Liên đới với những ki-tô-hữu bị áp-bức và bách-hại trong thời-đại ngày nay

LTS. Nguyệt san Dân Chúa cho đăng văn bản chuyển dịch (do Liên Đoàn CGVN tại Đức) tài liệu chính thức của Văn Phòng Hội Đồng Giám Mục Đức, liên quan đến “Ngày cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Việt Nam” được ấn định vào ngày 26.12.2002 trên toàn nước Đức. Ngoài ra, theo tin tức nhận được, vào ngày 9.1.2003 đã có cuộc họp báo chính thức của Văn Phòng Hội Đồng Giám Mục Đức tại Frankfurt.

Vẫn còn chuyện áp-bức và bách-hại các giáo-hội, các cộng-đoàn kitô-hữu và cá-nhân tín-hữu tại nhiều nơi trên thế-giới. Tại Việt-nam, Hồi-quốc và Trung-hoa những truy-bức đó là những vi-phạm tự-do tôn-giáo có hệ-thống. Ở những nơi khác, các tín-hữu dấn-thân cho công-bằng và hoà-bình bị đe-doạ, phân-biệt đối-xử và có khi bị giết. Những bạo-hành này nhiều khi không do chính-quyền, nhưng được dấy-động từ những nhóm xã-hội quá-khích. Chúng ta, kitô-hữu tại Cộng-hoà Liên-bang Đức, đã trải qua những giai-đoạn truy-bức dưới thời Quốc-xã và Cộng-sản. Chúng ta vì thế có trách-nhiệm phải liên-đới và nâng-đỡ những người anh-em của chúng ta tại những nơi khác đang bị đàn-áp “vì đức Kitô”, không những bằng lời cầu nguyện mà cả bằng dấn-thân tích-cực cho niềm-tin tôn-giáo được tự-do thể-hiện trên khắp thế-giới.

Với bản-tin hàng năm này, Hội-đồng giám-mục Đức năm nay đặc-biệt mời gọi anh chị em hướng về những Kitô hữu bị bách-hại, đặc-biệt tại Việt-nam.

“Đức tin của con không thể là vật đổi-chác"

Giáo-hội việt-nam vẫn hiên-ngang sống-động dù với thòng-lọng của nhà-nước

“Thưa Đức Thánh Cha, con thấy như mình rớt từ trời xuống”. Tổng-giám-mục Nguyễn Văn Thuận giật-mình ngỡ-ngàng khi nghe Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II mở lời: “Trong năm đầu của ngàn năm thứ ba này phải có một người Việt giảng phòng cho giáo-triều Rôma”.

Vị tổng-giám-mục vui tính và khiêm-tốn thú thực hơi lo trước nhiệm-vụ được giao. Vì thật ra, 13 năm tù-đày, trong đó 9 năm bị biệt giam trong phòng tối, đã khiến ngài không còn thói-quen “nói chuyện khoa-học và thần-học”. Đức Thánh Cha hỏi: “Thế cha có sẵn đề-tài nào trong đầu không”? Tgm. Thuận đáp: “Có lẽ con có thể nói về hi-vọng”?. “Thì cha cứ trình-bày về cuộc sống chứng-nhân của cha”, Đức Thánh Cha trả lời. Và đức cha Thuận, người vẫn được xem như là một “vị tử-đạo sống”, đã làm cho Đức Thánh Cha và mọi người nghe xúc-động mạnh vì những câu chuyện sống-động về kinh-nghiệm riêng-tư của mình, mà ngài thỉnh-thoảng xen-kẽ vào trong các bài suy-niệm tu-đức trước giáo-triều.

Năm 1975, cộng-sản miền Bắc chiến-thắng. Vị giám-mục trẻ bị bắt. Ngục-tù cộng-sản làm ngài nhớ lại những chuỗi đau-thương của giáo-hội mình: “Tôi nhớ đến những đợt bắt đạo, những cái chết, những cuộc tử-đạo suốt dọc dài 350 năm lịch-sử. Quê-hương tôi đã cống-hiến cho giáo-hội biết bao nhiêu là anh-hùng tử-đạo vô danh: có tới 150 ngàn vị”.

