Tính Danh Học Việt Nam : Nghiên cứu tên tự (Phần II)

5. Phương Pháp Đặt Tên Tự: Như đã nói trên, nguyên tắc đặt tên tự là làm sao giữa tên tự và tên chánh có sự liên hệ. Để đạt mục tiêu này, các danh nhân Trung Quốc cũng như Việt Nam đã áp dụng bốn phương pháp sau đây:

a. Dùng chữ đồng nghĩa: Theo phương pháp này, tên chính và tên tự đồng nghĩa. Đa số các danh nhân Trung Quốc và Việt Nam dùng phương pháp này để chọn tên tự. Ta có thể nêu các ví dụ: Tại Trung Quốc, nhân vật lịch sử Tào Tháo thời Tam Quốc có tên tự là Mạnh Đức. Tháo và Đức trong Hán tự đều có nghĩa là đức hạnh, phẩm giá. Chữ Mạnh thêm vào để chỉ người con thứ. Đồng thời với Tào Tháo có dũng tướng Trương Phi, tự là Dực Đức. Phi và Dực đều có nghĩa là bay. Còn chữ Đức được thêm vào để tên thêm phần hoa mỹ. Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự Bá Dương. Dương và Nhĩ đều có ý nghĩa liên quan đến mặt trời. Thầy Mạnh Tử tên chính là Mạnh Kha, tên tự là Tử Dư. Chữ Kha có nghĩa là trục xe, chữ Dư có nghĩa thùng xe, cả hai được viết với bộ xa là cái xe. Thầy Nhan Hồi có tên tự là Uyên. Hồi và Uyên đều có nghĩa là dòng nước, được viết với bộ thủy. Lỗ Túc, chính trị gia thời Tam Quốc, quân sư cho Tôn Quyền, có tên tự Tử Kính. Túc và Kính đều có nghĩa là cung kính. Thầy Tệ Dư, đồ đệ của đức Khổng Tử có tên tự là Tử Ngã. Dư và Ngã có nghĩa là tôi. Nhà cách mạng Lương Khải Siêu (1873-1929) có tự là Trác Như. Trác và Siêu đều có nghĩa là vượt lên cao hơn nữa.

Tại Việt Nam, cụ Trương Hán Siêu có tên tự là Thăng Phủ. Từ ngữ Siêu và Thăng đều có nghĩa là tiến lên chỗ cao hơn. Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) có tên tự là Doãn Hậu. Đôn và Hậu đều có nghĩa là thành thực. Danh sĩ triều Nguyễn là Trương Quốc Dụng (1797-1864) có tự là Dĩ Hành. Dụng và Dĩ đều có nghĩa là dùng. Thi sĩ Trần Tế Xương có tự là Tử Thỉnh. Thịnh và Xương đều có nghĩa là phồn vinh, phát đạt. Cụ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) có tự là Mạnh Trạch. Chiểu và Trạch có nghĩa là cái đầm, cái ao. Khi viết, hai chữ này đều có bộ thủy. Hai học giả miền Nam thời Pháp thuộc là các ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898) tự là Sĩ Tải và Trương Minh Ký tự là Thế Tải. Chữ Tải trong tên tự của hai ông có nghĩa bóng là nhân tài làm được việc lớn. Còn chữ Ký có nghĩa bóng là nhân tài kiệt xuất. Nhà văn Đào Trinh Nhất (1900-1951) có tự là Quán Chi. Nhất và Quán đều có nghĩa hạng nhất, đứng đầu.

b. Dùng phương pháp loại suy: Phương pháp này là dựa vào tên chính, suy ra tên tự hay ngược lại. Ta có thể nêu các thí dụ sau: Đời Xuân Thu Chiến Quốc, có ông Tư Mã Canh, tự là Tử Ngưu. Canh là cầy ruộng. Áp dụng phương pháp loại suy, ta thấy khi cầy ruộng thì cần trâu, tức Ngưu, nên ông Tư Mã Canh đã chọn tên tự là Tử Ngưu, chữ Tử thêm vào để tỏ ý tôn kính như Lão Tử, Khổng Tử. Ông Chu Trương tự là Tử Cung. Cung là cây cung, khi nói đến cung, ta nghĩ đến việc phải trương giây cung. Danh tướng Triệu Vân thời Tam Quốc có tự là Tử Long. Nói tới vân là mây, ta nghĩ đến long là rồng bay trong mây. Tôn Quyền, vua của Đông Ngô thời Tam Quốc, có tự là Trọng Mưu. Trong Hán tự, từ kép Quyền Mưu nghĩa là mưu kế để đối phó với những trường hơp phi thường hay mưu kế gian quyệt. Do vậy, người tên Quyền lấy tên tự là Mưu, còn từ Trọng chỉ thứ cấp trong gia tộc.

