NHÂN LỄ NGÂN KHÁNH GIÁO HOÀNG CỦA ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II (16.10.1978 - 16. 10.2003)
NHỚ VỀ ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
Lần đầu tiên tôi được hân hạnh gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là ngày lễ Truyền giáo, tháng 10, năm 1980.
Hôm đó, Đức Hồng Y Rossi, Bộ Trưởng Bộ Truyền giáo tổ chức một bữa tiệc thân mật tại trường Truyền giáo. Các Đức Hồng Y, Giám mục và nhiều linh mục hiện diện ở Rôma đã được mời tham dự. Tôi may mắn có mặt. Chủ sự bữa tiệc là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Cuối bữa, Đức Thánh Cha đứng lên nói mấy lời cảm ơn, rồi xin về nghỉ trưa ít phút theo ý Đức Hồng Y Bộ trưởng Bộ Truyền giáo, vì chương trình làm việc sau đó còn dài.
Để tiễn Ngài, nhiều Hồng y, Giám mục, linh mục, đứng chen nhau, theo lối Ngài sẽ ra cửa phòng ăn.
Ngài đi chậm, tươi cười, vẫy tay chào bên phải bên trái, thỉnh thoảng nói vài lời với những người quen mà Ngài bất chợt gặp thấy đứng gần.
Gặp gỡ đầu tiên.
Khi tới chỗ tôi đứng, đột nhiên Ngài dừng lại. Ngài nhìn tôi và hỏi: Đức Cha là Giám mục nước nào?
Tôi sung sướng thưa: Con là Giám mục Việt Nam mới qua.
Vừa nghe “Việt Nam”, Ngài lộ vẻ vui mừng rõ rệt trên nét mặt.
Ngài hỏi tiếp: Đức Cha chưa tới tôi, phải không? Tôi bình tĩnh trả lời: Con đã xin vào bái yết Đức Thánh Cha. Và mỗi ngày mỗi đợi.
Ngài nói: Nhưng phải phấn đấu. Phải phấn đấu. Ngài thân mật bắt tay tôi, rồi tiếp tục vừa đi vừa nhìn chào các vị khác.
Sáng hôm sau, tôi đang đi dạo ở vườn nhà trọ Convitto Vietnamita, thì thấy một chiếc xe nhỏ phóng nhanh vào. Người gác gọi tôi báo tin: Có thư tối khẩn từ điện Vatican gởi Đức Cha. Tôi vội mở, thì thấy Văn phòng Đức Giáo Hoàng khẩn báo: Đức Giáo Hoàng sẽ tiếp Đức Cha vào lúc 11 giờ. Ngay sáng hôm nay. Xin có mặt đúng giờ.
Bấy giờ đã quá 9 giờ 30. Tôi rất xúc động, vội lên phòng, mặc phẩm phục, rồi gọi xe đi. Chỉ một mình. Không kịp báo cho ai đi theo.
Tới điện Vatican thì đã gần 11 giờ. Tôi được dẫn vào phòng đợi, sát cạnh thư viện, nơi Đức Thánh Cha hay tiếp khách cá nhân. Thấy tôi không đeo thánh giá, vì quên, do quá vội, Văn phòng Đức Thánh Cha tặng tôi một thánh giá, mà tới nay tôi còn mang như một ý nghĩa đời mình.
Đúng 11 giờ, cửa phòng mở. Một Đức ông thư ký ra mời tôi. Vừa bước vào, tôi vui mừng thấy Đức Thánh Cha đang ngồi đợi ở bàn giấy. Ngài đứng dậy, vừa bắt tay, vừa tươi vui nhắc lại lời Ngài nói trưa hôm trước: Phải phấn đấu. Tôi biết là chính Ngài đã phấn đấu cho tôi.
Tôi được mời ngồi. Trên bàn, trước mặt Ngài và tôi, có bản đồ Việt Nam. Tôi chỉ cho Ngài thấy vị trị giáo phận Long Xuyên.
Sau nhiều câu thăm hỏi, Đức Giáo Hoàng ngỏ ý xem tôi có muốn trình bày điều gì riêng không.
Được khích lệ, tôi bắt đầu giãi bày tâm tư của tôi về truyền giáo. Tất cả đều trong đề tài này: Trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay, Mùa Xuân thiêng liêng có thể sẽ đến với Hội Thánh, từ đâu, khi nào, cách nào, qua những luồng gió nào?