Bị bách-hại ngay từ đầu

Giám-mục Thuận nhớ lại những gì cố nội đã kể cho mình nghe: “Nhiều lần cố kể cho tôi nghe thảm-cảnh phân-sáp của gia-đình. Trong lúc bố bị tống ngục thì con cái bị tách mỗi đứa mỗi nơi, bị đưa vào ở trong các gia-đình không công-giáo để chúng dần mất đi ý-thức về đạo. Và như thế, cố nội, lúc đó là một thiếu-niên 15 tuổi, mỗi ngày phải chạy bộ 30 cây số để mang chút cơm và muối tới cho bố trong ngục, phần cơm ít-ỏi mà cố đã nhận được từ gia-đình nơi cố ở và đã chắt-chiu để dành phần cho bố. Ba giờ sáng thức dậy, đôn-đáo chạy, để còn về kịp ra đồng với mọi người”. Ông ngoại ngài là người duy nhất sống-sót, khi cả giáo-xứ bị thiêu sống trong một nhà thờ vào năm 1885. “Tôi tin rằng”, giám-mục Thuận tiếp “sự trung-thành của Giáo-hội Việt-Nam nẩy-sinh từ máu của những vị tử-đạo đó (...). Các anh-hùng tử-đạo đã dạy cho chúng tôi biết nói “vâng”: Chữ “vâng” vô điều-kiện và vô giới-hạn trước tình yêu của Chúa. Nhưng các vị tử-đạo đồng thời cũng dạy chúng tôi nói “không” trước những quyến-rũ, trước những thỏa-hiệp, những bất-công, cho dù để đổi lấy mạng sống mình hay để mua lấy chút yên phận cho cá-nhân”.

Bắt đạo ở Việt-nam gần như xẩy ra ngay từ khi giáo-hội Chúa được khai-sinh trên miền đất này, vào năm 1533. Các nhà truyền-giáo từ Bồ-đào-nha, Tây-ban-nha và Pháp đi theo tàu buôn tới đây. Có những thời-gian các vua chúa xứ này dung-dưỡng họ để đổi lấy những thuận-lợi trong việc buôn-bán, nhưng rồi lại xuống lệnh truy-nã. Cho tới năm 1663, tại miền Bắc (Đàng Ngoài) đã có 200 ngàn tín-hữu, chiếm 10% tổng-số dân lúc đó. Những cuộc bắt đạo thảm-khốc nhất xẩy ra trong thế-kỉ 19. Trong thời Pháp-thuộc (1887 tới 1954) giáo-hội Công-giáo tìm được yên-ổn. Tuy nhiên cũng vì được sự giúp-đỡ của Pháp nên giáo-hội lại bị phong-trào cách-mạng do Hồ Chí Minh thành-lập (1930) xem là thành-phần hợp-tác với ngoại-bang.

Di cư tị nạn vào miền Nam

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ (1954) Việt-Nam bị chia đôi. Miền Bắc trong tay cộng-sản. Miền Nam thuộc phía quốc-gia. Gần 800 ngàn tín-hữu lúc đó đã tị-nạn vào miền Nam, có nơi toàn-bộ cả giáo-xứ lẫn cha-xứ với thánh-giá hoặc tượng Đức Mẹ dẫn đầu kéo nhau đi. Cái lo-sợ của họ có căn-cứ. Là vì sau khi lên cầm quyền, cộng-sản đã đẩy dần giáo-hội ra khỏi trường học, nhà thương và các cơ-quan công-cộng khác và tước-đoạt hầu hết tài-sản của giáo-hội. Chỉ còn lại một số rất ít nhà thờ được phép hành lễ, và trong một thời-điểm nhất-định do chính-quyền ấn-định. Cho tới năm 1973 không được phép chiêu sinh làm linh-mục.

Trong miền Nam, khác hẳn. Năm 1955 ông Ngô Đình Diệm, công-giáo, lên cầm quyền. Nhưng xem ra giáo-hội phải gánh chịu hậu quả của món nợ nặng nề này, khi ông Diệm cố-gắng tìm-kiếm sự hỗ-trợ đặc-biệt từ phía công-giáo cho đường-lối cai-trị độc-tài của ông. Sau khi ông Diệm bị ám sát vào năm 1963, giáo-hội vẫn tiếp-tục phát-triển. Nhưng rồi cuộc chiến việt-nam lần thứ hai lại bùng-nổ, đưa đến chiến-thắng của cộng-sản vào năm 1975 và sự thống-nhất đất-nước không lâu sau đó.

Khi cuộc chiến sắp chấm dứt, Đức Cha Nguyễn Văn Thuận được cử làm Tổng-giám-mục với quyền kế vị Sài-gòn, thủ-đô của miền Nam. Mấy tháng sau, ngài bị bắt. “Tôi hãy còn là một giám-mục trẻ, với 8 năm kinh-nghiệm mục-vụ. Tôi không tài nào ngủ được. Ý-nghĩ phải xa giáo-phận, bỏ lại biết bao công-trình cho Chúa đang dở-dang, xâu-xé ruột gan tôi”.

