Một số cảm nghĩ về
SỨ VỤ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG THỜI ĐẠI MỚI
(Sau cuộc Toạ đàm “ SỐNG ĐẠO THEO CUNG CÁCH VIỆT NAM” diễn ra ở Huế từ 22-24/4/2004)
Bài chia sẻ sau không là một bài độc lập, mà có liên hệ với một số ý tưởng và sự kiện đã diễn ra trong cuộc toạ đàm, như một dư âm còn đọng lại thành những phản hồi.
Như đã nhiều người biết, cuộc toạ đàm, có chủ đề “Sống Đạo Theo Cung Cách Việt Nam “. Tên là thế, nhưng không hẹn mà gặp là tất cả 8 bài thuyết trình đều chỉ về một chủ thể có tên gọi là người giáo dân. Một lý do đơn giản là người giáo dân là thành phần đông nhất (99,9%) của giáo hội 1. Như thế, vô hình chung, trả lời phần nào cho nỗi buồn sau 40 năm sau Công đồng Vatican II của linh mục Nguyễn thái Hợp : rằng bây giờ giáo dân xếp ở hàng nào? Xin thưa giáo dân vẫn có vai trò hàng đầu. Hàng đầu ở đây không phải là vị trí trong mô hình kim tự tháp trước Vatican II về giáo hội, mà là ở vai trò của họ : vừa có tính tiên phong vừa có tầm quan trọng, đặc biệt trong thế giới hiện đại.
1. Vai trò hàng đầu của người giáo dân :
Một trong những thành quả quan trọng của công đồng Vatican II là việc khẳng định và đề cao những tái khám phá từ đầu thế kỷ 20 về vai trò và vị trí người giáo dân trong giáo hội và thế giới. Chính vì thế mà lần đầu tiên một công đồng toàn cầu dành hẳn một chương trong Hiến chế Giáo hội, hay nhiều lần nói về vai trò của họ trong Hiến chế Mục vu, và một sắc lệnh riêng về hoạt động tông đồ giáo dân, gần đây [1987] còn có thêm Tông huấn Kitô hữu Giáo dân của đức Gioan Phaolô II.
Khi công đồng xác định Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa và xây dựng một nền thần học về giáo dân, đã làm nổi lên vị trí đặc biệt của người giáo dân, mà trong rất nhiều trường hợp “Giáo hội sẽ khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác [SLTĐGD,s.1].
Công đồng cũng khẳng định người giáo dân có một ơn gọi riêng : “Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa“ [HCGH,s.31]. Họ còn được kêu gọi thông phần với sứ mạng cứu độ của giáo hội bằng đời sống nhân chứng, canh tân trật tự trần thế, bằng các việc tông đồ, kể cả việc cộng tác trực tiếp với hàng giáo phẩm [sdd, s.33].
Hai mươi năm sau Công đồng, quan niệm trên còn được Giáo hội “luật hoá” trong nhiều điều khoản của Bộ Giáo luật 1983, có thể tóm tắt như sau:
Theo đó, Giáo hội được thiết lập và tổ chức như một xã hội, trong đó các tín hữu là người nhờ phép Rửa Tội, được hiệp thân với Đức Ki Tô, được tham gia theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn và vương giả của Đức Ki Tô [điều 204]. Trong giáo hội có hai thành phần tín hữu, một là các thừa tác viên có chức thánh được gọi là giáo sĩ, còn các người khác được gọi là giáo dân [điều 207]. Trong giáo hội các thành phần này đều bình đẳng với nhau về phẩm giá và hành động, nhờ sự bình đẳng này, các tín hữu cộng tác với nhau xây dựng thân thể Đức Ki Tô [điều 208].
Trong tư cách là tín hữu, họ có bổn phận sống thánh thiện, chuyên cần học hỏi, loan báo Tin Mừng, hiệp thông trong giáo hội [điều 209-211] và chu cấp cho các nhu cầu giáo hội [điều 222]. Họ có quyền trình bầy ý kiến với Chủ chăn, và lập hiệp hội có mục đích đạo đức và từ thiện. Họ có quyền được lãnh nhận bí tích, quyền được giáo huấn và sự hỗ trợ của chủ chăn [điều 213-217].
“Giáo dân có phận sự riêng là phải làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm, và như vậy họ làm chứng cho Đức Ki Tô cách đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như khi thi hành các chức vụ trên đời” [điều 225]. Ngoài ra tùy theo khả năng, tư cách, mà họ có thể được Chủ chăn mời cộng tác trong các chức vụ của giáo hội [điều 228], trong phụng vụ [điều 230].
Để thi hành phận sự ấy, người giáo dân “có nghĩa vụ và quyền lợi thủ đắc sự hiểu biết đạo lý” và những thánh khoa của giáo hội, và lấy bằng cấp chuyên môn. Khi học xong họ có năng cách để được ủy quyền giảng dậy [điều 229].
Cần ghi nhận thêm: nếu Bộ Giáo luật 1917 chỉ có 14 điều khoản minh nhiên nói về người giáo dân thì trong Bộ Giáo luật 1983, dù ngắn hơn, lại có đến hơn 200 điều khoản (trong số 1752 điều) đề cập đến họ trong tư cách người Kitô hữu và giáo dân. Sở dĩ có sự khác biệt này là do chuyển biến quan niệm về giáo hội sau công đồng Vatican II, từ chỗ một Giáo hội học nhấn mạnh đến cơ cấu, phẩm trật; sang Giáo hội hiệp thông, Giáo hội là nhiệm thể của Đức Kitô, Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa.
Thật ra, mặt nào đó, những quan niệm trên được gọi là mới, nhưng mới với 10 thế kỷ Trung cổ, hay mới trong ngôn ngữ trình bầy, chứ không mới với tinh thần Tin Mừng. Tất cả như một tái khám phá và trả lại cho người giáo dân căn tính vốn có của họ : Đó là căn tính người Ki Tô hữu, tức người đi theo Đức Ki Tô, như họ đã luôn có mặt và góp phần quan trọng trong lịch sử giáo hội, đặc biệt trong giáo hội thời sơ khởi. Tuy nhiên trong nhiều thế kỷ, nhất là thời Trung cổ, vì nhiều lý do, vai trò người giáo dân bị coi nhẹ, hay lãng quên, nên đã bị mất đi nguồn năng lực lớn lao này1. Trong thế kỷ 20, vai trò của họ được phục hồi và được nhìn nhận một cách nền tảng hơn. Những phong trào tông đồ giáo dân xuất hiện trong thế kỷ tục hoá này đã chứng tỏ rằng họ ngày càng trở nên rất cần thiết trong nhiều hoàn cảnh tục hoá và trong những môi trường, mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ. (2)
Họ đã góp phần đáng kể trong nhiều lãnh vực, cho sứ mạng tông đồ của giáo hội, như công đồng Vatican II đã ghi nhận :
“Giáo dân thi hành việc tông đồ muôn mặt của mình trong giáo hội cũng như giữa đời…góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và vương giả. Trong những cộng đoàn Giáo hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả“ [SL TĐGD, số 9-10].
Ấy là quan niệm chính thức của Giáo hội 20 năm, 40 năm về trước. Còn ngày nay? Trong bối cảnh thời hiện đại lại càng lộ rõ hơn vai trò người giáo dân.
2.Vai trò giáo dân càng đặc biệt trong hoàn cảnh thời đại :
Thế kỷ 21 nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với những bước tiến khoa học kỹ thuật mà không ai có thể tưởng tượng nổi, thế nhưng không vì thế mà bớt đi đói nghèo, bất công xã hội ngày càng lớn, giữa người dân trong một nước, giữa quốc gia này với quốc gia khác. Thế giới có thể giàu hơn xưa gấp bội, thế nhưng không vì thế mà phẩm giá con người nâng lên tương xứng, nếu không muốn nói có mặt còn thụt lùi. Thời nào cũng thế, luôn có “bóng tối và ánh sáng“ đan xen. Nhưng trong thời hiện đại, nhiều vấn đề trở nên cấp thiết, do ảnh hưởng của sự “toàn cầu hoá” của công nghệ thông tin. Trong phạm vi bài này, xin nói riêng về mảng tối của thời hiện đại về phương diện đạo đức luân lý, để làm nổi bật sứ vụ của người giáo dân: Đó là thời phong trào tục hoá tiếp tục phát triển, tiến dần hơn đến chỗ sùng bái vật chất, gần như một “tôn giáo”, chủ nghĩa cá nhân được đề cao và đặc biệt được lan nhanh do trào lưu “toàn cầu hoá”.
Hơn ai hết người giáo dân đặc biệt cảm nhận rõ nhất về tình trạng trên diễn ra hàng ngày quanh họ, mà các giáo sĩ, tu sĩ được “bảo vệ” bằng khuôn viên nhà xứ hay tu viện không thể cảm nhận đầy đủ. Một vài dẫn chứng nhỏ : một cháu bé lên ba, nhất định chỉ uống sữa của hãng X, vì ấn tượng quảng cáo, hay nhiều bạn trẻ bằng mọi giá phải có cho được “con” xe cái áo kiểu này, vì như thế mới là sành điệu, hay các ông thì cứ phải uống bia hãng Y thì mới là “ ai cũng phải ngước nhìn”… Trong gia đình một ý nghĩ thường đến là : Người ta có sao mình không có ? thế là có cuộc “chạy đua” sùng bái vật chất.