Tôi nói say sưa. Đức Thánh Cha nghe chăm chú. Đôi lúc trao đổi, luận đàm.
Thời gian qua mau. Vị thư ký Văn phòng khe khẽ mở cửa, nhỏ nhẹ trình Đức Giáo Hoàng điều gì đó, mà tôi đoán là đã đến lượt vị khách tiếp theo.
Tôi xin phép Đức Giáo Hoàng để được rút lui. Nhưng Ngài bảo: Cứ tiếp tục. Tôi lại trình bày tiếp những ý tưởng của tôi.
Một lát sau, vị thư ký lại rón rén bước vào, có vẻ như sốt ruột, muốn nhắc Đức Giáo Hoàng về chương trình tiếp khách sao đó. Tôi tự nguyện đứng dậy.
Đức Giáo Hoàng lại bảo tôi: Không sao đâu. Cứ tiếp tục.
Tôi bình tĩnh trình bày xong cái nhìn của tôi về tình hình truyền giáo. Đức Giáo Hoàng tỏ vẻ không vội vã gì. Ngài đón nhận những thao thức của tôi, với nhiều khích lệ, góp ý, và đưa ra quan điểm của Ngài.
Sau cùng, Ngài nói: Khi mới làm Giáo Hoàng, tôi cũng có nhiều ý nghĩ giống như Đúc Cha. Tôi rất muốn thực hiện. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thực hiện được tất cả những gì tôi ước muốn.
Khi từ biệt, Ngài tặng tôi chuỗi Mân Côi và ôm hôn với lời khích lệ thân thiết.
Ấn tượng sâu sắc.
Những gì đã xảy ra trong lần yết kiến đầu tiên này đã gây nơi tôi những ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt là lòng nhân ái, sự khiêm nhường khôn ngoan và tính phấn đấu của Đức Thánh Cha.
Nhân ái ngay từ giây phút đầu tiên. Tôi cảm thấy Ngài cho tôi một sự gần gũi, cởi mở thân mật, thoải mái đơn sơ rất tự nhiên trong gặp gỡ và trao đổi.
Khiêm nhường khôn ngoan của Ngài dễ nhận ra, khi Ngài không nói đến những gì Ngài đã làm được, mà chỉ nói về những gì Ngài chưa làm được.
Phấn đấu ở chỗ Ngài cố gắng làm tốt hết sức bổn phận của mình, bằng cầu nguyện, hy sinh, sáng tạo. Tôi có cảm tưởng là trong giờ phút gặp gỡ đàm đạo, chúng tôi không phải là hai người, mà là ba, bởi vì có Chúa ở giữa chúng tôi.
Nhân ái, khiêm nhường khôn ngoan và phấn đấu là món quà quí Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã âm thầm gởi vào tâm hồn tôi, ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Tôi nhận được món quà tinh thần đó từ những giây phút bên Ngài, hơn là từ các tài liệu huấn giáo của Ngài.
Từ 1980 đến 2002, tôi được hạnh phúc gặp riêng Ngài nhiều lần. Lần nào nhân ái, khôn ngoan khiêm nhường và phấn đấn cũng vẫn là những ơn thánh Chúa ban cho tôi qua vị đại diện Chúa ở trần gian này. Có điều là nhiều khi tôi đã không biết dùng nên những ơn quí báu đó.
Tôi tin rằng: Chúa ở trong Đức Thánh Cha một cách rất đặc biệt, rất sống động. Tôi càng tin như thế, khi Đức Thánh Cha bị đau bệnh.
Với những đau đớn thể xác và tinh thần phải chịu hằng ngày, Đức Thánh Cha của chúng ta luôn thông phần đau khổ của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Nhìn Ngài, tôi có cảm tưởng nhìn thấy chính Chúa Giêsu đang vác thánh giá.
Riêng tôi, tôi vẫn coi Ngài là một gương sáng cho mọi mục tử, bất cứ ở cấp nào, tuổi nào, trong tình trạng nào.
Nơi Ngài, và với Ngài, tôi có thể tìm được con đường hy vọng cho bản thân tôi, dù trong những hoàn cảnh phức tạp nhất.
Thông hiệp.
