Trước khi rời thành phố, Văn gọi Trung và được bạn đồng ý cho một cái hẹn: "Cậu đến sau 10 giờ sáng và trước 11 giờ nhé. Buổi trưa, mình có giờ kinh nguyện cho bữa ăn.".

Quãng đường 30 cây số không dài, nhưng lưu lượng xe khá đông, nên Văn giục chú em đi từ sớm. Đến cổng đền, trong khi người em dắt xe xuống hầm gửi, Văn nói: - Anh đi lễ sớm rồi, chú vào dự lễ rồi gặp sau nhé! Người em ghé tai Văn: - Có bọn la. ngoài cổng đấy.

Văn gật đầu, anh ghé qua hang đá viếng Đức Mẹ, rồi vào nhà thờ bằng cửa chính. Chấm nước phép, giơ tay làm dấu thánh giá, Văn tiến lên nhưng không vào các hàng ghế, mà dùng cửa hông đi ra. Bên ngoài, không khí buổi sáng nhè nhẹ hương thơm của các loài hoa khoe sắc trong ánh bình minh. Lần theo lối cũ, lòng Văn chợt chùng xuống và chìm trong kỷ niệm.

Ngày còn bé, nhóm thiếu nhi Công giáo của Văn có lần tham dự một buổi tĩnh tâm ở đây. Cha Khâm, thay vì giảng thuyết trong nhà thờ, Cha dắt bọn trẻ ra ngoài hoa viên trò chuyện. Bài chia xẻ của Cha khá dài, Văn không nhớ hết; nhưng có một chi tiết, mà cho đến bây giờ, đã hơn bốn mươi năm, Văn chẳng hề quên. Cha ngắt một bông hoa bé nhỏ, nói cho bọn Văn nghe sự cấu tạo diệu kỳ của thiên nhiên, từ hình dạng, màu sắc, mùi hương... Cha kết luận:

- Đấy các con xem, một cánh hoa dại mà có biết bao kỳ công của tạo hóa, thế thì con người của chúng ta do Chúa dựng nên thật cao quý và linh thiêng dường nào; bởi vì mỗi chúng ta đều mang hình ảnh của Ngài. Các con hãy trân trọng lấy bản thân, và góp phần bảo vệ sự sống nhé!

Nhìn dáng Cha ngồi trên phiến đá, Văn thấy Cha như một tiên ông, hay là một triết gia. Lúc ấy, còn nhỏ, nên Văn chưa chiêm nghiệm được hết những điều Cha nói. Cha cởi mở, nhưng nét mặt nghiêm nghị, khiến bọn Văn chỉ dám ngưỡng mộ từ xa. Một lần khác, Văn được đi cùng nhà Dòng ra Vũng Tàu hành hương ở Bãi Dâu. Khi xuống biển tắm, Văn thấy Cha Khâm bơi ra thật xa, và các Cha, các Thầy khác chạy nhảy, nô đùa trên bãi cát với làn sóng biển.

Văn thích quá, cũng vẫy vùng trong lòng nước mặn. Ngay lúc này đây, Văn cảm thấy sự sống quý giá thật, và là một ân huệ của Thượng Đế thương ban cho loài người. Sau này Văn theo học Triết, rồi Thần học giáo dân, rồi trở thành một người pro-life triệt để. Chả thế mà, khi lập gia đình, Văn có nhiều con. Đôi khi, cuộc sống với nhiều khó khăn chồng chất cũng làm vợ chồng Văn bở hơi tai, nhưng họ vẫn cậy trông vào Chúa, và đoan quyết con cái là ân huệ Chúa ban cho, con cái là niềm vui của cha mẹ.

Thánh lễ đã bắt đầu, Văn không vào tu viện theo cổng chính, mà lách theo một lối nhỏ, ngay cạnh vườn hoa. Mấy mươi năm trước, khi đến thăm Cha Hườn, khi ngài ở trại cải tạo về, Văn cũng mang tâm trạng rụt rè, lo sợ; vì phía ngoài, xe công an tuẫn tiễu rầm rộ, xét hỏi lung tung. Cha cầm tay Văn khẽ nói:

- Con đi bằng an. Cha sẽ cầu nguyện cho con.Cầu nguyện cho Cha nhé! Văn sụt sùi, nhưng Cha dặn: - Can đảm lên, và vững tin vào Chúa. Thế rồi, Văn đi biền biệt, đời cơm áo làm chàng thanh niên ngày xưa già cỗi và nghẽn lối quay về. Những năm sau này, được biết nhóm bạn cũ vẫn tổ chức họp mặt nhân lễ quan thày của Cha hàng năm, Văn khâm phục quá đỗi. Họ là chứng nhân can đảm, Văn ngưỡng mộ họ vô cùng.

