NHỮNG NGUỒN THI CẢM CỦA HÀN MẶC TỬ

Thi sĩ Hàn Mặc Tử qua đời lúc ông 28 tuổi. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhưng đã để lại cho hậu thế một sự nghiệp văn chương khá phong phú gồm:

-Năm tập thơ là: Gái Quê, Đau Thương, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí, và Cẩm Châu Duyên.

-Hai kịch thơ là: Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội.

-Mười bài văn xuôi.

-Ngoài ra còn một số lớn thi ca được đăng trên các tạp chí ở Nam, Trung, Bắc. Tựu trung, thi ca Hàn Mặc Tử khởi đi từ bốn nguồn thi cảm: Lòng yêu nước, Tình cảm yêu đương, Cuộc đời đau khổ, Và ơn sủng siêu nhiên.

1. Nguồn thi cảm thứ nhất: Lòng Yêu Nước: Trong những năm của thập niên 30, xã hội Việt Nam dấy lên một cao trào chống thực dân Pháp. Hàn Mặc Tử lúc đó còn rất trẻ, đang là học sinh trung học, cũng sáng tác thi ca, mô tả nỗi thống khổ, uất hận của dân tộc. Tiêu biu là các bài: Thức Khuya, Chùa Hoang, Gái - Chùa. Các bài này đã được nhà cách mạng Phan Bội Châu nhiệt tình khen ngợi, đã họa lại, và cho đăng báo để giới yêu thơ thưởng thức. Ngoài ra Hàn Mặc Tử còn đích thân ra Huế gặp cụ Phan. Do đó, Sở Mật Thám Pháp đã gạch tên Hàn Mặc Tử khỏi danh sách học sinh được du học tại Pháp. Dưới đây là 4 câu thơ trong bài Đêm Không Ngủ:

Non sông bốn mặt ngủ mơ màng,

Thức chỉ mình ta dạ chẳng an.

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối,

Gió thu lọt cửa cọ màn chăn.


2. Nguồn thi cảm thứ hai: Tình Cảm Yêu Đương: Khi rời mái trường trung Học Pellerin Huế, Hàn Mặc Tử tròn 18 tuổi, và như bao nhiêu người trai trẻ khác, tâm hồn của người mới lớn, đều có cái xôn xao, rạo rực. Người tình đầu tiên của chàng là Hoàng Cúc, và mối tình giữa chàng mười tám, đôi mươi với cô nàng mười lăm, mười bảy, tất nhiên là cao đẹp, mộng mơ. Để tỏ tấc lòng cùng người yêu, chàng đã ghi tên nàng vào các bài thơ như : Vịnh Hoa Cúc, Trồng Hoa Cúc, Hồn Cúc.

Đọc các bài này, người ta thấy tình cảm của Hàn Mặc Tử lúc ấy, có cái giọng nhà nho, còn thấm nhuần lễ giáo Khổng, Mạnh. Rồi từ tình yêu vụng trộm, chàng muốn đi đến hôn nhân chính thức. Tuy nhiên, hôn sự lại bất thành vì ông thân sinh Hoàng Cúc là chủ sự sở Đạc Điền, mà Tử đang làm dưới quyền, đã chê chàng là không xứng mặt với con gái ông. Hàn Mặc Tử giận lắm, xin nghỉ việc và vào Saigon làm báo. Trong khi đó, Hoàng Cúc lại ra Huế, nên hai người không gặp nhau nữa. Tuy nhiên, như nhà văn Thế Lữ nói:

Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy

Ngàn năm chưa dễ đã ai quên.


Nên năm 1936, khi in tập thơ đầu tay Gái Quê, chàng đã định đề tặng Hoàng Cúc, nhưng sau thấy bất tiện nên đành chôn kín nỗi lòng. Tập Gái Quê cũng như mối tình với Hoàng Cúc, có bầu không khí dịu dàng, chất phác của một tâm hồn chưa muốn thoát khỏi luỹ tre xanh. Bao nhiêu hình ảnh trong Gái Quê đều là những hình ảnh mộng mơ, êm ái. Tình cảm trong Gái Quê, cũng như mối tình với Hoàng Cúc, còn kín đáo, còn ngượng ngùng, hồn nhiên và ngây dại. Đến khi Hàn Mặc Tử đau bệnh nằm ở Quy Nhơn, thì Hoàng Cúc lại gửi tặng chàng tấm ảnh cô gái Huế, với lời mời ra chơi Thôn Vỹ Dạ. Để tạ lòng người tri kỷ, Hàn Mặc Tử sáng tác bài: Thôn Vỹ Dạ.