Khi thông hiệp với Ngài, tôi an tâm vì biết mình sống và hoạt động với tư cách của người được sai đi, mặc dù tôi rất bất xứng. Tôi cho việc được sai đi bởi Đức Giáo Hoàng là một đặc ân tôi phải đón nhận với lòng khiêm tốn. Khiêm tốn bước xuống gặp gỡ những thân phận người nghèo. Bước vào dòng chảy những cuộc đời đau khổ.
Sợi dây thông hiệp của tôi với Đức Giáo Hoàng là rất cụ thể, rất tích cực, rất tự do, đầy tinh thần trách nhiệm Phúc Âm, và tỉnh thức với những dấu chỉ của thời đại.
Từ đó, tôi xác tín vai trò của Giáo Hội địa phương là rất quan trọng. Và cũng từ đó, tôi hiểu thêm sự cần thiết phải thông hiệp rộng rãi với các thành phần Hội Thánh, trong tình yêu mà Chúa dành cho Hội Thánh.
Nền tảng sâu xa của những thông hiệp này là đức ái. Một đức ái có 3 phần:
Một là biết tỉnh thức đón nhận tình Chúa yêu thương chúng ta.
Hai là biết đáp lại tình yêu của Chúa bằng lòng ta tin mến biết ơn Người.
Ba là biết thực thi bác ái đối với mọi người và xã hội qua sự thương cảm, phục vụ khiêm nhường và nhạy bén với những biến chuyển.
Nhờ nhận thức trên đây và nhờ nhìn vào gương sáng Đức Giáo Hoàng, tôi nay được hưu mà vẫn thấy còn cần phấn đấu, cố gắng làm những việc lành nhỏ. Vì trong mấy chục năm, bao việc tốt tôi muốn làm cho Hội Thánh và Đất Nước mà không làm được.
Thiết tưởng sự gắn bó của tôi đối với Đức Thánh Cha sẽ được coi là một bó hoa đơn sơ tôi dâng lên Chúa, nhân dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II, tháng 10 này.
Hôm nay, khi mừng Đức Gioan Phaolô II, tôi nhìn về tương lai. Tôi thấy thời hậu Gioan Phaolô II đang đợi nhiều giải quyết mới, nhiều cải cách mới, để có những hy vọng mới cho một Hội Thánh luôn cần được đổi mới trong Chúa Thánh Thần.
a
NHỚ VỀ ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
Lần đầu tiên tôi được hân hạnh gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là ngày lễ Truyền giáo, tháng 10, năm 1980.
Hôm đó, Đức Hồng Y Rossi, Bộ Trưởng Bộ Truyền giáo tổ chức một bữa tiệc thân mật tại trường Truyền giáo. Các Đức Hồng Y, Giám mục và nhiều linh mục hiện diện ở Rôma đã được mời tham dự. Tôi may mắn có mặt. Chủ sự bữa tiệc là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Cuối bữa, Đức Thánh Cha đứng lên nói mấy lời cảm ơn, rồi xin về nghỉ trưa ít phút theo ý Đức Hồng Y Bộ trưởng Bộ Truyền giáo, vì chương trình làm việc sau đó còn dài.
Để tiễn Ngài, nhiều Hồng y, Giám mục, linh mục, đứng chen nhau, theo lối Ngài sẽ ra cửa phòng ăn.
Ngài đi chậm, tươi cười, vẫy tay chào bên phải bên trái, thỉnh thoảng nói vài lời với những người quen mà Ngài bất chợt gặp thấy đứng gần.
Gặp gỡ đầu tiên.
Khi tới chỗ tôi đứng, đột nhiên Ngài dừng lại. Ngài nhìn tôi và hỏi: Đức Cha là Giám mục nước nào?
Tôi sung sướng thưa: Con là Giám mục Việt Nam mới qua.
Vừa nghe “Việt Nam”, Ngài lộ vẻ vui mừng rõ rệt trên nét mặt.
Ngài hỏi tiếp: Đức Cha chưa tới tôi, phải không? Tôi bình tĩnh trả lời: Con đã xin vào bái yết Đức Thánh Cha. Và mỗi ngày mỗi đợi.
Ngài nói: Nhưng phải phấn đấu. Phải phấn đấu. Ngài thân mật bắt tay tôi, rồi tiếp tục vừa đi vừa nhìn chào các vị khác.