Cách nay 40 năm, ở một giáo xứ nọ, ai đi tắm ở hồ bơi về phải xưng tội, vì ở đấy có các cô mặc áo tắm hai mảnh, còn cô nào đi tắm như thế thì quả là một chuyện gây sốc. Nhưng nay thì xem là sự thường, và lệnh cấm trên nếu có, sẽ như một chuyện khôi hài, bởi lẽ những hình ảnh “mát mẻ” ấy có đầy và còn hơn thế trên truyền hình rồi, chưa kể những phim sex mà người ta có thể tìm được dễ dàng. Hay như hơn 20 năm trước đây xã hội phê phán phim chưởng là bạo lực suy đồi, còn thi hoa hậu là “kinh doanh trên thân xác phụ nữ”. Thì nay đã khác hẳn, thậm chí có cả một cuộc thi hoa hậu học trò. Hay chỉ hơn hai thập kỷ trước, người ta còn phải ăn độn ngô khoai, nay thì khắp các thành phố người ta có thể gặp những quán bia ôm, cà phê ôm, thậm chí rượu đế ôm, và nhiều biến tuớng khác.
Tất cả những thí dụ này, tuy không minh nhiên nói ra, nhưng đều có hàm ý rằng : “Cần gì phải ngẩng lên trời tìm một hạnh phúc xa xôi, hãy tự vui và tận hưởng những gì đang có, đó là sự thể hiện sự hiện hũu của con người, tại sao lại phải tự trói mình vào những nghĩa vụ đạo đức, luân lý… Tôi muốn tôi là tôi, một người cụ thể với đủ mọi ham muốn, còn chuyện con người là “hình ảnh của Thiên Chúa được” chỉ là trò chơi trí tuệ của các nhà thần học mà thôi…”
Một vài thí dụ nhỏ trên cho thấy mức độ tục hoá và sùng bái vật chất diễn ra rất nhanh và liên tục mọi lúc mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, từ phố xá sang trọng cho đến ngõ hẻm tồi tàn, gần như không có vùng cấm nào cả. Ngay cả trong những lãnh vực vốn được xã hội trân trọng nhất là ngành giáo dục và y tế, vẫn có sự xâm nhập của trào lưu này, và không có xã hội nào được miễn trừ, như đã có thể xẩy ra cho một xã hội đã từng một thời được coi là “đạo mạo, khả kính“. Một câu vè hiện đại minh hoạ cho thấy sức phổ biến của trào lưu này: “tiền là tiên là phật, là sức bật tuổi già, là đà danh vọng…”
Trong Tông huấn Người Kitô hữu Giáo dân [s. 3-4] Đức Gioan Phaolô II đã thao thức về thế giới hiện đại, như sau :
“Một thế giới mà những hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá đặt ra rất nhiều vấn đề và nhiều khó khăn còn trầm trọng hơn cả những vấn đề được Công đồng trình bày trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng… Làm sao sao không nghĩ đến sự gia tăng thái độ dửng dưng với tôn giáo và thuyết vô thần dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là khuynh hướng duy thế tục mà có lẽ đang phổ biến nhất hiện nay? …Thật thế khuynh hướng duy thế tục hiện nay là một hiện tượng rất trầm trọng, nó không còn là chuyện cá nhân nhưng liên quan đến cả cộng đồng, như Công đồng đã ghi nhận : “số người bỏ thực hành đạo ngày càng tăng“. Chính tôi đã nhắc tới trong nhiều lần khác: hiện tượng tục hoá đã tác động nơi các dân tộc vốn là tín hữu từ thời xa xưa, và hiện trạng này đòi hỏi thực hiện liên tục một công cuộc tái Phúc Âm hoá”.
Đức Gioan Phaolô còn khái quát về tình trạng trên bằng cụm từ “sự đánh mất cảm thức về tội lỗi”, “văn hoá của sự chết”. Hay nói theo ngôn ngữ y học, đó là một thứ bệnh “AIDS -đạo đức luân lý”, tức “hội chứng suy giảm sức đề kháng với tội lỗi”. Nên người ta sống chung với tội một cách “vô tư”. Thứ bệnh “AIDS tinh thần” này cũng lây lan không kém gì bệnh AIDS thể xác.
Trong bối cảnh tục hoá, “vật hoá” liên tục phát triển này, sứ vụ Giáo hội loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân “cho đến tận cùng trái đất“ [Cv 1,8b] càng trở nên khó khăn và khẩn thiết hơn bao giờ. Làm sao Giáo hội có thể có mặt đầy đủ “mọi lúc mọi nơi” cho tương ứng với trào lưu tục hoá, vật hoá trên, nếu không có người giáo dân ? Họ là người có thể đối thoại vấn đề không theo giờ giấc nào : nhà thờ có thể đóng cửa theo giờ nhất định, chứ việc đối thoại với vấn đề tục hoá, vật hoá thì không.
Chính trong hoàn cảnh này, lại càng làm nổi rõ hơn “tính tiên phong” của sứ vụ mà Công đồng Vatican II trao cho người giáo dân:
“ Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình, để rao giảng Phúc Âm và thánh hoá nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế …họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.” [x.SLTĐGD,s.2]
3. Một số tính cách đặc thù của sứ vụ người giáo dân :
a. Ở giữa đời, và làm việc đời :
Nên cũng lắm bụi trần. Trước trào lưu “tục hoá, vật hoá“, và những phong trào mới đang và sẽ thành hình, hay những biến đổi xã hội về nhiều mặt… thì giáo dân là người đầu tiên chịu ảnh hưởng, và họ dễ dàng xao xuyến, hay bị tục hoá. Khác với nếp sống giáo sĩ tu sĩ được bảo vệ tách biệt, trong khuôn viên riêng của mình, nên chỉ chịu tác động phần nào. 1
Đời sống xã hội luôn là một dòng chảy, thay đổi không ngừng, nên giáo dân cũng dễ dàng mất phương hướng, không còn đủ khả năng phán đoán giá trị, nếu số vốn giáo lý của họ được hấp thụ từ mấy chục năm trước, nay đã quên hay đã lỗi thời. Rồi trong cuộc đời, tương quan với người khác, và trong môi trường làm việc đời, vốn có những luật riêng của nó. Nên họ rất cần những chỉ dẫn thích hợp để có thể phán đoán các giá trị theo tinh thần Tin Mừng.
Đặc điểm này làm cho những hướng dẫn mục vụ luôn cần được canh tân, để đáp trả cho biến chuyển xã hội. Trong đó, có bài giảng trong thánh lễ của linh mục là một kênh quan trọng nhất. Chính vì thế mà trong bài giảng này, bên cạnh Lời Chúa và giáo huấn Giáo hội, thì không thể không liên hệ tới những âu lo, thao thức hiện sinh của đông đảo giáo dân, bởi linh mục là mục tử của họ [như trong Ez 34, 11-16].
b. Mọi lúc mọi nơi:
Giáo dân có thể có mặt ở mọi phương diện của đời sống con người, từ gia đình đến xã hội, với nhiều nghề nghiệp khác nhau. Nơi họ ở có thể là một khu phố sang trọng, nhưng cũng có thể là xóm nhỏ nghèo nàn với đủ thứ tệ nạn xã hội. Họ có thể có mặt giữa buổi chợ sớm từ 2-3 giờ sáng, hay lặn lội trong đêm kiếm sống do yêu cầu công việc. Họ có thể có mặt trong nhà thờ tu viện, nhưng cũng thường ở một quán nhậu, quán cà phê, ở đấy sẽ có vô số chuyện được bàn đến, mà có thể cần đến “ ý kiến-được đức tin hướng dẫn” của họ. Họ có thể tiếp xúc với mọi hạng người, cả tốt lẫn xấu, cùng tôn giáo hay không…và cũng là lúc họ có thể đối thoại.
Chính vì ở giữa đời nên người giáo dân có thể dễ bị tổn thương về đạo đức luân lý nhất. Nhưng cũng từ vị trí này mà họ có thể trở nên men trong bột, cho mọi người mà người giáo sĩ không thể thay thế họ. Như thế họ có thể hiện diện ở nhiều nơi mà giáo sĩ không thể. Họ có thể làm nhiều việc mà một giáo sĩ không thể làm. Và họ cũng có những ưu tư mà giáo sĩ là người có nếp sống khác khó có thể chia sẻ, nếu không tìm đến và hiểu họ.
