Mục Vụ, hay Ban Phần Việc Xứ. Họ đã trao đổi những kinh nghiệm sống, mà chung quy thâu về 5 nguyên tắc nền tảng sau đây.

A1. Không bao giờ lấn quyền hoặc lấy quyết định thay cha sở

Một trong những sai lầm mà một số giáo dân mắc phải là đặt điều kiện với các cha sở, khi các ngài nhờ họ một việc gì. Thâm chí có khi họ còn quyết định thay cho cha sở và hầu như ra lệnh cho các ngài phải làm những điều họ đã quyết định
« Con sẵn sàng giúp cha tổ chức tiệc tân niên, với điều kiện là cha phải sắm bàn ghế mới ». « Nhà thờ mình cũ quá, phải chỉnh trang lại, con đã nhờ chị Tý làm họa đồ ». « Con đã thông báo với anh em rồi, chúa nhật tới xin cha đến họp với chúng con ». Đó là ba lời tiêu biểu, đôi khi rất dịu dàng, như « xin », nhưng có nghĩa đặt điều kiện, lấn quyền hay thay quyền cha sở, mà một giáo dân chính danh không bao giờ nên nói với linh mục chính xứ của mình. Đó cũng là những lời mà chẳng bao giờ một nhân viên dám nói với chủ mình ở công sở hay xí nghiệp ; vì chắc chắn sẽ bị coi là lấn quyền và hầu chắc sẽ bị khiển trách hay sa thải.
Khốn thay, từ vài năm nay, cụ thể là từ đầu năm 2010, không chỉ ở cấp giáo xứ, mà ngay cả ở cấp giáo phận, thậm chí ngay cả ở cấp Giáo Hội Việt Nam, nhiều phản ứng của giáo dân và ngay cả của một vài giáo sĩ đã rõ rệt lấn quyền hoặc thay quyền của giám mục hay của Hội Đồng Giám Mục.

Vậy, điều thứ nhất mà mọi giáo dân cần ghi nhớ là, ở bất cứ cương vị nào, ngay cả chủ tịch hay thành viên trong Ban Thường Vụ của HĐMV, họ chỉ là những cộng tác viên của cha sở, hoặc trực tiếp với ngài, hoặc gián tiếp qua các cha phó khác ; và chỉ có quyền tư vấn và thừa hành mà thôi : Tự sắc ''Hội thánh'' (Ecclesiae sanctae) (1966) của đức Phaolô VI đã xác định: « HĐMV chỉ hưởng quyền tư vấn thôi » (ES 16). Giáo Luật mới (1983) khi nói về HĐMV cấp giáo phận (c511-514) và cấp giáo xứ (c 536) cũng quy định: « HĐMV chỉ hưởng quyền đầu phiếu tư vấn thôi ».

A2. Không bao giờ xen vào chuyện của các cha mà âm mưu, đồng lõa chống cha sở

Trong những giáo xứ có cha phó, đôi khi xẩy ra sự kiện cha chánh cha phó bất đồng ý kiến, hay trầm trọng hơn là chống đối nhau. Hay xẩy ra nhất là khi các cha xấp xỉ tuổi nhau, mà tính tình lại khác nhau, thành dễ thiếu tôn kính nhau. Các cha có tinh xảo đến mấy, thì nếu có khinh thường nhau, bất đồng hay chống đối nhau, giáo dân cũng rất tinh nhanh. Nhiều cha ngỡ rằng có thể che dấu sự khinh thường, bất đồng hay chống đối của mình. Các cha lầm. Giáo dân họ thấy, nhưng không nói ra thôi. Đôi khi có giáo xứ, cha chính, hay cha phó còn kéo giáo dân theo bè mình, chống đối người kia, thậm chí còn xui họ tố cáo người kia với giám mục. Đôi khi, có những giáo dân sa bẫy, đồng lõa chống đối linh mục kia.

