Chương I. TIẾT D: THỤY HIỆU

1. Định Nghĩa Thụy Hiệu: Trong Hán tự, thụy nghĩa là tốt, thụy hiệu nghĩa là tên tốt. Theo sử Ký Tư Mã Thiên, tên thụy còn gọi là hiệu bụt. Đối với các vị vua, thụy hiệu được gọi là thánh thụy, tức tên của ông vua mới băng hà, được vua kế vị hay các quan trong Bộ Lễ đặt để tránh tên húy. Thụy hiệu có hai loại: công thụy và tư thụy. Công thụy do vua hay triều đình đặt, tư thụy do con cháu trong gia đình, bạn bè, môn đồ đặt cho người quá vãng.

Thánh thụy thuộc loại công thụy bắt đầu có từ thời nhà Chu. Chu Văn Vương có thụy hiệu là Văn. Chu Vũ Vương có thụy hiệu là Vũ. Ðến đời nhà Tần, Tần Thủy Hoàng bãi bỏ lệ đặt tên thụy vì cho rằng con cái phê phán cha, bầy tôi bàn luận về vua là điều không đúng. Nhưng đến đời Hán, lệ đặt tên thụy lại được tiếp tục. Công thức của thụy hiệu gồm 2 phần: phần đầu là một hay nhiều từ chỉ tên thụy, phần hai là từ hoàng đế hay từ vương.

2. Nguyên Tắc Chọn Thụy Hiệu: Cách giải thích và đặt thụy hiệu gọi là thụy pháp. Đối với công thụy, hành vi được đánh giá theo ba cấp: xấu, trung bình, tốt.

a. Thụy hiệu xấu: Triều đình Trung Quốc chọn các chữ: Lệ, U, Hôn, Dạng để đặt thụy hiệu xấu. Theo Từ Ðiển Hán Việt của Ðào Duy Anh thì Lệ có nghĩa là tàn bạo, U: tối tăm; Hôn: tối tăm, mê loạn; Dạng: ốm đau, bệnh hoạn. Chu Vương Cơ Hồ vì thống trị tàn bạo, sau khi chết có tên thụy là Lệ Vương. Sách Thụy Pháp Giải cho rằng tàn sát kẻ vô tội gọi là Lệ. Cơ Vung Niết cũng tàn bạo nên có thụy hiệu là U Vương. Theo Thụy Pháp Giải, U có nghĩa là làm đảo lộn lễ nghi, loạn luân. Tiên Bảo Quyền, sau khi lên ngôi, sống đời hoang dâm phóng túng, nên có thụy hiệu là Đông Hôn Hầu. Chữ Hôn nói lên bản tính tăm tối, tàn bạo, dâm dật. Trần Thúc Bảo và Dương Quảng đời Tùy đều hung tàn bạo ngược, là hôn quân nên được đặt thụy hiệu là Dạng Đế. Sách Tự Trị Thông Giám của Hồ Tam Tỉnh giải thích ham gái, xa lễ, bạo ngược với dân gọi là Dạng.

b. Thụy hiệu trung bình: Các triều đại Trung Quốc dùng chữ Bình để đặt thụy hiệu trung bình. Cơ Nghi Cữu, vua thứ nhất của Đông Chu, tuy không có công gì nhiều, nhưng được dân thương xót nên có thụy hiệu là Bình Vương. Sách Thụy Pháp Giải nói trị nước mà không có lầm lỗi lớn thì được gọi là Bình.

c. Thụy hiệu tốt: Tuyệt đại đa số các vua Trung Quốc đều có thụy hiệu tốt. Trước thời nhà Tần, thụy hiệu có một chữ: hoặc là Văn, hoặc là Vũ. Chữ Văn dùng để biểu lộ khả năng về mặt văn hóa, chính trị lương hảo. Chữ Vũ để biểu lộ khả năng quân sự. Sang triều Hán, người ta dùng 2 chữ mà chữ đầu bao giờ cũng là chữ Hiếu nên thụy hiệu của Lưu Triệt là Hiếu Vũ Đế. Sang đời Tấn, Đường, không dùng thụy hiệu 2 chữ nữa mà dùng nhiều chữ để ca ngợi công đức của vua. Ví dụ hoàng đế Thuận Trị đời Thanh có thụy hiệu 25 chữ là: Thế Thiên Long Vận, Định Thống Kiến Cực, Anh Duệ Khâm Văn, Hiển Võ, Đại Đức Hoằng Công, Thánh Nhân Thuần Tôn Chương Hoàng Đế.

3. Thụy Hiệu Của Các Vua Chúa Việt Nam: Các vua chúa Việt cũng áp dụng chế độ đặt thụy hiệu. Theo sử gia Lê Văn Hưu, vua và hoàng hậu khi mới băng, chưa chôn vào lăng tẩm, thì triều đình vẫn dùng đế hiệu để gọi vị vua ấy. Khi chôn rồi, triều đình họp lại, xem đức hạnh của vua tốt hay xấu mà đặt thụy hiệu. Trước thời Lê Đại Hành (980-1005), không thấy sử cũ ghi thụy hiệu của vua nào. Đại Việt Sử Lược ghi thụy hiệu của Triệu Đà là Vũ Đế, nhưng ông này là người Tàu, không phải người Việt. Sử gia Lê Văn Hưu, trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, ghi thụy hiệu vua Lê Ðại Hành là Đại Hành. Nhiều vua Việt áp dụng đúng nguyên tắc ban đầu của thụy hiệu là dùng một từ: Ví dụ:

  • Vua Lê Thái Tông có thụy hiệu là VĂN, miếu hiệu là Thái Tông Văn Hoàng Đế
  • Vua Lê Nhân Tông có thụy hiệu là TUYÊN, miếu hiệu là Nhân Tông Tuyên Hoàng Đế
  • Vua Lê Thánh Tông có thụy hiệu là THUẦN, miếu hiệu là Thánh Tông Thuần Hoàng Đế
  • Bình Định Vương Nguyễn Huệ có thụy hiệu là VÕ, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
  • Vua Minh Mạng có thụy hiệu là NHÂN, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
  • Vua Thiệu Trị có thụy hiêu là CHƯƠNG, miếu hiệu là Hiên Tổ Chương Hoàng Đế.


Tuy nhiên, cũng có vị vua bắt chước vua Tàu, dùng nhiều từ để đặt thụy hiệu. Ví dụ khi vua Trần Thái Tông mất năm 1234, triều đình đặt thụy hiệu với 20 chữ: Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Hòa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Võ Nguyên Hiếu Hoàng Đế.

Ngày mai : tìm hiểu Miếu Hiệu