Vấn Đề Cách Viết Tên Riêng Tiếng Nước Ngoài Trong Sách Báo Công Giáo (4)

3.2. GIẢI ĐÁP MỘT SỐ ĐIỂM PHỤ VỀ CHUẨN HOÁ CHỮ VIẾT

3.2.1. Việc viết hoa các tên riêng

Các nhà khoa học và ngôn ngữ học đã trình bày nhiều ý kiến về vấn đề này. Chúng tôi có bài của Gs. Ts. Nguyễn Quang Hồng : Mấy vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt và chữ Việt hiện thời; của Gs. Nguyễn Trọng Báu : Chuẩn chính tả và vấn đề viết hoa; Gs. Nguyễn Thanh Đức : Về quy định viết hoa của Văn phòng Chính phủ theo quyết định số 09/1998 QĐ - VPCP ngày 25-11-1998; Lê Hữu Tỉnh : Vấn đề thống nhất chính tả trong sách giáo khoa và việc dạy chính tả cho học sinh tiểu học (x. Đề tài khoa học, Sđd, tr 6-10, 75-96). Chúng ta có thể tóm tắt vài điểm chính sau đây :

Viết hoa là để phân biệt tên riêng của người đó hoặc địa danh đó là cái không thể giống cái khác, chỉ có một mà thôi. Dù viết hoa không làm thay đổi âm thanh lời nói, nhưng thể hiện được các ý định diễn đạt khác nhau của người sử dụng và làm phong phú thêm ngôn ngữ. Khi viết hoa, ta phải chú ý đến cấu trúc tiếng Việt, quy luật phát triển nội tại của tiếng Việt và đến tính xã hội của ngôn ngữ như khoa học, đơn giản, tiện dùng.

Sau đây là những nét chính về quy tắc viết hoa nên được chấp nhận như sau :

- Viết hoa tên riêng các nhân danh, địa danh : viết hoa tất cả các chữ cái đầu của các âm tiết có mặt trong tên riêng và không dùng gạch nối. Ví dụ : Hùng Vương, Lý Thường Kiệt, Bố Cái Đại Vương, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Văn Bình,

- Nhân danh : Ở một số người, ngoài tên riêng còn có thể có biệt hiệu, tước hiệu, tên tự, tên huý, bút danh … gắn liền với tên thật và chỉ riêng người đó có được coi là danh từ riêng và viết hoa theo quy tắc vừa nói trên. Ví dụ : Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Bố Cái Đại Vương, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, …

Một số tên người Việt chỉ gọi tên, không kèm theo họ hoặc tên đệm, nhưng tên đó luôn kèm theo từ (danh từ chung) chỉ học vị, chức vụ, ngôi thứ trong gia đình. Từ này gắn bó chặt chẽ với tên gọi chính để biểu hiện sự riêng biệt thì xem như một tên riêng. Ví dụ : Trạng Trình, Nghè Tân, Cống Chỉnh, Đề Thám, Tú Xương, Cả Trọng, Hai Lúa, Út Tịch, Đội Cấn, Cha Diệp, …

- Địa danh : bao gồm tên địa lí và tên gọi các hiện tượng tự nhiên : sông, núi, biển, lãnh thổ, di tích, phương hướng, thời gian, tinh tú … được xã hội Việt Nam biết đến và được Việt hoá bằng chữ quốc ngữ. Ví dụ : Việt Nam, Hàn Quốc, Đà Nẵng, Trường Sơn, Hồng Hà (sông Hồng), Hương Giang (sông Hương), Vạn Lý Trường Thành, Châu Á, Vũng Tàu, Mũi Né, Hòn Chông, Bãi Cháy, Hồ Gươm, (chùa) Một Cột, (đền) Quán Thánh, Thái Bình Dương, Đông Âu, (khu vực) Hữu Ngạn, (biên giới) Tây Nam, (gió mùa) Đông Bắc, (năm) Kỉ Mão, tết Đoan Ngọ, (tiết) Trung Thu, Mặt Trời, Sao Mộc, (sao) Bắc Đẩu, Sao Mai, (dải) Ngân Hà, (cõi) Niết Bàn, Thiên Đàng, (ngục) Cửu Ti.