Nỗ-lực phân-hoá giáo-hội thất-bại

Trường học, các cơ-sở xã-hội của giáo-hội tại miền Nam bị chiếm-đoạt, đất-đai bị tịch-thu. Các nhà truyền-giáo ngoại-quốc bị đuổi khỏi nước. Hàng trăm linh-mục vào tù. Chủng-viện phải đóng cửa. Các dòng nữ bị phân-tán và bị đẩy ra lao-động không công tại các nông-trường hoặc các các vùng “kinh-tế mới” cằn-cỗi. Từ năm 1975 tới 1982 có lẽ có hơn 60 ngàn người bị xử tử. Các trại tù “cải-tạo” không còn chỗ chứa. Nhà-nước tìm cách bóp nghẹt mọi nỗ-lực vươn lên của giáo-hội. Trong vụ phong thánh năm 1988 cho 117 vị tử-đạo, mọi sinh-hoạt mừng lễ tại Việt-nam bị cấm-chỉ. Dù vậy, mọi nỗ-lực phân-hóa giáo-hội rập theo khuôn mẫu Trung-hoa để lập ra “Giáo-hội yêu nước” gồm những tín-hữu sẵn-sàng thoả-hiệp với nhà-nước, cho tới nay đã thất-bại. Kí-giả Peter Scholl-Latour, người nhiều chục năm miệt mài theo-dõi tình-hình Việt-nam, đã ghi lại thật cảm-động sức đề-kháng của người Công-giáo Việt-nam trước sợi dây thòng-lọng siết chặt của cộng-sản.

Gần một triệu người, trong đó có nhiều tín-hữu công-giáo, phải liều mình vượt biển đông lìa quê-hương trên những con thuyền tí-hon. Nếu không bị bão cuốn đi hoặc chết vì đói khát, nhiều “thuyền-nhân” cũng bị hải-tặc cướp, hãm-hiếp hoặc giết chết. Hơn 11 ngàn người đã được tàu nhân-đạo “Cap Anamur” vớt, trong số đó nhiều người đã tìm được quê-hương thứ hai tại Cộng-hoà Liên-bang Đức.

Giám-mục Nguyễn Văn Thuận lúc đó đâu đã có thể mơ rằng bước vào ngàn năm thứ ba, với tư-cách chủ-tịch Ủy-ban Công-lí Hoà-bình, mình sẽ giảng phòng cho Đức Thánh Cha ở Rôma. Chính-quyền đã thành-công biệt-giam ngài, đến nỗi ngay giáo-dân trong giáo-xứ cũ của ngài cũng tưởng rằng ngài đã chết. “Trong tù thời-gian trôi chậm”, vị giám-mục kể trong bài giảng, “nhất là trong lúc biệt-giam. Quí vị cứ tưởng-tượng phải im-lặng suốt một tuần, rồi một tháng, hai tháng... đã dài kinh-khủng! Nhưng nếu phải im-lặng cả năm thì cả là thiên-thu. Có những ngày tôi đau, rã ra không còn đủ sức, ngay cả để cất lên một lời nguyện”.

Từ bách-hại đến kiểm-soát toàn diện

Việc trả tự-do và trục-xuất Đức cha Nguyễn Văn Thuận năm 1988 đánh dấu bước đầu chủ-trương nới lỏng của chế-độ toàn-trị đối với giáo-hội. Khối Đông Âu tan-rã, kinh-tế quốc-gia kiệt-quệ cũng như cuộc toàn-cầu-hoá kinh-tế bắt-buộc Đảng cộng-sản phải đề ra một thứ “Petrestrojka” kiểu Việt-nam, gọi là “chính-sách đổi mới”. Đặc-biệt vì Hoa-kì, đối-tác kinh-tế quan-trọng nhất của Việt-nam, luôn nhắc-nhở về tự-do tôn-giáo, nên kể từ đầu thập niên 90 nhà cầm quyền cộng-sản Việt-nam đã phải chấp-nhận sự có mặt của các tôn-giáo, tránh những hành-động chống tôn-giáo một cách lộ-liễu, đồng thời cho phép các tôn-giáo thực hiện một số sinh-hoạt nào đó, nhưng song-song tìm mọi cách kiểm-soát toàn-diện các giáo-hội.

Một sự-kiện làm nhiều người ngạc-nhiên là giáo-hội Công-giáo Việt-nam, sau nhiều năm bị bách-hại đã không bị thu nhỏ lại và mất đi sức sống. Christian Dhavernas thuộc cơ-quan cứu-trợ “Giáo-hội trong nguy-khó” (Kirche in Not/Ostpriesterhilfe) tường-trình: “Giáo-hội Việt-nam ngày nay chứng-tỏ một sức sống mãnh-liệt, rõ nét nhất là các nhà thờ đầy ắp, rất nhiều ơn gọi linh-mục tu-sĩ, nhiệt-vọng truyền-giáo và quan-tâm tới vấn-nạn xã-hội của con người”. Chỉ 5 năm vừa qua số nam tu tăng 78%, nữ tu tăng 51%, tổng-cộng có tới gần 10 ngàn người.