Thực ra, quan niệm truyền thống việt nam luôn coi linh mục, người được Chúa gọi và chọn, được phong chức thánh, là phụ mẫu của giáo dân. Cũng như trong một gia đình, con cái đâu có quyền được chọn cha mẹ. Cũng vậy, trong một giáo xứ, có bao giờ giáo dân được chọn cha sở, hay cha phó đâu. Chúa cho cha mẹ nào, linh mục nào thì mình nhận cha mẹ hoặc linh mục nấy. Mà cha mẹ, hay cha sở hoặc cha phó, thì mỗi người mỗi tính. Người thì dịu hiền, kẻ thì nóng nảy. Người thì nhịn nhục, chấp nhận, kẻ lại gắt gỏng, chửi bới. Người thì rộng lượng, bao dung, kẻ lại hẹp hòi, chấp vặt. Người thì thông minh, nhìn xa, kẻ lại đoản trí, nhìn gần,…
Chuyện của cha mẹ, để cha mẹ khắc xử lấy. Con cái chẳng nên xen vào, nhất là tránh vào hùa, bênh người này, chê người kia. Chuyện của cha chánh, cha phó cũng vậy. Nếu các ngài có chuyện với nhau, thì cứ để các ngài tự lãnh trách nhiệm, tự xử với nhau. Giáo dân tuyệt đối không xen vào, càng không nên vào hùa, đồng lõa với cha này để chê trách, tố cáo, loại trừ, làm hại cha kia.
Khốn thay, cũng từ NĂM THÁNH 2010, có giáo dân, thậm chí có cả giáo sỹ đã vào hùa với nhau để chống đối, phê bình, tố cáo các giáo sĩ khác, thậm chí tố cáo, vu oan cho cả các giám mục trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Làm như vậy, họ đã phá hoại và chia rẽ giáo hội. Việc làm này thật không phải đạo.

Vậy, điều thứ hai mà mọi giáo dân cần ghi nhớ là phải tôn trọng chức thánh của linh mục, mà chẳng bao giờ chống đối, chỉ trích, vu oan cho các giáo sĩ linh mục hay giám mục, nhưng nên để các ngài lãnh trách nhiệm tự xử lấy. Cha mẹ hoặc linh mục tài giỏi, tốt lành thì mình được nhờ ; Thản hoặc Chúa gửi cho mình cha mẹ hoặc tu sĩ, linh mục hay giám mục, không được như vậy, thì cũng an phận theo thánh ý Ngài.

A3. Cộng tác với cha sở để đặt dự án, thành thật trao đổi mọi tin tức « theo sự thật và trong tình bác ái » (Ep, 4, 15).

Trong công việc quản trị, giỏi hay dở là tùy khả năng biết nhìn. Biết nhìn, trước nhất là biết nhìn về quá khứ để thấy ra cái sai lầm, khuyết điểm, hay tầm thường hầu sửa đổi, cải tiến ; cái thiếu chưa làm hầu làm cho đủ đã vậy ; Mà còn là biết nhìn hiện tại để chọn được công việc có thiên thời, địa lợi, nhân hòa mà thực hiện, hầu thâu được nhiều kết quả hữu hiệu hơn ; Và nhất là biết nhìn xa về tương lai, hầu tiên liệu những thay đổi của môi trường, thời thế, hầu chuẩn bị thích nghi, tránh được lỗi thời, thoát được lạc lõng.
Các nhạc trưởng, không phải ai cũng giỏi vĩ cầm. Các chủ xí nghiệp, không phải ai cũng giỏi quản trị nhân viên. Cũng vậy, các cha sở, không phải ai cũng giỏi tiên liệu, nhìn xa, biết rộng. Khi các ngài cần và hỏi mình, thì giáo dân, nếu có khả năng, nên cộng tác với các ngài : giúp các ngài nhận xét và phân tích quá khứ cũng như hiện tại, hầu suy xét tiên đoán tương lai, để đưa ra được những dự án thích hợp cho giáo xứ.
Giá trị của một dự án tùy thuộc vào giá trị chính xác, khách quan và hiện hành của tin tức. Bởi vậy, điều quan trọng là người giáo dân cộng sự viên phải có can đảm trao đổi mọi tin tức mình biết cho giáo sĩ, cha sở của mình, ngay cả và nhất là những tin tức bất lợi. Phải dám chân thành nói sự thật. « Sống theo sự thật và trong tình bác ái » (Ep, 4,15). Đó là nguyên tắc căn bản của công giáo, mà các tín hữu phải áp dụng trong mọi trường hợp, nhất là với chủ chăn của mình.
Chỉ xin nhớ rằng mình là giáo dân, chẳng bao giờ nên đặt điều kiện, lấn quyền hay quyết định thay linh mục giáo sĩ của mình, cha chính hay cha phó. Mình chỉ có thể gợi ý để các ngài suy nghĩ ; hoặc trả lời, phân tích, khi các ngài hỏi.