Sáng hôm sau, tôi đang đi dạo ở vườn nhà trọ Convitto Vietnamita, thì thấy một chiếc xe nhỏ phóng nhanh vào. Người gác gọi tôi báo tin: Có thư tối khẩn từ điện Vatican gởi Đức Cha. Tôi vội mở, thì thấy Văn phòng Đức Giáo Hoàng khẩn báo: Đức Giáo Hoàng sẽ tiếp Đức Cha vào lúc 11 giờ. Ngay sáng hôm nay. Xin có mặt đúng giờ.
Bấy giờ đã quá 9 giờ 30. Tôi rất xúc động, vội lên phòng, mặc phẩm phục, rồi gọi xe đi. Chỉ một mình. Không kịp báo cho ai đi theo.
Tới điện Vatican thì đã gần 11 giờ. Tôi được dẫn vào phòng đợi, sát cạnh thư viện, nơi Đức Thánh Cha hay tiếp khách cá nhân. Thấy tôi không đeo thánh giá, vì quên, do quá vội, Văn phòng Đức Thánh Cha tặng tôi một thánh giá, mà tới nay tôi còn mang như một ý nghĩa đời mình.
Đúng 11 giờ, cửa phòng mở. Một Đức ông thư ký ra mời tôi. Vừa bước vào, tôi vui mừng thấy Đức Thánh Cha đang ngồi đợi ở bàn giấy. Ngài đứng dậy, vừa bắt tay, vừa tươi vui nhắc lại lời Ngài nói trưa hôm trước: Phải phấn đấu. Tôi biết là chính Ngài đã phấn đấu cho tôi.
Tôi được mời ngồi. Trên bàn, trước mặt Ngài và tôi, có bản đồ Việt Nam. Tôi chỉ cho Ngài thấy vị trị giáo phận Long Xuyên.
Sau nhiều câu thăm hỏi, Đức Giáo Hoàng ngỏ ý xem tôi có muốn trình bày điều gì riêng không.
Được khích lệ, tôi bắt đầu giãi bày tâm tư của tôi về truyền giáo. Tất cả đều trong đề tài này: Trong hoàn cảnh phức tạp hiện nay, Mùa Xuân thiêng liêng có thể sẽ đến với Hội Thánh, từ đâu, khi nào, cách nào, qua những luồng gió nào?
Tôi nói say sưa. Đức Thánh Cha nghe chăm chú. Đôi lúc trao đổi, luận đàm.
Thời gian qua mau. Vị thư ký Văn phòng khe khẽ mở cửa, nhỏ nhẹ trình Đức Giáo Hoàng điều gì đó, mà tôi đoán là đã đến lượt vị khách tiếp theo.
Tôi xin phép Đức Giáo Hoàng để được rút lui. Nhưng Ngài bảo: Cứ tiếp tục. Tôi lại trình bày tiếp những ý tưởng của tôi.
Một lát sau, vị thư ký lại rón rén bước vào, có vẻ như sốt ruột, muốn nhắc Đức Giáo Hoàng về chương trình tiếp khách sao đó. Tôi tự nguyện đứng dậy.
Đức Giáo Hoàng lại bảo tôi: Không sao đâu. Cứ tiếp tục.
Tôi bình tĩnh trình bày xong cái nhìn của tôi về tình hình truyền giáo. Đức Giáo Hoàng tỏ vẻ không vội vã gì. Ngài đón nhận những thao thức của tôi, với nhiều khích lệ, góp ý, và đưa ra quan điểm của Ngài.
Sau cùng, Ngài nói: Khi mới làm Giáo Hoàng, tôi cũng có nhiều ý nghĩ giống như Đúc Cha. Tôi rất muốn thực hiện. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thực hiện được tất cả những gì tôi ước muốn.
Khi từ biệt, Ngài tặng tôi chuỗi Mân Côi và ôm hôn với lời khích lệ thân thiết.
Ấn tượng sâu sắc.
Những gì đã xảy ra trong lần yết kiến đầu tiên này đã gây nơi tôi những ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt là lòng nhân ái, sự khiêm nhường khôn ngoan và tính phấn đấu của Đức Thánh Cha.
Nhân ái ngay từ giây phút đầu tiên. Tôi cảm thấy Ngài cho tôi một sự gần gũi, cởi mở thân mật, thoải mái đơn sơ rất tự nhiên trong gặp gỡ và trao đổi.
Khiêm nhường khôn ngoan của Ngài dễ nhận ra, khi Ngài không nói đến những gì Ngài đã làm được, mà chỉ nói về những gì Ngài chưa làm được.