Đặc điểm này dẫn đến hệ luận là, trong việc đào tạo người giáo dân có một số yêu cầu khác với việc đào tạo giáo sĩ, tu sĩ, và cần được đầu tư sâu rộng hơn. Lý do, họ như những chiến sĩ ở tiền tuyến, luôn đối diện với sự dữ, họ đông đảo nhất nhưng cũng mong manh nhất. Để giáo dân có thể trở nên men trong bột, họ cần một hành trang gọn nhẹ nhưng hiệu quả, đáp ứng tình hình thực tế, phù hợp giới tính, tuổi, nghề nghiệp. Có thể ví như người y tá biết sơ cấp cứu, chữa bịnh thông thuờng, trước, sau đó nếu cần đưa đến bác sĩ. Làm được điều này sẽ “cứu sống“ nhiều “ca bệnh tinh thần” nếu được điều trị sớm : Như một gia đình bất hoà cần sự hòa giải sớm khi mới bắt đầu [mà số linh mục thì chẳng bao giờ đủ để có mặt những lúc như thế này], nếu không hệ quả ngày một rộng hơn : sẽ là ly dị, con cái thiếu cha mẹ, dễ dàng đến với tệ nạn xã hội, làm số tội phạm gia tăng, rồi lại trở thành một chuỗi tác hại. Nếu tội lỗi, sự dữ được ngăn chận từ trong trứng nước, sẽ giảm rất nhiều công sức sau đó.
c. Tính đa dạng và phân hoá :
Nếu giáo sĩ, tu sĩ là những người được tuyển chọn, và tính cách khá đồng nhất, trình độ khá đồng đều, thì người giáo dân lại khác hẳn: Họ có nhiều nghề nghiệp khác nhau, hoàn cảnh giáo dục và gia đình khác nhau, trình độ rất cách biệt giữa người này với người khác… Nên cũng dễ phân hoá, khó hoà hợp, do thành phần rất đa dạng.
Chính vì thế mà cần có nhiều hình thức cộng đoàn, nhóm khác nhau để có thể tập hợp họ. Không chỉ bằng lòng với những hội đoàn và tình trạng có sẵn mà còn cần những sáng kiến, để có đủ “sân chơi” cho mọi thành phần giáo dân, từ trẻ em cho đến người già. Đặc biệt, do tính phân hoá, đa dạng của họ, nên không thể thiếu sự nối kết, trung gian và điều hoà các sinh hoạt của giáo sĩ, tu sĩ. Điều này đặc biệt quan trọng, vì trong thực tế nhiều cộng đoàn tan vỡ, bất hoà, hay không bền, chỉ vì thiếu sự quan tâm nối kết của linh mục.Tuy nhiên sự tham gia của linh mục không phải là quyết định thay họ, mà cần giúp họ đi đến chỗ trưởng thành và chủ động.
d. Âm thầm làm chứng nhân như men trong bột :
Khác với giáo sĩ, có một chức danh cụ thể trong xã hội, và được xã hội dành cho một sự kính trọng nhất định, người giáo dân không hề có những tính chất này nâng đỡ. Hoạt động chứng nhân của họ diễn ra trong âm thầm, đầy tế nhị. Ngay khi họ muốn làm một việc tốt, cũng có thể bị người chung quanh phản ứng : “Tốt thế sao không đi tu đi!” Đặc biệt trong những môi trường có tính phản kháng mạnh với những giá trị Ki Tô Giáo [như người chung quanh tham nhũng, hối lộ, hay gian dối, lừa lọc..]. Trong những tình huống này họ thường rất cô đơn, như kẻ lội ngược dòng và dễ dàng buông xuôi ý định làm chứng nhân.
Nhưng cũng chính trong cách thế “men trong bột” mà họ có rất nhiều cơ hội để sứ vụ Phúc âm hóa trở nên khả thi và hiệu quả vì không gì lay động bằng gương sáng, mà nhiều môi trường xã hội hiện nay đang rất cần những gương sáng như thế. Về vấn đề này, các thế hệ tín hữu Việt Nam trong thế kỷ 17 đã là một minh chứng. Trong môi trường mà họ là thiểu số, bị coi là xa lạ và đối nghịch, thế mà những tín hữu ấy đã hấp dẫn được những người chung quanh nhờ lòng nhiệt thành bác ái, đến độ được lương dân gọi đạo mà họ theo là là “đạo của những người yêu nhau”1, còn thừa sai Đắc Lộ khen “đứt lưỡi”: “...trong vương quốc này có bao nhiêu bổn đạo, là dường như có bấy nhiêu thiên thần”.
Làm sao người giáo dân có đủ can đảm và bền lòng trong những việc làm chứng nhân âm thầm này, nếu không có sự khích lệ, hỗ trợ thích đáng của người mục tử ? Hay thiếu sự nâng đỡ của cộng đoàn? Ngoài ra, việc đào tạo tinh thần và kỹ năng làm chứng nhân chưa được chú ý (chứ không chỉ là giáo lý chung chung), đang khi đó lại là một kênh quan trọng trong việc Phúc Âm hoá, và cũng là hành trang tối thiểu của người giáo dân.
4. Hàng đầu nhưng mà….có nơi có lúc…
Những mô tả trên hoặc theo văn kiện của Giáo hội, hay những tư tưởng của các nhà thần học, hoặc những hệ luận rút ra từ đó. Trong thực tế, còn nhiều chuyện “nhưng mà“ khác, tất nhiên những điểm nhấn sau đây không là phổ biến, mà “có nơi có lúc” :
--Giáo dân : “Không là hàng nào cả” hay vẫn là dạng tiềm năng :
Trong cách nhìn nghiêng về quyền bính của quan niệm về Giáo hội thời tiền Công đồng thì, giáo dân không ở hàng đầu mà cũng không có hàng nào cả, 1 nếu có lúc là “hàng đầu” thì là trong việc xây nhà thờ, hay có thể góp lợi ích nào đấy cho giáo xứ. Chính vì thế mà có nhiều giáo dân bị bỏ quên, nhiều người trong họ cả năm không đối diện với mục tử của mình lấy một lần, lý do trước tiên là hoặc họ là người vô danh, hoặc là họ không có nhu cầu [đúng hơn, có mà không ý thức]. Họ như người bên lề của các sinh hoạt giáo hội, ngoại trừ giữ luật Hội Thánh tối thiểu. Trong cách nhìn phẩm trật quyền bính này, với người giáo dân, cả những giáo dân đang phục vụ giáo xứ, thì vị linh mục chính là giáo hội. Nên họ thụ động, không có sáng kiến, mà cũng chẳng cần học hỏi gì thêm, tất cả được cha sở bao cấp, quyết định thay [mặt nào đó giống như tình trạng kinh tế bao cấp của xã hội trước đây]. Kết quả giáo xứ thăng trầm tùy theo tính cách riêng của vị linh mục. Khi vị này thay đổi nhiệm sở thì sẽ có một số hoạt động nào đó của giáo xứ không được quan tâm…
Cũng từ tương quan “bao cấp” giữa linh mục và giáo dân phát sinh nhiều vấn đề khác:
--Có nơi chưa tin tưởng người giáo dân đủ :
Chuyện kể, khi một nhóm giáo dân đến cha sở xin lập nhóm “Chia sẻ Lời Chúa”và nhờ ngài hướng dẫn, có vị linh mục kia không rõ vì lý do gì đã “phán” : Giáo dân biết gì mà chia sẻ, tôi đây học cả chục năm còn thấy khó nữa là. Tất nhiên sự cẩn trọng của vị này là cần thiết. Quả là trình độ Kinh thánh, giáo lý của giáo dân có yếu thật; nhưng ngài lại chỉ có một mình, phải làm sao đây? Nhóm ấy vì nhu cầu, nên đành hoạt động riêng với nhau, nhưng vẫn còn tồn tại dai dẳng dù không phát triển.
--Còn nhiều giáo dân mặc cảm :
Do không tin tưởng có thể đào tạo họ thành những người cộng tác trong việc mục vụ, nên vẫn còn nhiều giáo dân thụ động, phó mặc cho linh mục “giảng, dậy ” cho được bao nhiêu hay bấy nhiêu, và họ cũng không chủ động học hỏi thêm. Các văn kiện Công đồng, đặc biệt như Hiến chế Giáo hội, Hiến chế Mục vụ, Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo dân, hay Tông huấn Loan báo Tin Mừng dẫu đã có 30-40 năm rồi, nhưng xem ra còn xa lạ với nhiều người giáo dân.
--Không tìm ra người có khả năng :
Có lẽ ở mức độ nào đó giáo xứ thiếu người vừa có thiện chí vừa có khả năng. Nhưng số người thiện chí vẫn khá đông. Vấn đề là đào tạo cho họ. Ngoài ra còn vấn đề là “không có người hay có người mà ta không biết hay cách vận dụng không thích hợp?“ Nếu cứ giữ tương quan bao cấp, bảo sao nghe vậy, thì sẽ mất nhiều nhân tài, hay không được họ cộng tác.
--Giáo dân không chịu học :
Quả là việc giáo dân đã lớn tuổi, bận rộn gia đình và sinh kế, chưa kể là mặt bằng trình độ chung còn thấp, nên việc học giáo lý, Kinh thánh với họ cả là một vất vả và hy sinh. Tuy nhiên vấn đề còn có thể là “nội dung và phương pháp giảng dậy có phù hợp với họ không?”, nội dung ấy có được cụ thể hoá và liên hệ với đời sống họ hay không? Trình độ họ kém, lại càng cần áp dụng những phương pháp sư phạm thích đáng, và vận dụng những phương tiện nghe nhìn, mà giáo xứ nào cũng có thể trang bị được. Ngoài ra, nội dung đào tạo cho giáo dân cần đa dạng và cụ thể, thích ứng với vai trò giữa đời của họ, chứ không chỉ là một tóm lược giáo trình đào tạo giáo sĩ.