Tại Việt Nam, các cụ cũng áp dụng nguyên tắc này. Ông Lý Văn Phức (1785-1849), tác giả Nhị Thập Tứ Hiếu có tự là Lân Chi. Chi có nghĩa là một thứ cỏ thơm. Nói đến thơm, người ta nghĩ đến chữ Phức là hương thơm. Cụ Trương Đăng Quế, danh nhân triều Nguyễn, có tên tự là Diên Phương. Phương có nghĩa là mùi thơm. Diên Phương nghĩa là mùi thơm ngào ngạt, nhắc ta nhớ đến mùi thơm cây quế. Ông Lương Nhữ Hộc, đỗ thám hoa đời Lê Thái Tông (1434-1442), là tổ nghề in ở Việt Nam, có tên tự là Tường Phủ. Tường có nghĩa là chim bay lượn. Chữ Tường và chữ Hộc đều viết với bộ điểu, từ đó loại suy ra tên chánh phải là loại chim: chim hộc giống như con thiên nga. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) tự là Hạnh Phủ. Hạnh là đức hạnh, liên hệ đến Khiêm là nhún nhường. Còn từ Phủ thêm vào để tỏ vẻ tôn kính.

c. Dùng điển tích để đặt tên tự: Phương pháp này là lấy một thành ngữ, một câu văn, hay điển tích của Tàu mà trong đó có cả tên chính và tên tự. Xin nêu vài Ví dụ: Đời nhà Hán có ông Ngụy Triết tự Tri Nhân. Ông lấy tên Tri Nhân vì thành ngữ Trung Quốc có câu: “Tri Nhân Tức Triết”. Ông Lộc Long có tên tự là Tại Điền. Trong Kinh Dịch có câu: “Hiên Long Tại Ðiền” nên người tên Long lấy tên tự là Tại Điền. Ông Phan Nhạo có tự là An Nhân. Trong sách Luận Ngữ có câu: “Trí Giả Nhạo Thủy, Nhân Giả Nhạo Sơn”, nghĩa là người có trí thích nước, người có lòng nhân thích núi. Tên chánh là Nhạo nên lấy tên tự là Nhân.

Tại Việt Nam, các nhà nho xưa cũng áp dụng phương pháp này. Ông ngoại của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là cụ Trần Minh Đức có tự là Nhuận Thân. Chữ Đức và Nhuận Thân đều có trong câu của sách Đại Học: “Phú Nhuận Ốc, Đức Nhuận Thân”. Nghĩa là sự giàu có làm nhà ở tốt đẹp, đức hạnh làm thân mình tốt đẹp. Học giả Bùi Kỷ có tên tự là Ưu Thiên. Theo sách Liệt Tử và Tả Truyện, nước Kỷ có người suốt ngày lo trời sập. Do vậy, nhắc đến ưu thiên, nghĩa là lo trời sập, người ta nghĩ ngay đến người nước Kỷ. Đó là lý do tại sao cụ Bùi Kỷ lấy tên tự là Ưu Thiên.

d. Dùng tiếng phản nghĩa để đặt tên tự: Nếu áp dụng phương pháp này, tên tự và tên chính phải có ý nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ nhà thơ Đào Tiềm (372-472) của Trung Quốc có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của các nhà nho Việt Nam có tên tự là Nguyên Lượng. Lượng và Tiềm trái nghĩa nhau. Tiềm có nghĩa là ẩn dấu trong khi Lượng có nghĩa là phô bày ra. Đời Xuân Thu Chiến Quốc, môn đệ đức Khổng Tử là ông Đoàn Mộc Tứ có tự là Tử Cống. Theo từ điển của Đào Duy Anh, chữ Tứ là người trên cho người dưới, còn Cống là hiến dâng, hàm ý người dưới dâng cho người trên. Ông Bốc Thương tự là Tử Hạ. Ta biết, khi xưa Thương và Hạ là hai triều đại Trung Quốc kình chống lẫn nhau. Thi sĩ Hàn Dũ đời Ðường làm bài văn ném xuống sông để cá sấu đi có tên tự là Thoái Chi. Dũ và Thoái trái nghĩa nhau. Dũ là tiến thêm lên còn Thoái là thụt lùi lại. Danh thần nhà Nguyễn là ông Trần Tiễn Thành, khi trước tên là Dưỡng Độn, tự là Thời Mẫn, hiệu là Tốn Trai. Độn và Mẫn trái nghĩa nhau. Độn có nghĩa là không rõ ràng, tối tăm, chậm chạp, còn Mẫn có nghĩa là thông minh, mau mắn.