Dịp lễ kỉ-niệm 200 năm Mẹ La-vang năm 1998, dù những cản-ngăn từ phía nhà-nước, đã có hàng trăm ngàn tín-hữu lũ-lượt kéo về.

Đàn-áp của nhà-nước

Nhà-nước tránh những đàn-áp thô-bạo và lộ-liễu đối với giáo-hội để tránh chống-đối từ các quốc-gia đối-tác kinh-tế. Điều này không có nghĩa là các giáo-hội tại Việt-nam không bị nhà-nước đàn-áp một cách qui-mô. Chủ-trương của chính-quyền là làm sao để cuộc sống tôn-giáo không thoát ra khỏi khuôn-khổ ấn-định của họ. Một số nhà thờ và giáo-xứ trong các thành-phố lớn, nơi vẫn được con mắt quan-sát của ngoại-quốc quan-tâm, thực sự được tự-do dâng lễ. Các bài giảng phải qua kiểm-duyệt trước. Nhưng những sinh-hoạt tôn-giáo khác ngoài khuôn-khổ các thánh-lễ hàng tuần được phép đó, phải xin phép chính-quyền địa-phương.

Tại các tỉnh, nhất là ở những vùng núi phía bắc và cao-nguyên trung-phần, tình-trạng thật tệ-hại: nhà-nước vẫn tiếp-tục bóp nghẹt mọi sinh-hoạt tôn-giáo. Cụ-thể nhất là các biện-pháp đàn-áp thô-bạo của chính-quyền đối với dân-tộc H”mông, dân-tộc mà trong mấy năm qua có nhiều người vào Tin lành hoặc Công-giáo. Vì ước muốn tự-trị của họ và quá-khứ cộng-tác với Pháp lẫn Mỹ nên các dân-tộc thiểu-số bị chính-quyền coi là thành-phần nguy-hiểm cho “an-ninh quốc-gia”. Các sắc-tộc “thiểu số” này, từ hàng trăm năm qua, đã bị người kinh dồn phải bỏ miền bờ biển di lên vùng núi cao cằn-cỗi.

Các dữ-kiện dưới đây nói lên thực-chất tự-do tín-ngưỡng:

Chỉ có 6 chủng-viện được phép mở. Mỗi giáo-phận được phép chiêu-sinh tối-đa 10 người cho mỗi hai năm, mặc dù số người muốn đi tu nhiều gấp bội.

Mỗi chủng-sinh, trong suốt quá-trình được nhận vào trường cho đến lúc nhận tác-vụ, phải trải qua nhiều lần xét-duyệt “quan-điểm chính-trị”. Nếu may-mắn vượt qua được các rào cản đó, lại phải chờ phép của chính-quyền trong việc bổ nhiệm về một giáo-xứ.

Nhiều giám-mục đã quá già, vì không có người thay-thế. Vatican đã đề-nghị nhiều vị, nhưng luôn gặp phải sự cấm-cản của nhà-nước. Vì thế mà nhiều giáo-phận không có người cai-quản trong nhiều năm. Cụ-thể, toà giáo-mục Hưng-hoá tới nay vẫn trống ngôi.

Mỗi cuộc họp tôn-giáo, việc du-lịch của giám-mục, xây-dựng hoặc sửa nhà thờ, tất đều phải xin phép, mà có khi phải đợi nhiều năm mới có giấy phép.

Chỉ một số ít sách đạo được phép in-ấn tại một số nhà in nhất-định, sau khi qua kiểm-duyệt cẩn-thận.