- Viết hoa tên gọi không phải là danh từ riêng

Tên gọi một số tổ chức, cơ quan, đoàn thể, nhà máy, trung tâm, công ti … thường thường không phải là một, hai từ mà là một chuỗi từ, trong đó có cả danh từ chung và danh từ riêng hoặc chỉ toàn là danh từ chung. Có người đã chủ trương viết hoa tất cả các âm tiết trong khối tên riêng ấy hay chỉ viết hoa một âm tiết đứng đầu cụm từ cho đơn giản. Ví dụ : Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo hay Bộ giáo dục và đào tạo.

Nhưng rõ ràng là không phải tất cả các thành tố làm nên tên gọi đó đều có đầy đủ tiêu chí của một danh từ riêng. Ví dụ : từ và trong Bộ Giáo dục và Đào tạo, Uỷ ban Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em. Cách viết hoa của tiếng Anh, tiếng Pháp cũng thế. Ví dụ: Congregation for the Doctrine of the Faith, Conseil Pontifical de la Culture.

Do đó, đề nghị cách viết hoa như sau :

- Bắt đầu một tên gọi xem như tên riêng : sẽ viết hoa chữ cái đầu tiên của âm tiết đầu. Ta gọi là yếu tố 1.

- Viết hoa các từ ngữ chỉ chức năng, nhiệm vụ, tính chất, công việc… nhưng chỉ viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu trong các danh từ chung này. Ta gọi là yếu tố 2.

- Viết hoa tất cả các âm tiết của từ được dùng làm danh hiệu, dù chúng là danh từ riêng hay danh từ chung. Ta gọi là yếu tố 3. Ví dụ, từ "Giáo Hội" viết hoa để chỉ một tổ chức độc nhất của Kitô giáo và từ "giáo hội" viết thường để chỉ chung tất cả các tổ chức tôn giáo như khi nói : các giáo hội địa phương, …

Ta có các ví dụ sau đây :

Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3

Bộ Khoa học công nghệ và môi trường Việt Nam

Viện Đại học Mở Bán Công Hà Nội

Hội Ngôn ngữ học Việt Nam

Trường Cao đẳng Sư Phạm Quảng Ninh

Nhà máy Bóng đèn Rạng Đông

Xí nghiệp May mặc Hoa Hồng

Ủy ban Giám mục về Phụng tự Thánh nhạc

Hội đồng Giám mục Việt Nam

Giáo hội Công giáo Việt Nam

Công đồng Chung Vatican II

Công đồng Miền Đông Dương

- Viết hoa các tu từ

Đây là cách dùng chữ hoa để riêng hoá các từ ngữ chung nhằm thể hiện sắc thái biểu cảm trong văn bản. Viết hoa tu từ là một lĩnh vực linh hoạt, mang đậm tính cách cá nhân sáng tạo của người viết. Tuy nhiên, trong phạm vi của quy tắc chính tả, viết hoa tu từ cũng đòi hỏi một chuẩn mực nhất định. Những chuẩn mực đó được đề nghị như sau :

- Một số danh từ chung được viết hoa để tỏ sự tôn kính, trân trọng, biệt cách, nhấn mạnh… Ví dụ : Bác Hồ, Tổng thống, Hoàng đế, Đức Thánh Cha, Giáo hoàng, Giám mục, …

- Các danh hiệu, tước vị, tên giải thưởng cao quý, tên huân chương, huy chương … Ví dụ : Nghệ sĩ Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, Anh hùng Lao động, Hiệp sĩ, Chiến sĩ Thi đua, …

-Tên các tôn giáo, đạo giáo. Ví dụ : Công giáo, Phật giáo, …

- Các danh từ chỉ con vật, loài vật, đồ vật, sự vật được nhân cách hoá để sinh động và riêng hoá chúng. Ví dụ : cụ Dế gáy ti tỉ, cô Bướm Hoa bay lượn đùa cùng cậu Ve Sầu…

Tóm lại, những đề nghị của các nhà ngôn ngữ học trên đây có thể giúp chúng ta ổn định hơn về việc viết hoa các tên riêng, làm cho các văn bản Công giáo từ nay có tính cách khoa học hơn về mặt ngôn ngữ.

