TIẾT D: CÁC NGUYÊN TẮC CHỌN TÊN CHÍNH

Như đã nói, bất cứ tiếng nào trong kho tàng ngôn ngữ Việt, có nghĩa hay vô nghĩa, cũng có thể là tên người Việt Nam. Tuy nhiên, khi chọn các từ ngữ làm tên chính, người ta thường tuân theo bốn nguyên tắc chính sau đây:(1) Chọn tên có ý nghĩa tốt đẹp, (2) Chọn tên để biểu lộ cha con cùng huyết thống, (3) Chọn tên để phân biệt thế hệ, (4) Chọn tên để ghi dấu biến cố xảy ra trong gia đình.

1. Chọn Tên Có Ý Nghĩa Tốt Đẹp: Khi đặt tên cho con, trừ các gia đình thiếu học, đều cố gắng chọn cho con cái tên để khi đọc lên vừa có ý nghĩa tốt đẹp, vừa có ý nghĩa hoa mỹ. Do vậy, nhiều gia đình đã phải vò đầu bứt tai cả tuần, tham khảo hết người này tới người nọ, mới chọn được cái tên vừa ý. Nhiều gia đình phải nhờ các bậc túc nho đặt tên mà họ gọi là tên chữ. Theo quan niệm thẩm mỹ, chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, các tên có ý nghĩa tốt đẹp, hoa mỹ được chọn trong các nhóm từ ngữ sau đây:

a. Nhóm từ ngữ chỉ nhân sinh quan và vũ trụ quan của Khổng Giáo:

- Tam tài: Thiên, Địa, Nhân.

- Tam đa: Phúc, Lộc, Thọ.

- Tam tòng: Phu, Phụ, Tử

- Tam cương: Quân, Sư, Phụ

- Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

- Tứ thời: Xuân, Hạ, Thu, Đông

- Tứ linh: Long, Ly, Quy, Phụng.

- Tứ hữu: Mai, Lan, Cúc, Trúc v.v…

b. Nhóm từ ngữ chỉ nét đẹp thể xác: Nét đẹp khả ái: Diễm, Lệ, Phương, Dung, Hằng, Tuyết, Thụy v.v…Tên nữ giới thường tuân theo nguyên tắc này.

c. Những từ ngữ chỉ nét đẹp tinh thần: Các tên được chọn là các tiếng diễn tả được ý niệm đạo đức đông phương: Đoan, Trang, Tuyết, Trinh, Hiền, Thương, Hùng, Dũng, Bảo, Trân, Trọng, Châu.

Muốn hiểu được ý nghĩa tốt đẹp của tên chính, đôi khi không chỉ căn cứ vào một yếu tố ý nghĩa của từ ngữ, mà còn phải để ý đến các yếu tố khác. Ví dụ có hai tên Phượng và Hoàng. Đọc hai tên này ta mới chỉ thấy đẹp, chưa thấy ý nghĩa thâm trầm. Nhưng nếu người ở vùng Quảng Nam, Đà Nẵng có tên này thì quả thực Phượng và Hoàng là hai cái tên vừa đẹp vừa thâm thúy nhất. Nhà văn Trà Lũ viết về chuyện này như sau:

Ông có người cháu họ lấy vợ năm ngoái, năm nay đẻ một lúc hai đứa con gái. Anh này thỉnh ý ông ODP về việc đặt tên. Vì vợ nó người Đà Nẵng nên ông đề nghị đặt tên là Phượng và Hoàng. Ông giải thích như thế này: một thắng cảnh nổi tiếng miền Trung là Ngũ Hành Sơn. Thắng cảnh này nằm trong xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, bây giờ là một quận của ngoại ô Đà Nẵng. Chân dẫy Trường Sơn chạy qua vùng này ăn ra tận biển, là nơi hội tụ quây quần của loài chim quý phượng hoàng. Phượng hoàng ở đây có bộ lông màu rất đẹp, đầu vàng có mào tím, mỏ ngắn có màu đỏ, cổ chim có khoang xanh, lồng ngực vàng ửng, cánh chim có đốm trắng, đuôi chim rất dài và có màu ngũ sắc. Phượng hoàng thích làm tổ trong các ghềnh đá chênh vênh sườn núi. Tổ chim bao giờ cũng làm bằng các loại hoa thơm đã khô và quay về hướng nam để hưởng gió mát mùa hè và tránh gió bấc mùa đông.