Sau mối tình bất thành với Hoàng Cúc, Hàn Mặc Tử gặp Mộng Cầm. Có thể nói, Mộng Cầm là nguồn thi hứng dạt dào nhất cho Hàn Mặc Tử. Vậy Mộng Cầm là ai? Chuyện tình của họ thế nào? Chuyện sau đây do chính Mộng Cầm kể với giáo sư Châu Hải Kỳ, được đăng trong tạp chí Văn số 171 ra ngày 1-6-1971 tại Saigon:

Năm ấy tôi 17 tuổi, đang học lớp nhất trường nam Phan Thiết. Tuy học lớp nhất nhưng tôi rất ham văn chương. Đêm đêm tôi thường đến học thêm Việt ngữ với cậu Bích Khê tôi. Cậu mở lớp dậy cho những ai muốn học thêm và có chỉ dẫn cách làm thơ. Những bài tôi làm ra toàn là thơ đường luật. Tôi đăng báo Công Luận trong Nam.

Một hôm đến trường, tôi tiếp được một bức thư. Đó là bức thư đầu tiên Hàn Mặc Tử gửi cho tôi. Trong thơ, Hàn Mặc Tử tỏ ý cốt tìm cho biết để giao thiệp, trau luyện văn thơ. Tôi có gặp trên báo tên Hàn Mặc Tử một đôi lần, nhưng không biết Hàn Mặc Tử là ai, và cũng không biết bằng cách nào, Hàn Mặc Tử lại biết địa chỉ của tôi. Một tháng sau tôi mới trả lời thơ. Từ đó chúng tôi có thư đi, thư lại cho nhau, nhưng cũng toàn nói chuyện thơ.

Rồi nhân nghe tin bà Dì tôi bị bắt, Hàn Mặc Tử gởi ra cho tôi một bài thơ tặng bà. Đó là bài thơ đầu tiên Hàn Mặc Tử gửi cho tôi. Chúng tôi giao thiệp như thế được mấy tháng thì tôi phải về Quảng Ngãi. Cuộc giao thiệp gián đoạn. Về Quảng Ngãi tôi mới biết, chính chị bạn tôi quen biết với Hàn Mặc Tử, đã giới thiệu tôi với Hàn và cho Hàn địa chỉ.

Ở Quảng Ngãi mấy tháng, tôi lại trở vào Phan Thiết, rồi ra Mũi Né học nghề cô đỡ với cậu tôi. Đọc báo Saigòn Mới, cậu tôi thấy Hàn Mặc Tử nhắn trong mục thư tín là : Chị Mộng Cầm ở đâu cho biết địa chỉ. Ông mới hỏi tôi Hàn Mặc Tử là ai mà cứ nhắn hỏi cháu hoài. Sao cháu không trả lời.

Tôi kể đầu đuôi câu chuyện quen biết với mục đích trau luyện văn chương cho cậu tôi nghe. Cậu tôi cho phép tôi viết thơ cho Hàn Mặc Tử. Thư từ mật thiết đi lại trong mấy tháng thì một chiều thứ Bảy nọ, Hàn Mặc Tử ra Phan Thiết. Anh mướn đò đi Mũi Né tìm đến bệnh xá. Tôi đang làm thuốc cho một bệnh nhân, thì ông phu nhà thuốc đưa tôi một tấm danh thiếp có in mấy chữ Hàn Mặc Tử - Trưởng Hội Nghiên Cứu. Tấm danh thiếp này tôi giữ mãi làm kỷ niệm. Tôi bảo ông phu ra thưa với khách là chờ tôi một chút. Khi ra thì thấy một thanh niên ăn mặc âu phục xoàng xĩnh, đang đứng ở của bệnh xá.

Sau khi chào hỏi, tôi mời vào nhà giới thiệu với cậu tôi. Cậu tôi để chúng tôi tiếp chuyện tự nhiên. Kể ra vào thời đại nam nữ phải cách biệt, mà được như vậy cũng là tự do lắm rồi.

Hàn Mặc Tử xin cậu tôi, sẵn có đò cho phép tôi đi Phan Thiết chơi, luôn tiện nhờ tôi giới thiệu để gặp Bích Khê là cậu tôi mà anh hằng ao ước tìm gặp. Cậu tôi bằng lòng. Và tối hôm đó, chúng tôi xuôi đò về Phan Thiết.