A4. Tôn trọng những quyết định của cha sở và cá tính của ngài

Trong mọi công viêc quản trị, và hẳn nhiên là quản trị mục vụ, việc lấy quyết định là quan trọng hơn cả. Lấy quyết định là hành động đặc trưng của người quản trị. Ai có trách nhiệm thì người đó phải lấy quyết định. Những cộng tác viên có thể hỗ trợ tìm tin tức, giúp phương tiện, nhưng không bao giờ lấy quyết định thay cho người có trách nhiệm quản trị. Ngược lại, tôn trọng mọi quyết định của người trách nhiệm. Và nhất là tôn trọng cá tính của họ. Người trách nhiệm, họ có cái nhìn tổng thể của họ, có cái nhìn vấn đề của họ. Cha sở là người trách nhiệm giáo xứ và đoàn chiên. Giáo dân chỉ là cộng tác viên.
Nhà lý thuyết quản trị tâm lý Rensis LIKERT đã quan sát các nhà quản trị và đặc biệt cách họ lấy quyết định. Ông nhận thấy có 4 loại lấy quyết định, mà ông gọi là hệ thống quản trị : độc đoán, phụ quyền, tham khảo và tham dự. Các cách quản trị thường thay đổi tùy theo cá tính của mỗi người.
Những vị độc đoán thường chỉ tin vào mình mà chẳng tin vào ai. Họ tự ý lấy quyết định, chẳng cần hỏi ai. Họ ra lệnh và dùng kỷ luật bắt nhân viên theo. Trước những quyết định kiểu độc tài này, thường hay có một sự chống đối ngầm. Muốn hay không muốn, giáo dân chỉ có một đường hoặc theo, hoăc bỏ. Nhưng người giáo dân tích cực thì bền chí, biết cách gợi ý một cách khôn khéo, như kể những chuyện, hoặc cho những thông tin liên hệ đến những quyết định cùng loại. Người trách nhiệm có thể thay đổi quyết định, khi họ có thông tin chắc chắn hoặc mẫu chuyện đáng tin.
Những vị quyết định kiểu phụ quyền hoặc tham khảo, thì có theo ý các cộng sự viên nhiều hơn. Nhưng trách nhiệm của các cộng sự viên cũng tăng hơn và do đó họ phải trau dồi khả năng nhiều hơn.
Những vị quyết định kiểu đòi các cộng tác viên tham dự một cách tích cực để lấy quyết định là những vị có lòng tôn trọng và tin tưởng vào các cộng sự viên. Đây là trường hợp tốt để các giáo dân cộng tác viên biểu lộ khả năng của mình, hầu giúp các cha sở lấy được những quyết định khả thi và khả hiệu. Thường thường trong trường hợp này, các giáo dân cộng tác viên rất tích cực và đắc lực. Những cha sở biết quyết định theo kiểu tham dự này đôi khi bị những giáo dân xấu miệng chê là « nhu nhược, bất quyết ». Thực ra đôi khi cũng có những vị như vậy. Nhưng cũng có những vị ý thức và rõ rệt muốn dùng kiểu quyết định này. Ý thức hay không ý thức thì những cha sở biết quyết định kiểu tham dự thường sẽ là những vị đạt được nhiều thành công trong việc quản trị giáo xứ. Lý do đơn giản, vì các ngài biết kính trọng các giáo dân cộng sự viên, tin tưởng vào họ, biết để họ thi thố tài năng. Đo đó họ làm việc hết mình, rộng lượng đóng góp mọi cái họ có cho công việc chung. Và danh thơm của cha sở đồn ra, nhiều giáo dân khác cũng có thể cộng tác dễ dàng hơn. Một cha sở có giáo dân là có tất cả. Một cha sở thiếu giáo dân là thiếu hết.