Còn số giáo dân chịu khó học cũng không phải là ít, người ta có thể thấy điều này ở nhiều lớp học, trong đó có cả những mái đầu bạc. Cho thấy hôm nay vẫn còn là, “Nhiệt thành lắm, Bổn đạo Việt Nam” [từ của cha Đỗ Quang Chính].
--Một ơn gọi còn bị bỏ quên trong thực tế :
Các trích dẫn trên cho thấy, giáo dân có một ơn gọi riêng [tức sứ vụ], mà trong nhiều trường hợp giáo sĩ không thể thay thế. Nhưng trong thực tế ơn gọi ấy có nơi bị bỏ quên. Không hiểu sao, đã thành một thói quen, khi nói đến ơn gọi là người ta liên tưởng ngay đến việc “đi tu”. Nhiều nơi, trong ngày Khánh Nhật Truyền giáo,[mà thường cũng chỉ vào ngày này] hai nội dung quen thuộc thường được nhắc đến là cầu nguyện và góp công góp của cho việc truyền giáo một cách chung chung, và cầu nguyện có thêm người “đi tu”. Tất nhiên đó việc cần thiết, nhưng nếu chỉ thế thì chưa đủ, vì đã bỏ quên một khả năng rất lớn, là tầng lớp giáo dân.
Nên rất đông giáo dân vẫn cứ đang là người của “giờ thứ mười một“ [5 giờ chiều] trong vườn nho của Chúa, phần họ thì đứng ngay vườn nho cả ngày như kẻ vô công rỗi nghề, đơn giản “ Vì không ai mướn chúng tôi” [Mt,20, 6-7]. Còn Ông Chủ ngạc nhiên :” Sao các anh đứng đây suốt ngày mà không làm gì hết ?“ Đức Giáo hoàng Gioan Phalô II đã dùng đoạn Kinh thánh trên để nhấn mạnh đến ơn gọi của người giáo dân trong thế giới :
“Ngày nay trong Hội Thánh cũng như trong những thực tại văn hoá, kinh tế, chính trị và văn hoá có những hoàn cảnh mới mẻ đang đòi hỏi hoạt động của các giáo dân một cách hết sức đặc biệt. Nếu trước đây thái độ thờ ơ đối với những đòi hỏi đó vẫn luôn không thể chấp nhận được, thì ngày nay thái độ ấy lại càng đáng khiển trách hơn bao giờ hết. Không ai được phép ở yên mà không làm gì “….“Không có chỗ cho việc ăn không ngồi rồi, trong khi còn biết bao công việc đang chờ đợi tất cả chúng ta trong vườn nho của Chúa. Ông Chủ vườn đang lập lại một cách khẩn thiết hơn nữa :”Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi” (Tông huấn Ki Tô hữu Giáo dân, số 3)
Trời đã về chiều, mà vườn nho sai trái đang chờ, không hái kịp sẽ thất thu. Ông Chủ sốt ruột.
Có lẽ những bất cập của quan niệm “bao cấp sứ vụ” trên đang được đáp ứng dần. Bởi nếu cứ giữ lối nhìn này, thì người giáo dân vẫn cứ là lệ thuộc, dù có nhiều người thiện chí, nhiệt thành, (như từng có và luôn có) nhưng vẫn cứ ở dạng tiềm năng, nếu không được khai thác, và sẽ khó có thể có một hàng ngũ giáo dân trưởng thành, như mong muốn của Công đồng:
5. Một “hàng đầu trưởng thành” :
Công đồng Vatican II không chỉ ra một sắc lệnh riêng cho việc tông đồ giáo dân, mà còn dành nhiều trang trong Sắc Lệnh Truyền giáo, nhắc đến vai trò thiết yếu của họ :
“Giáo hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Ki Tô giữa loài người, nếu như chưa có hàng giáo dân đích thực, và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với hàng giáo phẩm. Thật vậy, Phúc Âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập, Giáo hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Ki Tô Giáo trưởng thành “ [SL Truyền giáo, số 21]
Sứ vụ Phúc Âm hoá, canh tân trật tự trần thế mà giáo hội trao cho giáo dân, sẽ khả thi hơn khi có hàng ngũ giáo dân như thế. Và hàng ngũ giáo dân ấy chỉ có thể hiểu và được đón nhận trong tương quan hũu cơ với quan niệm về Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa, hiệp thông trong một Nhiệm thể : Mọi người, giáo sĩ cũng như giáo dân là chi thể của nhau : “Chúng ta tuy nhiều người, nhưng cùng là một thân thể trong Đức Ki Tô, còn thì ai tùy phận nấy mà làm chi thể cho nhau“ [Rm 12,5]. Một chi thể tổn thương do “tục hoá, vật hoá” thì cả thân thể sẽ cùng đồng cảm : kẻ thì cầu nguyện, người làm ngôn sứ, người thì góp công phục vụ, kẻ làm thầy dậy, người khuyến khích [Rm 12,6-7, Ep 4,16], tất cả để “xây dựng Thân mình Đức Ki Tô.
Hay nói theo ngôn ngữ bóng đá, giáo dân và linh mục như một đội bóng2, mà linh mục là huấn luyện viên, giáo dân là cầu thủ. Đội bóng có thành tích hay không, tùy vào mọi thành viên của đội. Mỗi vị trí yếu kém sẽ ảnh hưởng toàn đội, nên cầu thủ cần được chăm sóc về mọi mặt, từ chiến thuật đến miếng ăn giấc ngủ, và không thể thiếu những lời khích lệ. Linh mục “huấn luyện viên” là linh hồn của đội bóng, vạch ra chiến thuật, chỉ ra những thiếu sót, bám sát sinh hoạt của mỗi cầu thủ, hiểu tâm tư thao thức của họ..Nhưng sẽ không thể đá thay họ. Và cũng như trong thực tế, thành bại của đội bóng, người đầu tiên được nhắc đến sẽ là linh mục “huấn luyện viên”.
Nếu như đó đây còn cách nhìn giáo hội theo tương quan quyền bính, giáo dân và linh mục có quan hệ “ bao cấp”, thì cũng có nghĩa là quan niệm Giáo hội là Mầu nhiệm Hiệp thông 1 là Cộng đoàn Dân Chúa chưa được áp dụng hay thể hiện trong đời sống. Có một thực tế bất ngờ là: còn nhiều giáo dân chưa biết đến quan niệm này, dẫu đã được Giáo hội long trọng công bố từ 40 năm về trước.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Giáo hội tại Á Châu đã ghi nhận :
“Nói tới sự hiệp thông Giáo hội là ngụ ý bảo rằng mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành cái mà các Nghị phụ Thượng Hội đồng gọi là “Giáo hội Tham gia “, tức là một Giáo hội trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của mình, và thi hành đúng vai trò riêng của mình….Cách riêng cần cổ võ sự tham gia nhiều hơn nữa của giáo dân và các người tận hiến trong việc lập kế hoạch mục vụ …Tại mỗi giáo phận, giáo xứ vẫn là nơi thông thường cho tín hữu quy tụ lại để được lớn lên trong Đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo hội và tham gia sứ mạng của Giáo hội. “ [sđd, số 25].
6. Kết.
--Giáo dân được giáo hội có Đức Ki Tô là đầu, giao cho sứ vụ, đó là:
“ Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình, để rao giảng Phúc Âm và thánh hoá nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế …họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.” [x.SLTĐGD,s.2]
--Sứ vụ này làm cho họ có vai trò tiên phong, hàng đầu trong Giáo hội. Hiểu theo nghĩa Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa, là Mầu nhiệm Hiệp thông.
--Để thi hành sứ vụ ấy, họ cần tự học hỏi và trưởng thành, cũng như cần được đầu tư, chăm sóc “phần hồn cũng như phần xác“, và sự khích lệ nhiều mặt từ Giáo hội.
--Không ảo tưởng cứ có Công đồng Vatican II là ai nấy sẽ hiểu, và diễn biến như mong ước. Mà đó đây còn những “tồn tại” trì kéo, giam hãm, bởi hơn 10 thế kỷ ảnh hưởng của quan niệm thời Trung cổ về Giáo hội, đã hằn sâu trong tư tưởng, đã thành quán tính, nên không thể một sớm một chiều mà tất cả thoát ra được. Nhưng khi nhận ra mấu chốt của vấn đề, biết mình đang bị “trói”, là lúc có thể vượt qua quán tính, và cũng là lúc, linh mục và giáo dân cảm thông những giới hạn của nhau hơn. Giáo hội cần nhiều người có “tâm”, nhưng còn phải có “tầm”, bởi thiện chí thôi chưa đủ.
--Lời cuối : Khi có thêm một giáo dân trưởng thành, là lúc các linh mục ít phải ngồi toà giải tội hơn, thiên đàng mừng vui vì có những người tội lỗi trở lại, và xã hội sẽ bớt đi những nhà giam hay trại giáo dưỡng.