3.2.2. Giải đáp về việc đánh dấu giọng trên nguyên âm

Muốn đánh đúng dấu giọng, ta cần phải phân biệt nguyên âm và phụ âm, âm chính và âm đệm, âm đầu và âm cuối. Trong nguyên âm cũng nên phân biệt âm dài, âm ngắn, âm đôi và các bán nguyên âm hay bán phụ âm. Khoa ngôn ngữ học ngày nay cho ta hiểu rằng, có những chữ viết là nguyên âm, nhưng khi đọc lên lại biến thành phụ âm, người ta gọi chúng là bán nguyên âm, vì luồng hơi phát ra không đi thẳng nhưng có sự phụ giúp của các cơ quan phát âm như môi, lưỡi, họng. Ví dụ : chữ i là nguyên âm /i/ trong từ ti /ti/ nhưng lại là bán nguyên âm trong từ tôi /tôj/. Chữ o là nguyên âm /o/ trong từ to /to/ nhưng là bán nguyên âm /w/ trong từ toả /twả/. Chữ u là nguyên âm /u/ trong từ tu /tu/ nhưng là bán nguyên âm /w/ trong từ tuế /twế/. Bán nguyên âm o và u này đọc ra giống nhau.

Nguyên tắc cơ bản là chữ Việt luôn đánh dấu giọng trên nguyên âm. Vậy nếu chúng ta phiên âm các từ theo âm quốc tế, ta sẽ thấy ngay vị trí dấu phải đánh trên chữ nguyên âm nào. Ví dụ : hài /hàj/; hoài /hwàj/; hoà /hwà/; hoè /hwè/; huề /hwề/; huý /hwí/; thuở /?wở/; thuỷ /?wỉ/; … Như thế, trong các vần oa, oe, uơ, uê, uy, chúng ta phải đặt dấu giọng vào âm sau mới đúng ngôn ngữ học. Đây là những vần dễ bị sai nhất.

Ta có thể tóm tắt nguyên tắc đánh dấu sau đây : "Dấu giọng luôn đặt vào nguyên âm được dùng làm âm chính trong âm tiết. Ví dụ : hài hoà. Trường hợp gặp nguyên âm đôi (nhị trùng âm) như : /iê/, /uô/, /ươ/, dấu giọng được đặt vào nguyên âm đầu nếu trong âm tiết không có âm cuối. Ví dụ : chia lìa, lúa úa, chữa lửa … Nếu có âm cuối, dấu giọng đặt vào nguyên âm sau. Ví dụ : tiễn biệt, uống thuốc, hướng thượng …" (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Kỹ thuật chữ, NXB Giáo Dục, 1996, tr 129).

Khi hiểu rõ về các âm, ta sẽ thấy sự khác biệt về phát âm khi đánh dấu trên các từ. Ví dụ : huỷ /hwỉ/ và hủi /hủj/; gịa /zịe/ và giạ /zạ/ trong từ giặt gịa và giạ lúa.

· Riêng về âm /i/ với qu : cũng vì muốn phân biệt các âm với dấu giọng cho đúng đắn, chúng ta phải viết quý thay vì quí. Vì hai cách đọc sẽ rất khác nhau : tuý và túi, suý và súi, thuỷ và thủi, … Như thế, người ta không viết quít, quính, quiết mà phải viết quýt, quýnh, quyết, … Các âm tiết yêu, yên … vẫn tiếp tục viết theo thói quen.

· Hiện tượng viết i và y : Bộ Giáo dục và Đào tạo từng có chủ trương thống nhất viết i với tất cả các trường hợp có âm /i/ ở cuối âm tiết (x. Quyết định số 240/ QĐ ngày 5-3-1984) trừ âm uy /wi/ ta vừa nói ở trên. Ví dụ viết : hi, ki, li, mi, ti thay vì hy, ky, ly, my, ty. Nhưng hiện nay trong xã hội người ta vẫn viết nước đôi như : hi / hy sinh; mĩ / mỹ miều; hay chỉ viết Lý Thái Tổ, thời kỳ, Kỷ Mão, kỷ luật, …

Các nhà ngôn ngữ học đề nghị tạm thống nhất cách viết như sau :

Khi chữ i đứng một mình :

- Người ta viết i đối với những từ thuần Việt, như : í ới, ì ạch, ầm ĩ, âm ỉ

-Người ta viết y đối với những từ Hán Việt, như : y phục, y sĩ, ỷ lại, ý kiến, …

Khi đi với các âm khác, nhất là các tên riêng có liên quan đến Hán Việt như Lý Thái Tổ, Hy Lạp, Kỷ Mão, nước Mỹ, Lý Quí Chung … phải theo luật về tên riêng.