Phượng hoàng líu lo với nhau nghe êm ái như một dòng suối. Tiếng chim hót buổi sớm mai, réo rắt dìu dặt như một màn hợp tấu lớn, vọng vào vách núi, khi xa khi gần. Du khách nghe tiếng chim tự nhiên thấy lòng mình thanh thản lạ lùng. Chim trống và chim mái kết bạn mùa xuân, và đẻ con mùa hạ. Sau 14 ngày chim con mới mở mắt. Đây là thời gian thử lửa. Khi chim con vừa mới mở mắt nhìn đời, thì cha mẹ chim tha hết đàn con ra một ghềnh đá, đặt chúng thành một hàng dài quay đầu về phía mặt trời đang mọc. Rồi cha mẹ chim hót lên một hồi líu lo, chừng như dậy con bài học thứ nhất. Hót xong thì cha mẹ chim quan sát từng đứa con. Đến khi mặt trời chiếu ánh rực rỡ trên biển cả, đứa con nào mở mắt nhìn mặt trời thì cha mẹ chim đặt chúng ra một chỗ riêng. Những đứa con nào sợ hãi mặt trời, mắt nhắm nghiền và cúi xuống thì cha mẹ chim liền vất ngay xuống biển vì cho rằng những đứa này hèn nhát, yếu đuối. Sau đó cha mẹ chim lại hót líu lo một hồi nữa như ca ngợi những đứa con can đảm, xứng đáng sống cuộc đời tung hoành của dòng họ Phượng. Rồi cha mẹ sung sướng tha những đứa con này về tổ để tiếp tục chăm nuôi cho đến lớn.

Bởi vậy chim phượng hoàng của Ngũ Hành Sơn là biểu tượng lòng can đảm, đẹp tốt và thông minh. Người mẹ gốc Ngũ Hành Sơn, quê hương của loài chim quý Phượng Hoàng lấy hai tiếng Phượng Hoàng đặt tên cho hai đứa con là hay quá sức và hợp lý hết sức.


Tuy nhiên, những tên đẹp đẽ trên sẽ trở thành đề tài đàm tiếu, mỉa mai nếu ý nghĩa tên trái ngược với cuộc sống thực tế. Tác giả người Pháp Mélanges, từng sống ở Việt Nam lâu năm, đã nhận xét vấn đề này: Thiếu chi, người tên thì tốt, mà việc làm không tốt. Như có người tên là Lành, là Thiện mà không lành không thiện chút nào cả.

Khi xưa người ở Quảng Bình, có tục đặt tên con là Mẹt. Ngày nay, tiếng mẹt đã biến nghĩa, trở thành xấu, ám chỉ người đàn bà quê mùa, qua câu nói châm biếm “Thị Mẹt”. Theo linh mục Léopold Cadière, trong sách Croyances Et Pratiques Religieuses Des Vietnamiens, thì chữ mẹt có nguyên nghĩa là cái rổ, cái tráng, cái thúng, cái mẹt, cái nia. Nói chung là các vật dụng xay lúa giã gạo, chợ búa. Khi đặt tên con gái là Mẹt, các gia đình mong muốn cho con sau này biết tề gia nội trợ.

Ý muốn con hay, con tốt còn được biểu lộ trong trường hợp tên con“đè” được tên cha. Ví dụ trường hợp hai cha con ông Ngô Thời Sĩ và Ngô Thời Nhậm. Chữ Nhậm trong Hán tự viết gần giống chữ Sĩ, chỉ khác chữ Nhậm có thêm nét phẩy trên đầu chữ Sĩ. Lối đặt tên này lấy trong quan niệm: Con hơn cha là nhà có phúc.

Đa số tên người Việt Nam là tiếng Hán Việt nên nhiều người không hiểu rõ tên mình và tên người khác có ý nghĩa gì vì nhiều từ đồng âm, nhưng dị nghĩa. Ví dụ cùng phát âm là Du nhưng từ Du có ít nhất 20 nghĩa khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, các học giả như giáo sư Dương Quảng Hàm, trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, đã chua thêm chữ Hán vào sau tên mỗi nhân vật để ta biết tên vị ấy có ý nghĩa gì. Ví dụ chữ Du trong tên thi hào Nguyễn Du không có nghĩa là đi chơi như trong tiếng du xuân hay du hí, cũng không có nghĩa là ca hát như du ca. Tên của thi hào Nguyễn Du khi viết ra Hán tự có nghĩa là xa xôi. Tên thi sĩ Trần Tế Xương không có nghĩa là xương cốt, cũng không phải là ma cọp mà ta gọi là hùm tinh, cũng không có nghĩa là người vô định hướng. Tên Xương của cụ Tú có nghĩa là thịnh vượng, đẹp, thẳng thắn. Do vậy, cụ lấy tên tự là Tử Thịnh. Chữ Thịnh và Xương trong Hán tự đều có nghĩa là phát đạt, thịnh vượng.