Mai Khôi, ngày 13/6/2004
SỨ VỤ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG THỜI ĐẠI MỚI
(Sau cuộc Toạ đàm “ SỐNG ĐẠO THEO CUNG CÁCH VIỆT NAM” diễn ra ở Huế từ 22-24/4/2004)
Bài chia sẻ sau không là một bài độc lập, mà có liên hệ với một số ý tưởng và sự kiện đã diễn ra trong cuộc toạ đàm, như một dư âm còn đọng lại thành những phản hồi.
Như đã nhiều người biết, cuộc toạ đàm, có chủ đề “Sống Đạo Theo Cung Cách Việt Nam “. Tên là thế, nhưng không hẹn mà gặp là tất cả 8 bài thuyết trình đều chỉ về một chủ thể có tên gọi là người giáo dân. Một lý do đơn giản là người giáo dân là thành phần đông nhất (99,9%) của giáo hội 1. Như thế, vô hình chung, trả lời phần nào cho nỗi buồn sau 40 năm sau Công đồng Vatican II của linh mục Nguyễn thái Hợp : rằng bây giờ giáo dân xếp ở hàng nào? Xin thưa giáo dân vẫn có vai trò hàng đầu. Hàng đầu ở đây không phải là vị trí trong mô hình kim tự tháp trước Vatican II về giáo hội, mà là ở vai trò của họ : vừa có tính tiên phong vừa có tầm quan trọng, đặc biệt trong thế giới hiện đại.
1. Vai trò hàng đầu của người giáo dân :
Một trong những thành quả quan trọng của công đồng Vatican II là việc khẳng định và đề cao những tái khám phá từ đầu thế kỷ 20 về vai trò và vị trí người giáo dân trong giáo hội và thế giới. Chính vì thế mà lần đầu tiên một công đồng toàn cầu dành hẳn một chương trong Hiến chế Giáo hội, hay nhiều lần nói về vai trò của họ trong Hiến chế Mục vu, và một sắc lệnh riêng về hoạt động tông đồ giáo dân, gần đây [1987] còn có thêm Tông huấn Kitô hữu Giáo dân của đức Gioan Phaolô II.
Khi công đồng xác định Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa và xây dựng một nền thần học về giáo dân, đã làm nổi lên vị trí đặc biệt của người giáo dân, mà trong rất nhiều trường hợp “Giáo hội sẽ khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác [SLTĐGD,s.1].
Công đồng cũng khẳng định người giáo dân có một ơn gọi riêng : “Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa“ [HCGH,s.31]. Họ còn được kêu gọi thông phần với sứ mạng cứu độ của giáo hội bằng đời sống nhân chứng, canh tân trật tự trần thế, bằng các việc tông đồ, kể cả việc cộng tác trực tiếp với hàng giáo phẩm [sdd, s.33].
Hai mươi năm sau Công đồng, quan niệm trên còn được Giáo hội “luật hoá” trong nhiều điều khoản của Bộ Giáo luật 1983, có thể tóm tắt như sau:
Theo đó, Giáo hội được thiết lập và tổ chức như một xã hội, trong đó các tín hữu là người nhờ phép Rửa Tội, được hiệp thân với Đức Ki Tô, được tham gia theo cách thế riêng vào chức vụ tư tế, sứ ngôn và vương giả của Đức Ki Tô [điều 204]. Trong giáo hội có hai thành phần tín hữu, một là các thừa tác viên có chức thánh được gọi là giáo sĩ, còn các người khác được gọi là giáo dân [điều 207]. Trong giáo hội các thành phần này đều bình đẳng với nhau về phẩm giá và hành động, nhờ sự bình đẳng này, các tín hữu cộng tác với nhau xây dựng thân thể Đức Ki Tô [điều 208].
Trong tư cách là tín hữu, họ có bổn phận sống thánh thiện, chuyên cần học hỏi, loan báo Tin Mừng, hiệp thông trong giáo hội [điều 209-211] và chu cấp cho các nhu cầu giáo hội [điều 222]. Họ có quyền trình bầy ý kiến với Chủ chăn, và lập hiệp hội có mục đích đạo đức và từ thiện. Họ có quyền được lãnh nhận bí tích, quyền được giáo huấn và sự hỗ trợ của chủ chăn [điều 213-217].
“Giáo dân có phận sự riêng là phải làm thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm, và như vậy họ làm chứng cho Đức Ki Tô cách đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như khi thi hành các chức vụ trên đời” [điều 225]. Ngoài ra tùy theo khả năng, tư cách, mà họ có thể được Chủ chăn mời cộng tác trong các chức vụ của giáo hội [điều 228], trong phụng vụ [điều 230].
Để thi hành phận sự ấy, người giáo dân “có nghĩa vụ và quyền lợi thủ đắc sự hiểu biết đạo lý” và những thánh khoa của giáo hội, và lấy bằng cấp chuyên môn. Khi học xong họ có năng cách để được ủy quyền giảng dậy [điều 229].
Cần ghi nhận thêm: nếu Bộ Giáo luật 1917 chỉ có 14 điều khoản minh nhiên nói về người giáo dân thì trong Bộ Giáo luật 1983, dù ngắn hơn, lại có đến hơn 200 điều khoản (trong số 1752 điều) đề cập đến họ trong tư cách người Kitô hữu và giáo dân. Sở dĩ có sự khác biệt này là do chuyển biến quan niệm về giáo hội sau công đồng Vatican II, từ chỗ một Giáo hội học nhấn mạnh đến cơ cấu, phẩm trật; sang Giáo hội hiệp thông, Giáo hội là nhiệm thể của Đức Kitô, Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa.
Thật ra, mặt nào đó, những quan niệm trên được gọi là mới, nhưng mới với 10 thế kỷ Trung cổ, hay mới trong ngôn ngữ trình bầy, chứ không mới với tinh thần Tin Mừng. Tất cả như một tái khám phá và trả lại cho người giáo dân căn tính vốn có của họ : Đó là căn tính người Ki Tô hữu, tức người đi theo Đức Ki Tô, như họ đã luôn có mặt và góp phần quan trọng trong lịch sử giáo hội, đặc biệt trong giáo hội thời sơ khởi. Tuy nhiên trong nhiều thế kỷ, nhất là thời Trung cổ, vì nhiều lý do, vai trò người giáo dân bị coi nhẹ, hay lãng quên, nên đã bị mất đi nguồn năng lực lớn lao này1. Trong thế kỷ 20, vai trò của họ được phục hồi và được nhìn nhận một cách nền tảng hơn. Những phong trào tông đồ giáo dân xuất hiện trong thế kỷ tục hoá này đã chứng tỏ rằng họ ngày càng trở nên rất cần thiết trong nhiều hoàn cảnh tục hoá và trong những môi trường, mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ. (2)
Họ đã góp phần đáng kể trong nhiều lãnh vực, cho sứ mạng tông đồ của giáo hội, như công đồng Vatican II đã ghi nhận :
“Giáo dân thi hành việc tông đồ muôn mặt của mình trong giáo hội cũng như giữa đời…góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, ngôn sứ và vương giả. Trong những cộng đoàn Giáo hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các vị chủ chăn thường không thể đạt được đầy đủ kết quả“ [SL TĐGD, số 9-10].
Ấy là quan niệm chính thức của Giáo hội 20 năm, 40 năm về trước. Còn ngày nay? Trong bối cảnh thời hiện đại lại càng lộ rõ hơn vai trò người giáo dân.
2.Vai trò giáo dân càng đặc biệt trong hoàn cảnh thời đại :
Thế kỷ 21 nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với những bước tiến khoa học kỹ thuật mà không ai có thể tưởng tượng nổi, thế nhưng không vì thế mà bớt đi đói nghèo, bất công xã hội ngày càng lớn, giữa người dân trong một nước, giữa quốc gia này với quốc gia khác. Thế giới có thể giàu hơn xưa gấp bội, thế nhưng không vì thế mà phẩm giá con người nâng lên tương xứng, nếu không muốn nói có mặt còn thụt lùi. Thời nào cũng thế, luôn có “bóng tối và ánh sáng“ đan xen. Nhưng trong thời hiện đại, nhiều vấn đề trở nên cấp thiết, do ảnh hưởng của sự “toàn cầu hoá” của công nghệ thông tin. Trong phạm vi bài này, xin nói riêng về mảng tối của thời hiện đại về phương diện đạo đức luân lý, để làm nổi bật sứ vụ của người giáo dân: Đó là thời phong trào tục hoá tiếp tục phát triển, tiến dần hơn đến chỗ sùng bái vật chất, gần như một “tôn giáo”, chủ nghĩa cá nhân được đề cao và đặc biệt được lan nhanh do trào lưu “toàn cầu hoá”.
Hơn ai hết người giáo dân đặc biệt cảm nhận rõ nhất về tình trạng trên diễn ra hàng ngày quanh họ, mà các giáo sĩ, tu sĩ được “bảo vệ” bằng khuôn viên nhà xứ hay tu viện không thể cảm nhận đầy đủ. Một vài dẫn chứng nhỏ : một cháu bé lên ba, nhất định chỉ uống sữa của hãng X, vì ấn tượng quảng cáo, hay nhiều bạn trẻ bằng mọi giá phải có cho được “con” xe cái áo kiểu này, vì như thế mới là sành điệu, hay các ông thì cứ phải uống bia hãng Y thì mới là “ ai cũng phải ngước nhìn”… Trong gia đình một ý nghĩ thường đến là : Người ta có sao mình không có ? thế là có cuộc “chạy đua” sùng bái vật chất.