Các sinh-hoạt xã-hội của giáo-hội cũng phải xin phép. Những vấn-nạn xã-hội lớn của đất-nước - tham-nhũng, dân bỏ quê vào thành-phố, dịch liệt-kháng lan rộng, nghiện-ngập, phá thai - đã buộc chính-quyền phải nới lỏng cho giáo-hội, đặc-biệt ở miền Nam, trong các công-tác nhân-đạo xã-hội để góp phần xoa dịu nỗi thương-đau. Tùy vào thiện-ý của các cán-bộ địa-phương mà giáo-hội có thể mở các nhà trẻ, các lớp tiểu-học hoặc nhà nuôi trẻ bụi-đời. Các chị Vinh-sơn đã có thể lập ở gần Sài-gòn một trung-tâm cho bệnh-nhân liệt-kháng (AIDS). Một linh-mục ở Sài-gòn, người mà có tới bảy ông bí-thư quận huyện của Đảng cộng-sản tới gõ cửa để than-thở về nạn nghiện-ngập, trong số đó hầu hết là con trai con gái của các quan cộng-sản, cho hay: “Trước đây họ tránh chúng tôi như quỉ tránh nước phép”. Dù vậy, các trung-tâm xã-hội này có thể bị rút giấy phép bất cứ lúc nào họ muốn. Và chính-quyền cũng không quên khôn-khéo tạo cho dân hiểu đây chỉ là sáng-kiến của cá nhân linh-mục này chứ không phải của giáo-hội Công-giáo.

Bao lâu còn đứng trong khuôn-khổ các loại xin phép chật-hẹp đó, các giáo-dân, linh-mục được yên thân. Nếu không hài-lòng mà bước ra đòi-hỏi tự-do tôn-giáo thực sự thì sẽ bị đàn-áp. Một thí-dụ đặc-biệt gia-trọng ở đây là linh-mục Nguyễn Văn Lý. Luật-lệ không rõ-ràng là chìa khóa mở cửa cho việc kết-án và bách-hại những tín-đồ các tôn-giáo dấn-thân. Việc khủng-bố âm-thầm với những cuộc khám nhà, điều-tra, buộc đổi chỗ ở hoặc quản-thúc tại gia đối với cá-nhân hoặc cả cộng-đoàn thường kéo dài nhiều năm.

Bổn-đạo Tin-lành cũng như giáo-dân các tôn giáo khác: Hòa-hảo, Cao-đài, đặc-biệt là Phật-giáo cũng bị những hạn-chế như người Công-giáo. Nhưng số-phận của họ bị nghiệt-ngã hơn, là vì nhà-nước đã thành-công lập được những giáo-hội quốc-doanh song-song. Chỉ những ai bằng-lòng đứng trong tổ-chức mới đó mới hưởng được chút tự-do tối-thiểu.
Dù có vươn tay kiểm-soát toàn-diện như thế, nhà-nước Việt-nam càng ngày càng gặp khó-khăn trong việc hạn-chế đời sống tôn-giáo. Jean Christian Dhavernas cho hay: “Trước cảnh suy-đồi đạo-đức và gia-tăng vấn-nạn xã-hội, càng ngày càng có nhiều quan-chức cộng-sản quay về cội-nguồn tôn-giáo và lắm khi đưa cả gia-đình trở lại với nhà thờ”.

Thương-mại quốc-tế, mạng-lưới thông-tin toàn-cầu, sự quan-tâm của UNO, của quốc-hội Âu châu, của các giáo-hội, các tổ-chức nhân-quyền là những sức-ép ngày càng tăng làm cho chính-quyền cộng-sản khó lòng giữ mãi chính-sách tôn-giáo của họ. Đầu năm 2000, lần đầu tiên đông-đủ giám-mục Việt-nam được phép đi dự ad limina. Hãng thông-tấn Fides của Vatican đã cho đó là “chỉ-dấu báo hiệu một tình-trạng khả-quan hơn giữa chính-quyền cộng-sản với giáo-hội Công-giáo”. Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II nhân dịp đó đã mời-gọi các giám-mục Việt-nam hãy động-viên tín-hữu mình, đặc-biệt là giới trẻ, hãy can-đảm dấn-thân chấp-nhận các thách-đố của Tin-mừng. “Gương sáng cho anh chị em là các Thánh tử-đạo Việt-nam. Các vị đã đi trước dẫn đường nên thánh cho anh chị em và máu của các ngài đã là hạt mầm sống mới cho cả đất-nước”.

Nuyễn Văn Thuận, một Người đã an nghỉ trong Chúa và Người năm 2001 đã được Đức Thánh Cha trao tước hồng-y, chẳng còn may-mắn thấy được tự-do tôn-giáo và tự-do rao-giảng đạo Chúa tại quê-hương mình. Vì “người anh-hùng rao-giảng Tin-mừng Đức Kit-tô” (Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II) đó đã lìa khỏi thế-gian vào tháng 9 năm nay. “Vui-sướng biết bao cho con”, hồng-y Thuận nói với Đức Thánh Cha, “khi gặp lại được các đồng-nghiệp, bạn-bè, thân-nhân. Dù vậy: Đức tin của con đã không thể là vật đổi-chác. Bằng mọi giá con không bỏ nó, cho dù để đổi lấy một cuộc sống thoải-mái”.

còn tiếp...