2. Chọn Tên Để Biểu Lộ Liên Hệ Huyết Thống: Quan niệm liên hệ huyết thống rất phổ quát trên thế giới. Mỗi dân tộc có một đường lối riêng trong cách đặt tên để biểu lộ quan niệm này. Với người tây phương, người ta dùng các biến dạng của tên họ và tên đệm mà chúng tôi đã trình bày trong Tiết B, chương một và chương hai. Riêng tại Việt Nam, người ta áp dụng hai đường lối để biểu lộ ý niệm liên hệ huyết thống: một là dùng đường lối Việt ngữ, hai là đường lối Hán tự.

a. Nếu theo đường lối Việt ngữ: Tên con cái sẽ tuân theo một trong hai nguyên tắc là phát âm hay ý nghĩa để biệu lộ ý niệm huyết thống.

Nếu theo nguyên tắc phát âm, tên các con sẽ có cùng âm khởi đầu hay âm vận cuối. Ví dụ:

- Cùng âm khởi đầu: Thông, Thái, Thiên, Thụ, Thưởng

- Cùng âm vận cuối: Trung, Dũng, Hùng, Cung, Tùng.

Nếu theo nguyên tắc ý nghĩa, các tên sẽ ở trong cùng nhóm từ ngữ có ý nghĩa liên quan đến nhau. Ví dụ:

- Tam tài: Thiên, Địa, Nhân.

- Tam đa: Phúc, Lộc, Thọ.

- Tam tòng: Phu, Phụ, Tử.

- Tam cương: Quân, Sư, Phụ.

- Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

- Tứ thời: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

- Tứ linh: Long, Ly, Quy, Phụng hay Phượng.

- Tứ hữu: Mai, Lan, Cúc, Trúc.

- Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ.

- Ngũ phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung.

- Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

- Ðịa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tỵ, Ngọ v.v...

- Thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ v.v...

Tác giả Nguyễn Công Hoan đã viết lại phong tục đặt tên theo kiểu có cùng ý nghĩa:

- Này bu nó ạ, tôi định đặt tên cho thằng cu là Trộn. Bu nó bảo thế nào?

Chị Pha nhăn mặt lắc đầu,

-Không gọi thế được. Tên xấu lắm. Hôm nào nhờ ông lang Sáng đặt tên cho nó.

-Ồ, chả chữ nghĩa gì cả. Giỏ nhà ai, quai nhà nấy. Không cần. Quấy, Quậy, Hòa, Sáo, Pha thì tên thằng cu là Trộn thế phải rồi còn gì.

-Nhưng các bác có đặt tên cho lũ cháu thế đâu?

-Thì con nhà bác Quậy chẳng là Sỏi, Sành là gì ?


Đặt tên cùng ý nghĩa có nhiều kiểu cách. Xin đan cử ba ví dụ: Quê tôi là làng Phú Vinh, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, có gia đình đặt tên các con bằng các từ ngữ chỉ dụng cụ nhà nông: Mai, Quốc, Xẻng, Giành, Cào, Gióng. Ða số cư dân ở đây là người Công Giáo nên một gia đình khác lấy các từ trong kinh sách Công Giáo để đặt tên: Nhiệm, Mầu, Tin, Cậy, Kính, Mến. Một gia đình thân quen với cha mẹ chúng tôi có 7 cô con gái, mỗi cô mang tên một loại vải quý: Nhung, Là, Lụa, Lượt, Gấm, The, Vóc. Linh mục Léopold Cadière, trong bài viết về Nguồn Sơn, Quảng Trị, cho biết có gia đình đặt tên con theo thế đất ở vùng biển: Cù, Lao, Gành, Gò, Eo.