Gặp hôm có trăng, chúng tôi không ngồi trên mui thuyền để ngắm sông nước mà ngồi trong khoang để nói chuyện. Hàn Mặc Tử không đẹp nhưng nhỏ nhẹ, dễ thương. Hồi này anh mới 24 tuổi, song trông anh yu tướng. Tôi in trí thế nào anh cũng không thọ. Nhờ ngọn đèn sáng dưới đò, tôi đã ngờ ngay hôm đó là anh có bệnh phung. Hai trái tai anh hơi đỏ, má dầy dầy. Vì có học ở nhà thương nên tôi biết triệu chứng. Tuy vậy, tôi chưa dám chắc. Sau này nhờ anh bạn cùng làm với Tử cho biết, lúc đó tôi mới chắc chắn.

Về chuyện đi chơi lầu ông Hoàng với Hàn Mặc Tử, tôi có đi, có gặp mưa, có ngồi ở nhà nghĩa địa, nhưng không phải vì đó mà Hàn Mặc Tử bị bịnh phung, như anh Quách Tấn viết. Nếu Hàn Mặc Tử bị phung thì sao tôi lại không hề gì cả.

Đoán Hàn Mặc Tử có phung, tôi không nói ra, song vẫn một lòng kính trọng anh. Đến đò Phan Thiết, tôi đưa Hàn Mặc Tử gặp cậu Bích Khê. Đến chiều, anh ấy đáp tàu về lại Saigòn.

Sau ngày ấy, tôi ra dậy ở trường Hồng Đức. Lẽ đó mà Hàn Mặc Tử mỗi chiều thứ Bảy đều có mặt tại Phan Thiết, chiều Chủ Nhật lại đáp xe về Saigon. Một chiều thứ Bảy, đi chơi Lầu Ông Hoàng anh thổ lộ tâm tình với tôi. Tôi có trả lời anh là: Chắc rằng không thể đến chỗ làm bạn trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi lý do thì tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thực ra vì biết Hàn Mặc Tử bị bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được. Ý tôi muốn được một người chồng mạnh mẽ tráng kiện. Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật trong hai năm như thế.

Trong thời gian này có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi thăm nhà, và trong nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối. Thế rồi, một lần tôi trả lời anh ấy : Em nghĩ chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe theo lời thân mẫu em.


Sau đó, Mộng Cầm đi lấy chồng, để lại niềm đau day dứt trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Cuộc tình đổ vỡ, cùng với bệnh trạng phong cùi mới xuất hiện, đã là nguồn thi cảm quan trọng nhất để thi sĩ có được những lời thơ kêu than, ảo não. Nếu không có Mộng Cầm, nếu không có cuộc tình đổ vỡ vì bệnh cùi, thì thi ca Việt Nam chắc hẳn không có những áng thơ tình như bài Phan Thiết, có địa danh Lầu Ông Hoàng là nơi đôi trai gái đã để lại biết bao kỷ niệm, hoặc nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã không có cảm hứng để sáng tác bài ca bất hủ “Hàn Mặc Tử”.

Khi Mộng Cầm cất bước sang ngang, để lại trong lòng Hàn Mặc Tử mối hận nghìn thu, thì lại một thiếu nữ thứ ba xuất hiện trong đời Hàn Mặc Tử. Đó là nhà thơ Mai Thị Lệ Kiều, biệt hiệu Mai Đình. Cuối năm 1937 Mai Đình đi qua Quy Nhơn, ghé thăm Hàn Mặc Tử, nhưng chàng không tiếp. Theo các tác giả viết về Hàn Mặc Tử, thì Mai Đình là một cô gái học thức, nhưng rất lãng mạn và hơi xấu. Tuy thế, để đáp lại tấm lòng người phương xa, chàng tặng nàng tập thơ Gái Quê. Đọc xong, nàng cảm động, sáng tác bài thơ Biết Anh gửi Hàn Mặc Tử để đánh dấu mối tình giữa hai thi sĩ tiền chiến:

Hàn Mặc Tử cao hứng, cũng đáp lại bài thơ đượm tình âu yếm. Do vậy, nàng sung sướng vội vã đi thăm chàng. Tuy nhiên, đến nơi, nàng hết sức ngỡ ngàng khi thấy chàng nhất định không chịu tiếp. Nàng cho rằng: chẳng qua vì sợ nàng trông thấy hình hài ghê gớm, nên không tiếp nàng mà thôi. Tin tưởng như vậy, nên có lần, nàng tâm sự với thi sĩ Quách Tấn :

Tôi biết tình tôi không xứng với Hàn Mặc Tử, nhưng đã yêu thì cứ việc yêu chứ sợ gì? Phải không anh?