Còn những từ khác không cần phân biệt, ta nên loại bỏ tình trạng viết nước đôi để dần dần đi đến sự thống nhất cách viết. Ví dụ : hi sinh, kỉ luật, công ti, lí lẽ, mĩ thuật … (x. Đề tài khoa học, Sđd, tr. 10; 103-105).

3.2.3. Nên đặt tên riêng ở "cách" nào ?

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay có lẽ chưa nghĩ đến và bàn luận về vấn đề đặt tên riêng tiếng nước ngoài ở "cách" nào, đối với một số từ của các ngôn ngữ có sử dụng "cách" như tiếng Latinh, tiếng Nga, tiếng Đức, … Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học của các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức, Ý … đã nghĩ và đã giải đáp về vấn đề này cho ngôn ngữ của họ. Nhưng trước khi đi vào vấn đề, có lẽ ta nên lược qua vài nét lịch sử về "cách" của một vài ngôn ngữ.

· Chữ Latinh và các ngôn ngữ Âu Mỹ

Các người dân trong nhiều nước Âu Châu, Bắc Phi Châu và miền Tiểu Á, Trung Đông đã cùng sống trong một bối cảnh lịch sử và văn hoá giống nhau, trước là của đế quốc Roma, sau là của văn minh Kitô giáo từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến thế kỷ thứ 18, 19. Vì thế, họ đã dùng tiếng Latinh như phương tiện truyền đạt chính của tầng lớp trí thức trong xã hội. Sau đó, do ý thức dân tộc phát triển, người ta bắt đầu dựa vào tiếng Latinh để làm ra ngôn ngữ và chữ viết riêng của dân tộc, rồi chuyển dịch tất cả những tên riêng trong lịch sử của nước mình hay nước ngoài theo ngôn ngữ từng nước. Ví dụ : chuyển từ tên Petrus (Latinh) sang Peter (Anh), Pierre (Pháp), Pietro (Ý), Pedro (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha). Vào cuối thế kỷ 19, khi ý thức nhân vị phát triển, người ta giữ lại tên riêng của từng cá nhân và không còn đổi theo ngôn ngữ nước mình. Ví dụ : người Pháp sẽ không đổi tên Tony Blair của Thủ tướng Anh thành Antoine Blair. Người ta giữ nguyên các tên như Francesco Buzomi (Ý), Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), François Pallu (Pháp), Phanxicô Trần Hoàn và Phan Sinh Đức (Việt) dù tất cả đều bắt nguồn từ Franciscus.

Hơn nữa, những cuộc di cư và định cư vì nhiều lý do khác nhau đã khiến cho nhiều sắc tộc sống chung với nhau trong cùng một quốc gia hay lãnh thổ. Vì thế, người trong nước đó lại mang những tên gốc nước ngoài và người ta vẫn tôn trọng giữ nguyên ngữ cho tất cả các tên tiêng ấy. Ví dụ : ở nước Mỹ, ta thấy có đủ những tên gọi cùng một gốc như : Francis (Anh), François (Pháp), Franco hay Francisco (Tây Ban Nha), Frank (Đức), …

Một số ngôn ngữ Tây phương có những cách (case) chia khác nhau cho mỗi loại từ như danh từ, tính từ. Ví dụ, trong tiếng Latinh, nhiều tên riêng giống đực ở danh cách tận là us, như : Petrus, Paulus…, trong khi tiếng Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha lại tận bằng o như Pietro Pedro, hay Paolo Paulo … Tiếng Nga cũng có 6 cách như tiếng Latinh nên từ Mockba ở danh cách khi làm đối tượng trực tiếp (cách 4) là Mockby và cách 6 là Mockbe. Tên tiếng Anh và tiếng Pháp lại không chia thành cách.