Cách nay 40 năm, ở một giáo xứ nọ, ai đi tắm ở hồ bơi về phải xưng tội, vì ở đấy có các cô mặc áo tắm hai mảnh, còn cô nào đi tắm như thế thì quả là một chuyện gây sốc. Nhưng nay thì xem là sự thường, và lệnh cấm trên nếu có, sẽ như một chuyện khôi hài, bởi lẽ những hình ảnh “mát mẻ” ấy có đầy và còn hơn thế trên truyền hình rồi, chưa kể những phim sex mà người ta có thể tìm được dễ dàng. Hay như hơn 20 năm trước đây xã hội phê phán phim chưởng là bạo lực suy đồi, còn thi hoa hậu là “kinh doanh trên thân xác phụ nữ”. Thì nay đã khác hẳn, thậm chí có cả một cuộc thi hoa hậu học trò. Hay chỉ hơn hai thập kỷ trước, người ta còn phải ăn độn ngô khoai, nay thì khắp các thành phố người ta có thể gặp những quán bia ôm, cà phê ôm, thậm chí rượu đế ôm, và nhiều biến tuớng khác.
Tất cả những thí dụ này, tuy không minh nhiên nói ra, nhưng đều có hàm ý rằng : “Cần gì phải ngẩng lên trời tìm một hạnh phúc xa xôi, hãy tự vui và tận hưởng những gì đang có, đó là sự thể hiện sự hiện hũu của con người, tại sao lại phải tự trói mình vào những nghĩa vụ đạo đức, luân lý… Tôi muốn tôi là tôi, một người cụ thể với đủ mọi ham muốn, còn chuyện con người là “hình ảnh của Thiên Chúa được” chỉ là trò chơi trí tuệ của các nhà thần học mà thôi…”
Một vài thí dụ nhỏ trên cho thấy mức độ tục hoá và sùng bái vật chất diễn ra rất nhanh và liên tục mọi lúc mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, từ phố xá sang trọng cho đến ngõ hẻm tồi tàn, gần như không có vùng cấm nào cả. Ngay cả trong những lãnh vực vốn được xã hội trân trọng nhất là ngành giáo dục và y tế, vẫn có sự xâm nhập của trào lưu này, và không có xã hội nào được miễn trừ, như đã có thể xẩy ra cho một xã hội đã từng một thời được coi là “đạo mạo, khả kính“. Một câu vè hiện đại minh hoạ cho thấy sức phổ biến của trào lưu này: “tiền là tiên là phật, là sức bật tuổi già, là đà danh vọng…”
Trong Tông huấn Người Kitô hữu Giáo dân [s. 3-4] Đức Gioan Phaolô II đã thao thức về thế giới hiện đại, như sau :
“Một thế giới mà những hoàn cảnh kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá đặt ra rất nhiều vấn đề và nhiều khó khăn còn trầm trọng hơn cả những vấn đề được Công đồng trình bày trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng… Làm sao sao không nghĩ đến sự gia tăng thái độ dửng dưng với tôn giáo và thuyết vô thần dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là khuynh hướng duy thế tục mà có lẽ đang phổ biến nhất hiện nay? …Thật thế khuynh hướng duy thế tục hiện nay là một hiện tượng rất trầm trọng, nó không còn là chuyện cá nhân nhưng liên quan đến cả cộng đồng, như Công đồng đã ghi nhận : “số người bỏ thực hành đạo ngày càng tăng“. Chính tôi đã nhắc tới trong nhiều lần khác: hiện tượng tục hoá đã tác động nơi các dân tộc vốn là tín hữu từ thời xa xưa, và hiện trạng này đòi hỏi thực hiện liên tục một công cuộc tái Phúc Âm hoá”.
Đức Gioan Phaolô còn khái quát về tình trạng trên bằng cụm từ “sự đánh mất cảm thức về tội lỗi”, “văn hoá của sự chết”. Hay nói theo ngôn ngữ y học, đó là một thứ bệnh “AIDS -đạo đức luân lý”, tức “hội chứng suy giảm sức đề kháng với tội lỗi”. Nên người ta sống chung với tội một cách “vô tư”. Thứ bệnh “AIDS tinh thần” này cũng lây lan không kém gì bệnh AIDS thể xác.
Trong bối cảnh tục hoá, “vật hoá” liên tục phát triển này, sứ vụ Giáo hội loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân “cho đến tận cùng trái đất“ [Cv 1,8b] càng trở nên khó khăn và khẩn thiết hơn bao giờ. Làm sao Giáo hội có thể có mặt đầy đủ “mọi lúc mọi nơi” cho tương ứng với trào lưu tục hoá, vật hoá trên, nếu không có người giáo dân ? Họ là người có thể đối thoại vấn đề không theo giờ giấc nào : nhà thờ có thể đóng cửa theo giờ nhất định, chứ việc đối thoại với vấn đề tục hoá, vật hoá thì không.
Chính trong hoàn cảnh này, lại càng làm nổi rõ hơn “tính tiên phong” của sứ vụ mà Công đồng Vatican II trao cho người giáo dân:
“ Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình, để rao giảng Phúc Âm và thánh hoá nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế …họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.” [x.SLTĐGD,s.2]
3. Một số tính cách đặc thù của sứ vụ người giáo dân :
a. Ở giữa đời, và làm việc đời :
Nên cũng lắm bụi trần. Trước trào lưu “tục hoá, vật hoá“, và những phong trào mới đang và sẽ thành hình, hay những biến đổi xã hội về nhiều mặt… thì giáo dân là người đầu tiên chịu ảnh hưởng, và họ dễ dàng xao xuyến, hay bị tục hoá. Khác với nếp sống giáo sĩ tu sĩ được bảo vệ tách biệt, trong khuôn viên riêng của mình, nên chỉ chịu tác động phần nào. 1
Đời sống xã hội luôn là một dòng chảy, thay đổi không ngừng, nên giáo dân cũng dễ dàng mất phương hướng, không còn đủ khả năng phán đoán giá trị, nếu số vốn giáo lý của họ được hấp thụ từ mấy chục năm trước, nay đã quên hay đã lỗi thời. Rồi trong cuộc đời, tương quan với người khác, và trong môi trường làm việc đời, vốn có những luật riêng của nó. Nên họ rất cần những chỉ dẫn thích hợp để có thể phán đoán các giá trị theo tinh thần Tin Mừng.
Đặc điểm này làm cho những hướng dẫn mục vụ luôn cần được canh tân, để đáp trả cho biến chuyển xã hội. Trong đó, có bài giảng trong thánh lễ của linh mục là một kênh quan trọng nhất. Chính vì thế mà trong bài giảng này, bên cạnh Lời Chúa và giáo huấn Giáo hội, thì không thể không liên hệ tới những âu lo, thao thức hiện sinh của đông đảo giáo dân, bởi linh mục là mục tử của họ [như trong Ez 34, 11-16].
b. Mọi lúc mọi nơi:
Giáo dân có thể có mặt ở mọi phương diện của đời sống con người, từ gia đình đến xã hội, với nhiều nghề nghiệp khác nhau. Nơi họ ở có thể là một khu phố sang trọng, nhưng cũng có thể là xóm nhỏ nghèo nàn với đủ thứ tệ nạn xã hội. Họ có thể có mặt giữa buổi chợ sớm từ 2-3 giờ sáng, hay lặn lội trong đêm kiếm sống do yêu cầu công việc. Họ có thể có mặt trong nhà thờ tu viện, nhưng cũng thường ở một quán nhậu, quán cà phê, ở đấy sẽ có vô số chuyện được bàn đến, mà có thể cần đến “ ý kiến-được đức tin hướng dẫn” của họ. Họ có thể tiếp xúc với mọi hạng người, cả tốt lẫn xấu, cùng tôn giáo hay không…và cũng là lúc họ có thể đối thoại.
Chính vì ở giữa đời nên người giáo dân có thể dễ bị tổn thương về đạo đức luân lý nhất. Nhưng cũng từ vị trí này mà họ có thể trở nên men trong bột, cho mọi người mà người giáo sĩ không thể thay thế họ. Như thế họ có thể hiện diện ở nhiều nơi mà giáo sĩ không thể. Họ có thể làm nhiều việc mà một giáo sĩ không thể làm. Và họ cũng có những ưu tư mà giáo sĩ là người có nếp sống khác khó có thể chia sẻ, nếu không tìm đến và hiểu họ.