Đến sân tu viện, Văn bước thẳng vào phòng khách, đưa ngón tay nhấn chuông theo ký hiệu cạnh tên của bạn. Anh thao tác một cách thành thạo, theo ký ức ngày nào. Cảnh cũ vẫn như xưa, chỉ có xã hội đổi thay, và sự kế tục qua những thế hệ con người. Anh ngừng bấm chuông, ngồi xuống ghế chờ. Bất giác, nhìn sang gian chính, thấy bạn đang ngồi hơi cúi đầu, nghe một con chiên nói. Mái tóc bạc của Trung và đôi kính cận làm lòng Văn se sắt. Chúng mình già hết rồi, bạn ta ơi !

Nghe tiếng chân tiến đến, Văn mở mắt ra, thấy Trung tươi cười đưa tay bắt. Văn đứng dậy:- Chào Cha...con mới đến.

Trung đáp: - Tớ đâu có con lớn như vầy nhỉ? Đôi bạn cười vang một góc phòng.

Trung mời: - Sang đây, khách quý phải tiếp ở "chính điện" chứ ! Gian giữa không rộng hơn hai gian bên cạnh bao nhiêu, nhưng nhìn thẳng ra khoảng sân rộng, qua cửa chính.Phòng khách tu viện, Văn đã đến nhiều lần, từ khi còn là một cậu bé giúp lễ, qua đến tuổi thiếu niên và thanh niên; rồi tiếp đến thời lập gia đình, tuổi trung niên, và bây giờ... những năm tháng cao niên đà ló rạng.

Bất giác, Văn nhớ đến một đoạn văn, anh đọc được khi làm báo thời trung học: "Người ta có một thời để yêu, và một thời để chết. Và, nếu hoàng hôn khi tắt lịm, còn để lại những ráng chiều nhè nhẹ trên cành cây khô trụi của mùa đông; thì, đời người cũng có những dư âm vang vọng một thời trong ký ức. Hãy trao nhau kỷ niệm, để khỏi tiếc nuối khi cuộc đời bắt đầu hoàng hôn.".

Đang miên man suy nghĩ, Văn ngửng lên để nghe Trung nói: - Xin lỗi, để cậu phải chờ. Bà lão vừa rồi đến xin khấn, muốn xưng tội luôn, và mình ban phép lành cho bà. Nhìn Văn, Trung hỏi: - Cậu thế nào rồi?

Văn đáp: - Vẫn buồn, nhưng nói chung được an ủi nhiều. Này nói thật nhá, có lúc mình cảm thấy đức tin chao đảo đấy. Sao Chúa thử thách mình quá vậy. Nhiều khi...mình chán nản hết sức.

Trung gật gù: - Mình hiểu, những việc xảy ra trong tự nhiên, khó mà tìm được câu giải đáp theo ý nghĩa siêu nhiên. Nhưng Thiên Chúa có chương trình của Ngài, khó có thể lý giải theo cách nhìn, cách nghĩ của người đời chúng ta.

Văn ngồi lặng yên, anh suy nghĩ về cái chết của con trai, cái chết của mẹ anh, cách nhau chưa đẫy một tháng; về những xui xẻo khác đến với gia đình anh liên tiếp trong năm nay. Anh không dám oán trách bề trên, nhưng thấy Thượng đế bất công quá không, khi trao cho gai đình anh những chén đắng xé lòng. Văn hỏi bạn: -Cậu có đọc Léon Tolstoy? Trung gật đầu. Văn tiếp: - Tớ nhớ một câu, trong "Cái chết của Ivan Ilyich": “Cuộc đời là một chuỗi dài những khổ đau, những sự khổ đau ghê gớm nhất”. (*)

Trung lái sang đề tài khác: - Thôi, xin cậu đừng bi lụy quá như vây. Chỗ cậu ngồi bây giờ, ít phút trước có một bà lão ngồi. Hôm qua, có người khác ngồi. Khoảng mấy tháng trước, có một ông lớn cấp Bộ ngồi đó "đàm đạo" với tớ. Ít hôm sau, một vị Vụ trưởng an tọa cũng ngay chiếc ghế đó "đối thoại" với tớ. Lát nữa, khi cậu về rồi, sẽ có ai đó thay vào vị trí này. Rồi, ngày mai, tớ cũng chưa biết những ai sẽ đến đây; những gì sẽ xảy ra trong tương lai nữa cơ mà ! Giòng đời trôi vẫn trôi, từ khởi thủy cho đến vô cùng, từ alpha đến ômega, bộ cậu không nhớ sao?