A5. Luôn luôn liên đới bảo vệ cha sở

Các giáo sĩ ở Việt Nam, từ năm khởi đầu 1533 cho đến hôm nay, 2011, luôn luôn được tôn kính, nhưng hầu như liên tục, bất cứ lúc nào cũng bị nhiều khó khăn ; từ ghen tỵ, chỉ trích, chê bai, diễu cợt, vu oan ; qua đấu tố, chèn ép, bách hại ; đến tù đầy, đánh đập, giết hại. Cái đó đến từ bên ngoài, do những kẻ ghen ghét, chống đối đã vậy ; Mà đôi khi cả từ bên trong nữa, từ trong giáo xứ, từ trong giáo hội.
Cha Gioan Huệ và cha Bênêdicttô Hiền là hai giáo sĩ linh mục đầu tiên của Việt Nam được Đức Cha Lambert de La Motte phong chức ngày 08/06/1668 tại Ayuthia, Thái Lan. Cha Gioan Huệ đã nhiều lần bị một số người, vì không được chọn làm linh mục, ganh tỵ. Họ quậy phá : có lần họ tràn vào nhà thờ thóa mạ, chê bai cha, lần khác cướp dựt đồ lễ của cha, đánh gẫy tay cha ; thậm chí cái chết của cha có nhiều dấu vết rất đáng nghi rằng cha đã bị đầu độc.
Năm 1671, trong chuyến kinh lý Đàng Trong lần I, Đức cha Lambert de la Motte, một trong hai giám mục đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam, đã bị quan trấn Nhà Rù đầu độc, theo lời xúi dục của một người (mà theo mạch văn chắc hẳn là cha Acosta).

May thay, hầu như luôn luôn các ngài, tu sĩ linh mục cũng như giám mục, đã được các giáo dân che chở, bao bọc và bảo vệ. Trong một giáo xứ người ta ước lượng rằng đại đa số các giáo dân quí mến và bảo vệ các giáo sĩ linh mục. Thói quen này lộ rõ và ăn sâu vào tâm khảm giáo dân việt nam từ thời cấm đạo.

Sự bảo vệ có thể là tiếp đón trong cuộc sống thường ngày, đáp lời mời để tham dự mọi công việc cần thiết.
Sự bảo vệ còn có thể là canh phòng, giúp đỡ, để giáo sĩ tránh khỏi bị ức hiếp, khỏi bị hành hung,…
Sụ bảo vệ cũng có thể là che dấu, tìm chỗ cho ẩn thân, để khỏi bị truy nã, bắt bớ.
Sự bảo vệ còn có thể là ngăn cản kẻ thù, giúp đỡ giải quyết và chữa trị thương tích, bù đắp thiệt hại, giải oan hay minh oan khi bị vu khống.

Vậy, điều thứ 5 mà mọi giáo dân cần ghi nhớ và phải luôn luôn làm trong bất cứ hoàn cảnh nào là « luôn luôn liên đới bảo vệ linh mục giáo sĩ, cha sở của mình ».

LỜI KẾT

Năm nguyên tắc trên có thể đã được diễn tả một cách tổng quát hơn, rằng :
• Giáo dân tôn kính chức thánh và quyền lãnh đạo của giáo sĩ ;
• Tôn trọng các quyết định của ngài mà tích cực thực hiện ;
• Chấp nhận cá tính của ngài mà cộng tác chân tình ;
• Thành thực và kín đáo cộng tác trong mọi công việc và lãnh vực ;
• Và trung tín bảo vệ và liên đới che chở trong mọi khó khăn.

Một vài người khác đã nêu lên những công việc thường ngày khác, mà giáo dân cần thực hiện để cộng tác với giáo sĩ, cha sở :
• Cùng nhau thiết kế tiến trình làm việc ;
• Hỗ trợ tìm phương tiện tài chánh, nhân sự và vật liệu, dụng cụ ;
• Cùng nhau tiên liệu những khó khăn và nguy hiểm, hầu đồng tâm vượt thoát và tích cực đối phó ;
• Sẵn sàng thực hiện công việc ;
• Khôn khéo kiểm soát kết quả để duy trì và tu bổ công việc hay chuyển sang việc mới ;
• Và giúp làm một số công việc chuyên môn hành chánh và tài chánh.

Đọc được những kinh nghiệm của một số giáo dân, tuy trong những hoàn cảnh rất khác biệt, nhưng cùng chung một tâm tư là cộng tác tích cực và đắc lực với giáo sĩ và đặc biệt là cha sở, như vừa trình bày trên đây, chắc hẳn sẽ có những giáo dân hay giáo sĩ có những kinh nghiệm khác. Xin quí vị trao đổi và chỉ dậy thêm, để chúng ta cùng tu sửa, cùng khai triển thêm và cùng cải tiến hơn.
Giáo dân phải làm sao để có thể cộng tác tích cực và đắc lực với giáo sĩ, đặc biệt là cha sở của mình ?
Cha sở phải làm sao để được giáo dân cộng tác tích cực và đắc lực ?

Bảo Lộc, ngày Lễ Thánh Antôn Nguyễn Đích, Trùm họ
12 tháng 08 năm 2011
Trần Văn Cảnh
canhparis@gmail.com