Đặc điểm này dẫn đến hệ luận là, trong việc đào tạo người giáo dân có một số yêu cầu khác với việc đào tạo giáo sĩ, tu sĩ, và cần được đầu tư sâu rộng hơn. Lý do, họ như những chiến sĩ ở tiền tuyến, luôn đối diện với sự dữ, họ đông đảo nhất nhưng cũng mong manh nhất. Để giáo dân có thể trở nên men trong bột, họ cần một hành trang gọn nhẹ nhưng hiệu quả, đáp ứng tình hình thực tế, phù hợp giới tính, tuổi, nghề nghiệp. Có thể ví như người y tá biết sơ cấp cứu, chữa bịnh thông thuờng, trước, sau đó nếu cần đưa đến bác sĩ. Làm được điều này sẽ “cứu sống“ nhiều “ca bệnh tinh thần” nếu được điều trị sớm : Như một gia đình bất hoà cần sự hòa giải sớm khi mới bắt đầu [mà số linh mục thì chẳng bao giờ đủ để có mặt những lúc như thế này], nếu không hệ quả ngày một rộng hơn : sẽ là ly dị, con cái thiếu cha mẹ, dễ dàng đến với tệ nạn xã hội, làm số tội phạm gia tăng, rồi lại trở thành một chuỗi tác hại. Nếu tội lỗi, sự dữ được ngăn chận từ trong trứng nước, sẽ giảm rất nhiều công sức sau đó.
c. Tính đa dạng và phân hoá :
Nếu giáo sĩ, tu sĩ là những người được tuyển chọn, và tính cách khá đồng nhất, trình độ khá đồng đều, thì người giáo dân lại khác hẳn: Họ có nhiều nghề nghiệp khác nhau, hoàn cảnh giáo dục và gia đình khác nhau, trình độ rất cách biệt giữa người này với người khác… Nên cũng dễ phân hoá, khó hoà hợp, do thành phần rất đa dạng.
Chính vì thế mà cần có nhiều hình thức cộng đoàn, nhóm khác nhau để có thể tập hợp họ. Không chỉ bằng lòng với những hội đoàn và tình trạng có sẵn mà còn cần những sáng kiến, để có đủ “sân chơi” cho mọi thành phần giáo dân, từ trẻ em cho đến người già. Đặc biệt, do tính phân hoá, đa dạng của họ, nên không thể thiếu sự nối kết, trung gian và điều hoà các sinh hoạt của giáo sĩ, tu sĩ. Điều này đặc biệt quan trọng, vì trong thực tế nhiều cộng đoàn tan vỡ, bất hoà, hay không bền, chỉ vì thiếu sự quan tâm nối kết của linh mục.Tuy nhiên sự tham gia của linh mục không phải là quyết định thay họ, mà cần giúp họ đi đến chỗ trưởng thành và chủ động.
d. Âm thầm làm chứng nhân như men trong bột :
Khác với giáo sĩ, có một chức danh cụ thể trong xã hội, và được xã hội dành cho một sự kính trọng nhất định, người giáo dân không hề có những tính chất này nâng đỡ. Hoạt động chứng nhân của họ diễn ra trong âm thầm, đầy tế nhị. Ngay khi họ muốn làm một việc tốt, cũng có thể bị người chung quanh phản ứng : “Tốt thế sao không đi tu đi!” Đặc biệt trong những môi trường có tính phản kháng mạnh với những giá trị Ki Tô Giáo [như người chung quanh tham nhũng, hối lộ, hay gian dối, lừa lọc..]. Trong những tình huống này họ thường rất cô đơn, như kẻ lội ngược dòng và dễ dàng buông xuôi ý định làm chứng nhân.
Nhưng cũng chính trong cách thế “men trong bột” mà họ có rất nhiều cơ hội để sứ vụ Phúc âm hóa trở nên khả thi và hiệu quả vì không gì lay động bằng gương sáng, mà nhiều môi trường xã hội hiện nay đang rất cần những gương sáng như thế. Về vấn đề này, các thế hệ tín hữu Việt Nam trong thế kỷ 17 đã là một minh chứng. Trong môi trường mà họ là thiểu số, bị coi là xa lạ và đối nghịch, thế mà những tín hữu ấy đã hấp dẫn được những người chung quanh nhờ lòng nhiệt thành bác ái, đến độ được lương dân gọi đạo mà họ theo là là “đạo của những người yêu nhau”1, còn thừa sai Đắc Lộ khen “đứt lưỡi”: “...trong vương quốc này có bao nhiêu bổn đạo, là dường như có bấy nhiêu thiên thần”.
Làm sao người giáo dân có đủ can đảm và bền lòng trong những việc làm chứng nhân âm thầm này, nếu không có sự khích lệ, hỗ trợ thích đáng của người mục tử ? Hay thiếu sự nâng đỡ của cộng đoàn? Ngoài ra, việc đào tạo tinh thần và kỹ năng làm chứng nhân chưa được chú ý (chứ không chỉ là giáo lý chung chung), đang khi đó lại là một kênh quan trọng trong việc Phúc Âm hoá, và cũng là hành trang tối thiểu của người giáo dân.
4. Hàng đầu nhưng mà….có nơi có lúc…
Những mô tả trên hoặc theo văn kiện của Giáo hội, hay những tư tưởng của các nhà thần học, hoặc những hệ luận rút ra từ đó. Trong thực tế, còn nhiều chuyện “nhưng mà“ khác, tất nhiên những điểm nhấn sau đây không là phổ biến, mà “có nơi có lúc” :
--Giáo dân : “Không là hàng nào cả” hay vẫn là dạng tiềm năng :
Trong cách nhìn nghiêng về quyền bính của quan niệm về Giáo hội thời tiền Công đồng thì, giáo dân không ở hàng đầu mà cũng không có hàng nào cả, 1 nếu có lúc là “hàng đầu” thì là trong việc xây nhà thờ, hay có thể góp lợi ích nào đấy cho giáo xứ. Chính vì thế mà có nhiều giáo dân bị bỏ quên, nhiều người trong họ cả năm không đối diện với mục tử của mình lấy một lần, lý do trước tiên là hoặc họ là người vô danh, hoặc là họ không có nhu cầu [đúng hơn, có mà không ý thức]. Họ như người bên lề của các sinh hoạt giáo hội, ngoại trừ giữ luật Hội Thánh tối thiểu. Trong cách nhìn phẩm trật quyền bính này, với người giáo dân, cả những giáo dân đang phục vụ giáo xứ, thì vị linh mục chính là giáo hội. Nên họ thụ động, không có sáng kiến, mà cũng chẳng cần học hỏi gì thêm, tất cả được cha sở bao cấp, quyết định thay [mặt nào đó giống như tình trạng kinh tế bao cấp của xã hội trước đây]. Kết quả giáo xứ thăng trầm tùy theo tính cách riêng của vị linh mục. Khi vị này thay đổi nhiệm sở thì sẽ có một số hoạt động nào đó của giáo xứ không được quan tâm…
Cũng từ tương quan “bao cấp” giữa linh mục và giáo dân phát sinh nhiều vấn đề khác:
--Có nơi chưa tin tưởng người giáo dân đủ :
Chuyện kể, khi một nhóm giáo dân đến cha sở xin lập nhóm “Chia sẻ Lời Chúa”và nhờ ngài hướng dẫn, có vị linh mục kia không rõ vì lý do gì đã “phán” : Giáo dân biết gì mà chia sẻ, tôi đây học cả chục năm còn thấy khó nữa là. Tất nhiên sự cẩn trọng của vị này là cần thiết. Quả là trình độ Kinh thánh, giáo lý của giáo dân có yếu thật; nhưng ngài lại chỉ có một mình, phải làm sao đây? Nhóm ấy vì nhu cầu, nên đành hoạt động riêng với nhau, nhưng vẫn còn tồn tại dai dẳng dù không phát triển.
--Còn nhiều giáo dân mặc cảm :
Do không tin tưởng có thể đào tạo họ thành những người cộng tác trong việc mục vụ, nên vẫn còn nhiều giáo dân thụ động, phó mặc cho linh mục “giảng, dậy ” cho được bao nhiêu hay bấy nhiêu, và họ cũng không chủ động học hỏi thêm. Các văn kiện Công đồng, đặc biệt như Hiến chế Giáo hội, Hiến chế Mục vụ, Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo dân, hay Tông huấn Loan báo Tin Mừng dẫu đã có 30-40 năm rồi, nhưng xem ra còn xa lạ với nhiều người giáo dân.
--Không tìm ra người có khả năng :
Có lẽ ở mức độ nào đó giáo xứ thiếu người vừa có thiện chí vừa có khả năng. Nhưng số người thiện chí vẫn khá đông. Vấn đề là đào tạo cho họ. Ngoài ra còn vấn đề là “không có người hay có người mà ta không biết hay cách vận dụng không thích hợp?“ Nếu cứ giữ tương quan bao cấp, bảo sao nghe vậy, thì sẽ mất nhiều nhân tài, hay không được họ cộng tác.
--Giáo dân không chịu học :
Quả là việc giáo dân đã lớn tuổi, bận rộn gia đình và sinh kế, chưa kể là mặt bằng trình độ chung còn thấp, nên việc học giáo lý, Kinh thánh với họ cả là một vất vả và hy sinh. Tuy nhiên vấn đề còn có thể là “nội dung và phương pháp giảng dậy có phù hợp với họ không?”, nội dung ấy có được cụ thể hoá và liên hệ với đời sống họ hay không? Trình độ họ kém, lại càng cần áp dụng những phương pháp sư phạm thích đáng, và vận dụng những phương tiện nghe nhìn, mà giáo xứ nào cũng có thể trang bị được. Ngoài ra, nội dung đào tạo cho giáo dân cần đa dạng và cụ thể, thích ứng với vai trò giữa đời của họ, chứ không chỉ là một tóm lược giáo trình đào tạo giáo sĩ.