- Chữ quốc ngữ

Chữ quốc ngữ của chúng ta là chữ viết ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh. Đây là loại chữ đã được các linh mục dòng Tên gốc Bồ Đào Nha, Ý, Pháp như João Roiz, Gaspar Luis, Cristoforo Borri, Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Gaspar d’Amaral với sự cộng tác âm thầm của nhiều người Việt như Igesico Văn Tín, Bento Thiện sáng tạo ra trong khoảng những năm 1620-1659. Nói một cách tổng quát, các nhà sáng tạo đầu tiên này đã dùng mẫu tự Latinh, rồi dựa vào một phần của tiếng Ý, tiếng Bồ Đào Nha và vài dấu của cả tiếng Hy Lạp để làm thành tiếng Việt cơ bản. Ta có thể xem cuốn Từ Điển Việt Bồ La và cuốn Phép Giảng Tám Ngày của Alexandre de Rhodes để thấy dạng chữ quốc ngữ khởi đầu (x. Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Tủ Sách Ra Khơi, Sài Gòn 1972).

Khi tên gọi của các thánh người Tây Phương được đặt thành tên thánh cho người Công Giáo Việt Nam, ta thấy xuất hiện đủ các hình thức gốc chữ của các dân tộc Châu Âu : từ chữ Latinh, chữ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cho đến chữ Pháp và sau cùng là Anh Mỹ. Vì thế, ta không lạ lùng khi thấy tên thánh được ghi dưới nhiều dạng khác nhau. Hiện nay, có 2 dạng được đa số quần chúng sử dụng : một dạng nguyên ngữ Latinh đặt ở danh cách như Petrus, dạng kia được Việt hoá thường tận bằng o hay e (như thể ở cách 6 của tiếng Latinh) như Phêrô, Phaolô, Timôthê, Clementê …

Dạng theo nguyên ngữ Latinh đặt ở danh cách đã được nhiều người, dù ở ngoài Kitô giáo, biết đến từ lâu. Dạng này có lợi điểm là dễ tạo được sự thống nhất với nhiều ngôn ngữ khác. Ví dụ : nói đến Paulus Huình Tịnh Của hay Petrus Trương Vĩnh Ký thì người trong nước hay nước ngoài đều biết đó là những học giả nổi tiếng của Việt Nam và là người theo đạo Thiên Chúa. Hoặc khi chúng ta viết Marcus Aurelius, Titus (khoảng 40-81 AD), thì độc giả nước nào cũng hiểu ngay đang nói về các nhân vật lịch sử người Roma. Tuy nhiên, dạng này có điểm yếu là khó đọc đối với người Việt khi gặp một số âm đầu hay một số âm cuối như l, r, s. Ví dụ : Israel, Shakespeare. Điều này có thể giải quyết bằng cách viết thêm phần phiên âm sau nguyên ngữ đối với các từ lạ xuất hiện lần đầu. Tuy nhiên, các sách nước ngoài không làm như vậy vì giả thiết người đọc có thể tra cứu từ điển phần tên riêng.

Dạng Việt hoá không ở danh cách có lợi điểm là dễ đọc, vì người Việt chúng ta khó phát âm những phụ âm cuối, và đặc biệt có lợi cho các bài hát, vì dễ đặt nhạc cho các âm "mở". Do đó người ta đã phiên âm Marcus Aurelius thành Mát-cô Ao-rê-li-ô, Titus thành Ti-tô … Dạng này dù mới phổ biến trong mấy thập niên gần đây nhưng đang được nhiều người dùng, nhất là trong sách Kinh, sách hát. Điểm yếu là để dễ phát âm người ta đã làm biến dạng từ gốc. Ví dụ : It-ra-en (Israel), Sếch-bia (Shakespeare).

Khi chúng tôi soạn tài liệu cho cuốn Niên Giám Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, một số giáo phận gửi danh sách linh mục ghi tên thánh ở danh cách theo tiếng Latinh (Petrus), trong khi một số khác lại ghi theo âm chữ Việt (Phêrô). Nếu theo nguyên tắc tôn trọng tên riêng, chúng tôi phải giữ nguyên các tên như đã gửi về. Nhưng nếu thế, lại có sự lộn xộn trong bảng tổng kết các linh mục toàn quốc. Ta hãy tưởng tượng một bản danh sách lúc thì Petrus, lúc thì Phêrô xen kẽ lẫn nhau. Vì thế, chúng tôi rất mong mỏi sự góp ý của độc giả về vấn đề này.

3.2.4. Có nên thống nhất các tên riêng theo bảng chữ cái không ?

Vấn đề cuối cùng liên hệ đến tên riêng đặt ra cho người Công giáo ở Việt Nam là có nên thống nhất các tên riêng theo bảng chữ cái Latinh không ?