Nhiều gia đình cố áp dụng hai nguyên tắc trên để đặt tên cho con, nhưng đôi khi đẻ nhiều quá, đứa sau không còn từ ngữ cùng nhóm, nên đặt một tên trệch ra khỏi đường lối chung.

b. Nếu theo đường lối Hán tự: Tên các con khi viết ra chữ Hán sẽ có cùng một bộ. Lối đặt tên này đòi hỏi khả năng chữ Hán cao nên chỉ có các gia đình nho gia hay vua chúa mới áp dụng. Hãy nêu ra một số thí dụ cụ thể:

-Tên các vua nhà hậu Lê là Kỳ, Hữu, Vũ, Hội, Hợp, Đường, Phương, Tường, Thìn, Diêu đều thuộc bộ Kỳ.

-Tên các chúa Trịnh: Kiểm, Tùng, Tráng, Tạc, Căn, Cương, Giang, Doanh, Sâm, Cán, Khải đều thuộc bộ Mộc.

-Tên các chúa Nguyễn: Kim, Hoàng, Nguyên, Lan, Tần, Trăn, Chu, Trú đều thuộc bộ Thủy.

-Tên các chúa Nguyễn từ Nguyễn Phúc Khoát tới Nguyễn Phúc Ánh dùng bộ Nhật.

Lối đặt tên này không phải là đặc quyền của vua chúa, nhiều gia đình nho học cũng áp dụng. Ví dụ tác giả truyện Kiều là cụ Nguyễn Du có cụ thân sinh là Nguyễn Nghiễm, có bác là quan tham tụng Nguyễn Khản. Các tên Khản, Nghiễm, Du nếu viết ra Hán tự, đều có bộ Nhân. Tên các cụ Ngô Thời Chí, Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm đều có bộ Sĩ. Tên học giả Phạm Quỳnh và các con là Phạm Dao, Phạm Khuê, Phạm Thị Ngoạn, đều có bộ Ngọc. Lối đặt tên trên mới chỉ chú ý đến thế hệ cha con. Các cụ còn đặt tên để phân biệt thế hệ cháu chắt.

3. Chọn Tên Để Phân Biệt Dòng Dõi Thế Hệ: Khi Hán tự còn thịnh hành, các nhà nho dựa vào đặc tính chữ Hán để chọn tên nhằm phân biệt dòng dõi thế hệ. Đặc tính chữ Hán là mỗi chữ thuộc về một bộ trong hơn 200 bộ căn bản. Ví dụ các chữ Hoa, Phương, Trà thuộc bộ Thảo là cỏ. Các chữ Bản, Vị, Lý, Đỗ, Đông thuộc bộ Mộc là cây. Áp dụng đặc tính này vào việc đặt tên, các nhà nho quy định đời thứ nhất chọn các chữ cùng bộ, bộ Mộc chẳng hạn, đời thứ hai bộ Thủy, đời thứ ba bộ Hỏa v.v.. Để con cháu dễ nhớ, các cụ sáng tác bài thơ mà mỗi chữ là một bộ chữ nho. Con cháu cứ theo đó mà chọn tên. Điển hình là vua Minh Mạng đã áp dụng đường lối trên để đặt tên cho con cháu:

Ngự Chế Mạng Danh Thi

Miên, Nhân, Kỳ, Sơn, Ngọc

Phụ, Nhân, Ngôn, Tài, Hòa

Bối, Lực, Tài, Ngôn, Tâm

Ngọc, Thạch, Hoa, Hòa, Tiểu.

Theo bài thơ trên, tên các hoàng tử thuộc dòng đế, mỗi thế hệ sẽ dùng một bộ chữ. Tên các con vua Minh Mạng đều dùng bộ Miên. Tên con vua Thiệu Trị dùng bộ Nhân. Đến hoàng tử Bảo Long, tức con vua Bảo Đại, đời thứ năm, dùng bộ Phụ.

4. Chọn Tên Để Ghi Dấu Biến Cố Lịch Sử Trong Gia Đình: Người Âu Châu cũng như người Việt Nam và Trung Quốc có lối đặt tên để ghi nhớ biến cố lịch sử xảy ra trong gia đình. Ví dụ:

- Lấy địa danh: Vào năm 1954, có cuộc di cư từ Bắc vào Nam, nhiều gia đình sinh con ở miền Nam đã đặt tên con là Nam. Sinh ở Nha Trang đặt tên con là Trang, sinh ở Vĩnh Long đặt tên là Vĩnh hay Long v.v…

- Lấy tên thời gian xảy ra biến cố như : Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nhiều người tây phương có tên là Noel, Natividas, Natalie. Các chữ này đều có nghĩa là ngày lễ Giáng Sinh.