Còn số giáo dân chịu khó học cũng không phải là ít, người ta có thể thấy điều này ở nhiều lớp học, trong đó có cả những mái đầu bạc. Cho thấy hôm nay vẫn còn là, “Nhiệt thành lắm, Bổn đạo Việt Nam” [từ của cha Đỗ Quang Chính].
--Một ơn gọi còn bị bỏ quên trong thực tế :
Các trích dẫn trên cho thấy, giáo dân có một ơn gọi riêng [tức sứ vụ], mà trong nhiều trường hợp giáo sĩ không thể thay thế. Nhưng trong thực tế ơn gọi ấy có nơi bị bỏ quên. Không hiểu sao, đã thành một thói quen, khi nói đến ơn gọi là người ta liên tưởng ngay đến việc “đi tu”. Nhiều nơi, trong ngày Khánh Nhật Truyền giáo,[mà thường cũng chỉ vào ngày này] hai nội dung quen thuộc thường được nhắc đến là cầu nguyện và góp công góp của cho việc truyền giáo một cách chung chung, và cầu nguyện có thêm người “đi tu”. Tất nhiên đó việc cần thiết, nhưng nếu chỉ thế thì chưa đủ, vì đã bỏ quên một khả năng rất lớn, là tầng lớp giáo dân.
Nên rất đông giáo dân vẫn cứ đang là người của “giờ thứ mười một“ [5 giờ chiều] trong vườn nho của Chúa, phần họ thì đứng ngay vườn nho cả ngày như kẻ vô công rỗi nghề, đơn giản “ Vì không ai mướn chúng tôi” [Mt,20, 6-7]. Còn Ông Chủ ngạc nhiên :” Sao các anh đứng đây suốt ngày mà không làm gì hết ?“ Đức Giáo hoàng Gioan Phalô II đã dùng đoạn Kinh thánh trên để nhấn mạnh đến ơn gọi của người giáo dân trong thế giới :
“Ngày nay trong Hội Thánh cũng như trong những thực tại văn hoá, kinh tế, chính trị và văn hoá có những hoàn cảnh mới mẻ đang đòi hỏi hoạt động của các giáo dân một cách hết sức đặc biệt. Nếu trước đây thái độ thờ ơ đối với những đòi hỏi đó vẫn luôn không thể chấp nhận được, thì ngày nay thái độ ấy lại càng đáng khiển trách hơn bao giờ hết. Không ai được phép ở yên mà không làm gì “….“Không có chỗ cho việc ăn không ngồi rồi, trong khi còn biết bao công việc đang chờ đợi tất cả chúng ta trong vườn nho của Chúa. Ông Chủ vườn đang lập lại một cách khẩn thiết hơn nữa :”Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi” (Tông huấn Ki Tô hữu Giáo dân, số 3)
Trời đã về chiều, mà vườn nho sai trái đang chờ, không hái kịp sẽ thất thu. Ông Chủ sốt ruột.
Có lẽ những bất cập của quan niệm “bao cấp sứ vụ” trên đang được đáp ứng dần. Bởi nếu cứ giữ lối nhìn này, thì người giáo dân vẫn cứ là lệ thuộc, dù có nhiều người thiện chí, nhiệt thành, (như từng có và luôn có) nhưng vẫn cứ ở dạng tiềm năng, nếu không được khai thác, và sẽ khó có thể có một hàng ngũ giáo dân trưởng thành, như mong muốn của Công đồng:
5. Một “hàng đầu trưởng thành” :
Công đồng Vatican II không chỉ ra một sắc lệnh riêng cho việc tông đồ giáo dân, mà còn dành nhiều trang trong Sắc Lệnh Truyền giáo, nhắc đến vai trò thiết yếu của họ :
“Giáo hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Ki Tô giữa loài người, nếu như chưa có hàng giáo dân đích thực, và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với hàng giáo phẩm. Thật vậy, Phúc Âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập, Giáo hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Ki Tô Giáo trưởng thành “ [SL Truyền giáo, số 21]
Sứ vụ Phúc Âm hoá, canh tân trật tự trần thế mà giáo hội trao cho giáo dân, sẽ khả thi hơn khi có hàng ngũ giáo dân như thế. Và hàng ngũ giáo dân ấy chỉ có thể hiểu và được đón nhận trong tương quan hũu cơ với quan niệm về Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa, hiệp thông trong một Nhiệm thể : Mọi người, giáo sĩ cũng như giáo dân là chi thể của nhau : “Chúng ta tuy nhiều người, nhưng cùng là một thân thể trong Đức Ki Tô, còn thì ai tùy phận nấy mà làm chi thể cho nhau“ [Rm 12,5]. Một chi thể tổn thương do “tục hoá, vật hoá” thì cả thân thể sẽ cùng đồng cảm : kẻ thì cầu nguyện, người làm ngôn sứ, người thì góp công phục vụ, kẻ làm thầy dậy, người khuyến khích [Rm 12,6-7, Ep 4,16], tất cả để “xây dựng Thân mình Đức Ki Tô.
Hay nói theo ngôn ngữ bóng đá, giáo dân và linh mục như một đội bóng2, mà linh mục là huấn luyện viên, giáo dân là cầu thủ. Đội bóng có thành tích hay không, tùy vào mọi thành viên của đội. Mỗi vị trí yếu kém sẽ ảnh hưởng toàn đội, nên cầu thủ cần được chăm sóc về mọi mặt, từ chiến thuật đến miếng ăn giấc ngủ, và không thể thiếu những lời khích lệ. Linh mục “huấn luyện viên” là linh hồn của đội bóng, vạch ra chiến thuật, chỉ ra những thiếu sót, bám sát sinh hoạt của mỗi cầu thủ, hiểu tâm tư thao thức của họ..Nhưng sẽ không thể đá thay họ. Và cũng như trong thực tế, thành bại của đội bóng, người đầu tiên được nhắc đến sẽ là linh mục “huấn luyện viên”.
Nếu như đó đây còn cách nhìn giáo hội theo tương quan quyền bính, giáo dân và linh mục có quan hệ “ bao cấp”, thì cũng có nghĩa là quan niệm Giáo hội là Mầu nhiệm Hiệp thông 1 là Cộng đoàn Dân Chúa chưa được áp dụng hay thể hiện trong đời sống. Có một thực tế bất ngờ là: còn nhiều giáo dân chưa biết đến quan niệm này, dẫu đã được Giáo hội long trọng công bố từ 40 năm về trước.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Giáo hội tại Á Châu đã ghi nhận :
“Nói tới sự hiệp thông Giáo hội là ngụ ý bảo rằng mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành cái mà các Nghị phụ Thượng Hội đồng gọi là “Giáo hội Tham gia “, tức là một Giáo hội trong đó mọi người đều sống đúng ơn gọi riêng của mình, và thi hành đúng vai trò riêng của mình….Cách riêng cần cổ võ sự tham gia nhiều hơn nữa của giáo dân và các người tận hiến trong việc lập kế hoạch mục vụ …Tại mỗi giáo phận, giáo xứ vẫn là nơi thông thường cho tín hữu quy tụ lại để được lớn lên trong Đức tin, để sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo hội và tham gia sứ mạng của Giáo hội. “ [sđd, số 25].
6. Kết.
--Giáo dân được giáo hội có Đức Ki Tô là đầu, giao cho sứ vụ, đó là:
“ Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình, để rao giảng Phúc Âm và thánh hoá nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế …họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.” [x.SLTĐGD,s.2]
--Sứ vụ này làm cho họ có vai trò tiên phong, hàng đầu trong Giáo hội. Hiểu theo nghĩa Giáo hội là Cộng đoàn Dân Chúa, là Mầu nhiệm Hiệp thông.
--Để thi hành sứ vụ ấy, họ cần tự học hỏi và trưởng thành, cũng như cần được đầu tư, chăm sóc “phần hồn cũng như phần xác“, và sự khích lệ nhiều mặt từ Giáo hội.
--Không ảo tưởng cứ có Công đồng Vatican II là ai nấy sẽ hiểu, và diễn biến như mong ước. Mà đó đây còn những “tồn tại” trì kéo, giam hãm, bởi hơn 10 thế kỷ ảnh hưởng của quan niệm thời Trung cổ về Giáo hội, đã hằn sâu trong tư tưởng, đã thành quán tính, nên không thể một sớm một chiều mà tất cả thoát ra được. Nhưng khi nhận ra mấu chốt của vấn đề, biết mình đang bị “trói”, là lúc có thể vượt qua quán tính, và cũng là lúc, linh mục và giáo dân cảm thông những giới hạn của nhau hơn. Giáo hội cần nhiều người có “tâm”, nhưng còn phải có “tầm”, bởi thiện chí thôi chưa đủ.
--Lời cuối : Khi có thêm một giáo dân trưởng thành, là lúc các linh mục ít phải ngồi toà giải tội hơn, thiên đàng mừng vui vì có những người tội lỗi trở lại, và xã hội sẽ bớt đi những nhà giam hay trại giáo dưỡng.
Mai Khôi, ngày 13/6/2004