Phấn đấu ở chỗ Ngài cố gắng làm tốt hết sức bổn phận của mình, bằng cầu nguyện, hy sinh, sáng tạo. Tôi có cảm tưởng là trong giờ phút gặp gỡ đàm đạo, chúng tôi không phải là hai người, mà là ba, bởi vì có Chúa ở giữa chúng tôi.
Nhân ái, khiêm nhường khôn ngoan và phấn đấu là món quà quí Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã âm thầm gởi vào tâm hồn tôi, ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Tôi nhận được món quà tinh thần đó từ những giây phút bên Ngài, hơn là từ các tài liệu huấn giáo của Ngài.
Từ 1980 đến 2002, tôi được hạnh phúc gặp riêng Ngài nhiều lần. Lần nào nhân ái, khôn ngoan khiêm nhường và phấn đấn cũng vẫn là những ơn thánh Chúa ban cho tôi qua vị đại diện Chúa ở trần gian này. Có điều là nhiều khi tôi đã không biết dùng nên những ơn quí báu đó.
Tôi tin rằng: Chúa ở trong Đức Thánh Cha một cách rất đặc biệt, rất sống động. Tôi càng tin như thế, khi Đức Thánh Cha bị đau bệnh.
Với những đau đớn thể xác và tinh thần phải chịu hằng ngày, Đức Thánh Cha của chúng ta luôn thông phần đau khổ của Chúa Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Nhìn Ngài, tôi có cảm tưởng nhìn thấy chính Chúa Giêsu đang vác thánh giá.
Riêng tôi, tôi vẫn coi Ngài là một gương sáng cho mọi mục tử, bất cứ ở cấp nào, tuổi nào, trong tình trạng nào.
Nơi Ngài, và với Ngài, tôi có thể tìm được con đường hy vọng cho bản thân tôi, dù trong những hoàn cảnh phức tạp nhất.
Thông hiệp.
Khi thông hiệp với Ngài, tôi an tâm vì biết mình sống và hoạt động với tư cách của người được sai đi, mặc dù tôi rất bất xứng. Tôi cho việc được sai đi bởi Đức Giáo Hoàng là một đặc ân tôi phải đón nhận với lòng khiêm tốn. Khiêm tốn bước xuống gặp gỡ những thân phận người nghèo. Bước vào dòng chảy những cuộc đời đau khổ.
Sợi dây thông hiệp của tôi với Đức Giáo Hoàng là rất cụ thể, rất tích cực, rất tự do, đầy tinh thần trách nhiệm Phúc Âm, và tỉnh thức với những dấu chỉ của thời đại.
Từ đó, tôi xác tín vai trò của Giáo Hội địa phương là rất quan trọng. Và cũng từ đó, tôi hiểu thêm sự cần thiết phải thông hiệp rộng rãi với các thành phần Hội Thánh, trong tình yêu mà Chúa dành cho Hội Thánh.
Nền tảng sâu xa của những thông hiệp này là đức ái. Một đức ái có 3 phần:
Một là biết tỉnh thức đón nhận tình Chúa yêu thương chúng ta.
Hai là biết đáp lại tình yêu của Chúa bằng lòng ta tin mến biết ơn Người.
Ba là biết thực thi bác ái đối với mọi người và xã hội qua sự thương cảm, phục vụ khiêm nhường và nhạy bén với những biến chuyển.
Nhờ nhận thức trên đây và nhờ nhìn vào gương sáng Đức Giáo Hoàng, tôi nay được hưu mà vẫn thấy còn cần phấn đấu, cố gắng làm những việc lành nhỏ. Vì trong mấy chục năm, bao việc tốt tôi muốn làm cho Hội Thánh và Đất Nước mà không làm được.
Thiết tưởng sự gắn bó của tôi đối với Đức Thánh Cha sẽ được coi là một bó hoa đơn sơ tôi dâng lên Chúa, nhân dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II, tháng 10 này.
Hôm nay, khi mừng Đức Gioan Phaolô II, tôi nhìn về tương lai. Tôi thấy thời hậu Gioan Phaolô II đang đợi nhiều giải quyết mới, nhiều cải cách mới, để có những hy vọng mới cho một Hội Thánh luôn cần được đổi mới trong Chúa Thánh Thần.
a