Ngoài bốn cách phổ thông trên, người Trung Quốc còn dùng nhiều cách thế phức tạp khác để đặt tên tự. Ví dụ đời Xuân Thu có ông Nhiên Đơn, tự là Tử Cách. Chữ Cách là tấm da trâu nhuộm màu đỏ để làm áo giáp. Còn chữ Đơn nghĩa là màu đỏ. Nên nghe chữ Cách, người ta phải suy luận qua hai giai đoạn mới biết tên chánh là Đơn.

Qua các thí dụ trên, ta thấy có nhiều cách thế đặt tên tự và các cụ xưa quan niệm rằng tên tự càng bí hiểm bao nhiêu, càng tỏ ra mình trí thức bấy nhiêu. Thành ra, hiểu được tên tự của các cụ không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, tên tự lại là một đề tài rất ý nghĩa về phương diện ngữ học. Do đó, vấn đề cần được nghiên cứu sâu rộng để có thể làm được quyển từ điển về tên tự, như các nhà ngữ học Âu Mỹ và Trung Quốc đã làm về tên hiệu của các người thời danh trong nước họ.

6. Nghi Lễ Đặt Tên Tự Tại Việt Nam: Tên tự được người xưa đặt trong ngày lễ mà người Việt gọi là lễ Thành Đinh, tức thành người, còn người Trung Quốc gọi là lễ Gia Quan, tức lễ đội mũ. Lễ này cử hành cho nam giới, lúc khoảng 20 tuổi, tức lứa tuổi mà xã hội coi người đó đã đạt mức trưởng thành. Lễ thành đinh là một biến cố có ý nghĩa nên được cử hành trong một buổi lễ trang trọng.

Lễ thành đinh được tổ chức như sau: Trước hết, cha mẹ chọn ngày lành tháng tốt tổ chức buổi lễ. Khách mời là bà con nội ngoại và một số bạn bè thân quen. Tất cả tề tựu trước bàn thờ gia tiên, được trần thiết với nhang đèn, hoa trái. Chủ lễ là vị trưởng thượng trong dòng họ hay người có uy tín trong thôn xóm được cha mẹ mời. Người thanh niên trong bộ áo dài the, quỳ trước bàn thờ. Mở đầu, chủ lễ làm lễ lên đèn, sau đó cử hành nghi thức cáo gia tiên, rồi ngỏ lời khuyên bảo người thanh niên:

Con ơi, nay con lớn khôn, bắt đầu từ hôm nay, con phải gánh trách nhiệm trong gia đình, xã hội. Phải biết tự trọng, nuôi ý chí lập thân, học hành chăm chỉ.

Sau đó, người cha hay vị trưởng lão lấy khăn xếp đội cho anh và tuyên bố tên tự của anh. Từ ngày cử hành lễ thành đinh, theo nguyên tắc, người con hết lệ thuộc vào bố mẹ. Anh có thể thay mặt cha mẹ quản lý tài sản, thừa kế hương hỏa và chịu trách nhiệm về những công việc mình làm. Trách nhiệm đó được coi là nặng nề, nên trong nhiều gia đình, người thanh niên phải trải qua cuộc trắc nghiệm về sức khỏe, gia chánh, hay những cuộc thi đua đòi óc sáng kiến để chứng tỏ hội đủ điều kiện đạt trình độ tự lập.

Như đã nói, tên tự được đặt bằng từ Hán Việt nên hiểu được tên tự là điều khó. Do vậy, thông thường chỉ nhà nho, hay tầng lớp khá giả mới có tên tự. Giới bình dân ít ai đặt tên tự cho mình. Nếu có, cũng phải nhờ các nhà nho đặt và giải thích ý nghĩa cho. Từ ngày có tên tự, người khác sẽ dùng tên đó gọi thay tên chính để tỏ lòng kính trọng. (hết)

(E mail : thaonguyen918@yahoo.com)