Chúng ta biết bảng chữ cái Latinh với 26 chữ hiện nay chỉ hoàn chỉnh sau 18 thế kỉ. Sau khi người Phénicie phát minh ra bảng chữ cái theo âm vị với 20 phụ âm vào khoảng năm 900 BC (trước công nguyên), và năm 403 BC, người Hy Lạp công nhận hệ thống kí hiệu phiên âm này và đưa thêm 5 nguyên âm vào, thì 100 năm sau đó, người Roma mượn bảng chữ cái Hy Lạp, bỏ bớt vài chữ không thích hợp, thêm vần F và Q thành 23 chữ cái Latinh. Vào khoảng năm 1000 AD, chữ U và W được thêm vào. Đến khoảng năm 1500 AD, chữ J mới được thêm sau cùng. Bảng chữ cái này hiện nay là "mẹ" của tất cả các bảng chữ cái Âu Mỹ (x. Tạp chí Người đưa tin UNESCO, Nguồn gốc chữ viết, tháng 4-1995).

Các nhà ngôn ngữ học như Gs. Nguyễn Quang Hồng, Thanh Đức đã bàn nhiều đến các chữ cái, tên gọi và thứ tự của chúng trong bảng chữ cái Latinh (x. Đề tài khoa học, sđd, tr 5-6; 43-64). Nếu theo Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ, tiếng Việt hiện nay có 33 chữ cái là : A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, F, G, H, I, J, K, L, M, N, O, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ư, V, W, X, Y, Z.

Khi các nhà văn, nhà báo viết tên riêng tiếng nước ngoài, họ viết theo gốc nguyên ngữ nên không có vấn đề đặt ra cho mấy chữ cái F, J, W, Z. Nhưng trong các văn bản Công giáo hiện nay, chúng ta gặp tình trạng lộn xộn khá phổ biến là sự không thống nhất trong phiên âm tiếng Việt. Ví dụ từ Jesus của tiếng Anh hay Jésus của tiếng Pháp, viết gần giống nhau và đọc khác nhau. Cả hai chữ tương ứng với Jesus của tiếng Latinh nên có thể nhận ra ngay. Trong các văn bản Công giáo tiếng Việt, người ta đã viết tên này khác nhau : Giêsu / Giê-xu / Giê-su / Jesu / Yêsu. Vậy nên thống nhất cách viết như thế nào ? Có nên đổi tất cả các chữ J ở tên riêng thành Gi như Giêsu, Gioan, Giacôbê, Giuse cho có tính cách Việt ngữ không ? Hay ngược lại đổi thành Jêsu, Joan, Jacobê, Juse ? Cách viết này gần với tiếng nước ngoài và đọc đúng âm của chúng vì trong tiếng Việt có sự phát âm khác nhau giữa hai chữ J và Gi. Thật ra, nếu có một quyết định đổi từ Gi sang J cho các tên riêng này, chúng tôi thấy cũng không gây xáo trộn nhiều. Hoặc nên để tự do theo thói quen và tôn trọng mọi hình thức khác nhau của tên riêng ?

Quyết định của HĐGMVN năm 1996 và 1997 chỉ xác định về nguyên tắc là giữ nguyên ngữ Latinh trong các sách Phụng vụ. Nhưng chúng tôi thiết nghĩ, vấn đề tên riêng không chỉ nằm trong các sách Phụng vụ mà còn liên hệ đến mọi lãnh vực của văn bản Công giáo. Hơn nữa, khi đi vào chi tiết, quyết định này chưa xác định rõ cách viết theo tiếng Latinh là phải viết như thế nào và để ở cách nào. Ví dụ : viết Giêsu hay Jêsu hoặc Jesus; Giuse hay Juse hoặc Joseph; Phêrô hay Pêtrô hoặc Petrus, …

Quyết định của HĐGM rất đúng đắn về mặt ngôn ngữ học, nhưng chúng tôi mong có những hướng dẫn thêm về một số chi tiết cụ thể. Vấn đề này đã được tranh luận khá sôi nổi trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội, nhưng

ý kiến đưa ra cũng tương tự như chúng tôi đã tóm lược từ các nhà ngôn ngữ học trên đây, không có gì mới.