Trung kéo Văn đứng dậy, bước ra sân. Mấy em bé vai mang bị, tay cầm bọc rảo qua, chúng cất tiếng: - Con chào hai Cha ạ ! Các em vẫn rảo chân bước dưới bóng mát của hàng cây cao, chuyện trò ríu rít. Trời đã rực nắng, nhưng vẫn có vài cơn gió thổi qua. Văn cảm thấy vui lây với các em, nhất là khi phải đây là lẫn đầu, thiên hạ "bé cái lầm" về Văn. Có lần, Văn dự một khóa tĩnh tâm, đang giờ giải lao, Văn đang thơ thẩn đi bách bộ, thì có hai anh chị chạy lại: - Chúng con chào Cha, Cha còn nhớ hai con không? Dạo ấy, Cha làm phép cưới cho tụi con đấy. Văn bị "lên chức" bất ngờ, nhưng cũng tìm lời cám ơn đôi bạn, và xin thông cảm vì anh không phải là ông linh mục đó. Có lẽ người giống người chăng? Lẫn khác, đưa mẹ đi hành hương. Trời nắng, mẹ Văn thèm ăn kem; Văn ghé vào một gian hàng mua kem lạnh cho mẹ. Khi trả tiền, cô bán hàng nhất định không chịu lấy, cô nói: - Con biếu bà cố thôi mà, Cha không phải quan tâm.

Văn hỏi: - Những em này là ai vậy? Trung đáp: nhóm đồng nát, chúng nó hay vào đây nghỉ mệt, chọn bóng mát để soạn đồ. Được cái làm xong thì dọn dẹp sạch sẽ, và coi bộ cũng lễ phép lắm. Văn thắc mắc: - Đồng nát? Trung cười: - À, ngày xưa thời chúng mình gọi là ve chai ấy mà !

Văn lặng thinh. Anh cảm thấy xấu hổ với chính mình và cám cảnh cho hoàn cảnh của các em. Ngày xưa, bố chết sớm, Văn cũng là một đứa bé nghèo đi chân đất, cắp từng thúng xoài vẹo xương sườn đi rao bán. Ngày lại ngày, sống trong cảnh túng thiếu, nhưng không bao giờ bỏ lễ, và siêng năng cầu nguyện. Phải chăng, Chúa đã nhậm lời, nên ban cho Văn và gia đình nhiều ơn cần thiết. Đến lúc gặp cơn thử thách, đâu phải là lý do để anh buông xuôi tất cả. Anh liên tưởng đến truyện Thánh Gióp (**), và thấy lòng vững tin trở lại.

Quay lại phòng khách, Trung kín đáo nhìn đồng hồ; Văn hiểu ý: - Vài phút nữa, mình sẽ chia tay nhau, chẳng chỉ xin bạn cầu nguyện cho mình, và mình hứa cũng sẽ cẫu nguyện cho bạn. Trung gật đầu: - Ừ, nhớ cầu nguyện cho nhau nhé ! Trung định đứng dậy, nhưng Văn tiếp lời: - Trung này... Trung nhìn bạn: - Cậu định nói gì nữa vậy. Vẫn hít mạnh một hơi đầy ắp lồng ngực, rồi thở ra từ từ: - Cho mình xưng tội nhé ! - Được, cậu xét mình đi.

Trung vào phòng, và trở ra với dây quàng trên cổ, ngồi xuống, khẽ cúi đầu nghe Văn nói. Bí tích hòa giải diễn ra như hình ảnh hai người bạn đang tâm sự. Những gì cần nói, Văn đã nói ra và ký thác vào tình yêu Thiên Chúa, tin tưởng vào tình bạn chân thành. Ngoài sân, nắng đã lên cao mang ánh sáng ngợp trời. Cả một vùng không gian yên tĩnh lạ thường. Bên ngoài bức tường tu viện, giòng đời vẫn trôi theo lưu lượng của những loại xe.

* (Life, a series of increasing sufferings…, the most fearful sufferings - page 126 - "The Death of Ivan Ilyich" Léon Tolstoy).

** Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Ðông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng!" Lần nào ông Gióp cũng làm như thế.
Vậy một ngày kia, các con cái Thiên Chúa đến trình diện Ðức Chúa; Xa-tan cũng đến trong đám họ. Bấy giờ Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi từ đâu tới?" Xa-tan thưa với Ðức Chúa: "Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây." Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!"Nhưng Xa-tan thưa lại với Ðức Chúa: "Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt!" Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ðược, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới." Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan Ðức Chúa.
Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." 17 Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, 19 thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay."
Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Ðức Chúa đã ban cho, Ðức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Ðức Chúa!"
Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.