Các nhà ngôn ngữ và khoa học đã khuyến cáo rằng, không nên để tình trạng này kéo dài mà chính Nhà Nước nên sớm quy định cụ thể. Quả thật, đã có những quy định cụ thể rồi. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng, trong nội bộ Giáo Hội cũng nên có những quy định rõ ràng để chấm dứt tình trạng thiếu thống nhất trong các văn bản chính thức hiện nay, dù rằng vẫn tôn trọng quyền tự do của mỗi cá nhân trong việc viết tên riêng của chính mình.

Có người e ngại cho rằng, nếu thống nhất cách viết như thế sẽ làm cho cộng đoàn giáo hội bị xáo trộn, rồi phải in lại nhiều sách vở đã có trước đây với bao tốn phí lớn lao và phải dạy lại cho các cộng đoàn sử dụng cách viết mới. Vấn đề đặt ra thật nan giải. Tuy nhiên, nhiều nước Âu Mỹ đã từng phải giải quyết những vấn đề như vậy và họ đã can đảm thực hiện để chấm dứt tình trạng hỗn độn không nên có này. Hơn nữa, chỉ cần các tổ chức và các tác giả viết sách báo chú ý đến vấn đề và sửa đổi cách viết thì dần dần các văn bản chính thức sẽ đạt được sự thống nhất trong tương lai.

KẾT LUẬN

Sau khi tìm hiểu các vấn đề đặt ra về ngôn ngữ học và đặc biệt về cách viết tên riêng tiếng nước ngoài trong xã hội cũng như trong Giáo hội Công giáo Việt Nam, chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý vị đã kiên nhẫn đọc bài khảo cứu này. Chắc chắn do đề tài quá rộng lớn và vấn đề khá phức tạp, nên chúng tôi không thể tránh được những thiếu sót, xin quý vị thông cảm. Quả thực khi trình bày đề tài này, chúng tôi đã hết sức cố gắng giữ sự khách quan để không nghiêng về một ý kiến nào, dù rằng khi nghiên cứu, chúng ta thấy có những ý kiến được nhiều dư luận tán thành hay phản đối.

Chúng tôi vẫn mơ ước rằng, người Công giáo Việt Nam, khi bước vào thế kỉ và thiên niên kỉ mới, sẽ đạt được sự thống nhất về vấn đề viết tên riêng tiếng nước ngoài. Muốn đạt được điều này, ngoài việc tìm hiểu để ý thức vấn đề, chúng tôi thiết nghĩ nên có một hội nghị hay khoá hội thảo về vấn đề ngôn ngữ trong văn bản Công giáo để các nhà chuyên môn có dịp ngồi lại với nhau và tìm ra giải pháp thống nhất. Sau đó, HĐGMVN có thể dựa vào các ý kiến đóng góp mà đưa ra những quyết định mời gọi mọi tầng lớp tín hữu học hỏi và bắt đầu sử dụng từ từ cho quen với cách viết mới. Lúc đầu, có thể có những khó khăn, thậm chí có những ý kiến phản bác, nhưng nếu chúng ta thực hiện dựa trên những cơ sở khoa học đúng đắn, hi vọng Giáo Hội Việt Nam trong tương lai sẽ tìm được sự thống nhất về chữ viết.

Tóm lại, tiếng Việt chúng ta cũng giống như bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới, vẫn còn đang phát triển với những từ mới được hình thành, với những phần ngữ pháp mới được quy định, nhất là đang tạo được sự hoà nhập với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới có dạng viết bằng chữ cái Latinh. Sự thay đổi này không phải làm mất đi bản sắc trong sáng của tiếng Việt, nhưng là một điểm thuận lợi mà nhiều ngôn ngữ ngoài dạng Latinh không thể có được. Chính trong sự tiến bộ này, người Công giáo Việt Nam chúng ta thấy mình cần phải đóng góp nhiều hơn nữa cho tiếng Việt và chữ Việt bằng những bước tiên phong của mình, như cha ông ta đã từng làm trong mấy thế kỉ trước.

Con đường khai phá nào mà không có chông gai. Sự vất vả có khi làm chùn bước những người nghiên cứu và những nhà chuyên môn. Chúng tôi tin tưởng rằng, với sự trợ giúp của ơn Chúa và tình yêu dành cho dân tộc, người tín hữu Việt Nam sẽ góp phần đặc biệt vào công trình phát triển tiếng Việt và chữ Việt ngày thêm trong sáng.