Với thái độ cương quyết đó, Mai Đình không chịu lùi bước, nàng đến thăm chàng lần nữa. Các bà chị khuyên chàng không nên xử tệ với ai có lòng chiếu cố đến mình, do đó Hàn Mặc Tử đã tiếp Mai Đình hai lần. Và khi từ biệt, thi sĩ đã tặng nàng bài thơ có nhiều câu thống thiết. Về sau, Mai Đình biết lòng Hàn Mặc Tử chỉ yêu, chỉ rung cảm, khi làm thơ tặng mình nên đã lặng lẽ ra đi. Tuy thế, nàng vẫn trung thành, đến khi Hàn Mặc Tử chết rồi, không ai ngó ngàng, thì chỉ mình nàng cứ thui thủi đến viếng thăm phần mộ và cầu nguyện cho người tình xấu số.

Cũng trong cuộc đời tình ái của Hàn Mặc Tử, đồng thời với Mai Đình, còn một người nữa tên là Lê Thị Ngọc Sương. Ngọc Sương người Thu Xà, tỉnh Quảng Ngãi, là chị ruột của thi sĩ Bích Khê. Khi Mộng Cầm phụ tình đi lấy chồng, và Mai Đình không thể thay thế Mộng Cầm được, thì thi sĩ Bích Khê nghĩ ra một kế để an ủi Hàn Mặc Tử đang bị khủng hoảng vì cô đơn: Năm 1938 Bích Khê ra thăm Hàn Mặc Tử, có tặng chàng tấm hình mà ông chụp chung với người chị tên là Ngọc Sương. Chàng giới thiệu Ngọc Sương với Hàn Mặc Tử và cho biết Ngọc Sương là cô gái học thức, dáng dấp dễ thương. Rồi, dù chưa gặp lần nào, chàng cũng đem lòng yêu trộm, nhớ thầm. Một ngày kia, ngắm bức hình của Ngọc Sương, chàng không cầm lòng được, thốt ra bài thơ có chữ Ngọc Sương.

Ta đề chữ NGỌC trên tàu lá,

SƯƠNG ở cung Thiềm nhỏ chẳng thôi

Tình ta khuấy mãi không thành khối,

Nuốt giận đòi phen cắn phải môi.


Bích Khê biết chuyện, nhưng cứ giả vờ như không biết. Còn Ngọc Sương không hề biết gì về bài thơ đó. Mãi một năm sau, Mai Đình đọc bài thơ đó cho Ngọc Sương nghe, Ngọc Sương mới biết Hàn Mặc Tử đã yêu mình. Tuy thế, Ngọc Sương vẫn không biết tại sao chàng biết tên mình. Gạn hỏi mãi, Bích Khê mới thú thật và người chị đã mắng yêu đứa em :

Đồ qủy sứ, hèn chi mất tấm hình trong album mà hỏi thì cứ cười cười.

Về sau Ngọc Sương yêu cầu anh em và các bạn đừng thêm dầu vào lửa. Thế là mối tình một chiều của Hàn Mặc Tử với Ngọc Sương chấm dứt, nhưng vẫn để lại cho hậu thế những áng thơ trác tuyệt.

Sau Ngọc Sương, Hàn Mặc Tử gặp được một nguồn tình cảm mới. Đó là Thương Thương mà chàng gọi là nguồn thơ bất tuyệt. Thương Thương là một nữ sinh, em ruột của Trần Tá Phùng, cháu gọi Trần Thanh Địch là chú. Các nhân vật này đều là những nhà văn, nhà báo. Họ đều là bạn thân với Hàn Mặc Tử.

Nhận thấy Mộng Cầm đi lấy chồng, để lại tâm hồn Tử một lỗ trống mà Mai Đình không thể trám lấp nổi, nên Trần Thanh Địch, vì thương Tử cô đơn, phải sống trong túp lều tranh nơi rừng vắng, đã mượn cái tên Thương Thương giới thiệu với Tử, và nói rằng: nàng là một tuyệt sắc giai nhân, rất trân quý thơ văn của Hàn Mặc Tử. Sau đó, Tử nhận được một vài lá thơ của Thương Thương, với lời lẽ đoan chính, lịch sự. Tuy thế, những lá thơ ấy vẫn đủ sức làm ấm cõi lòng cô đơn của Hàn Mặc Tử. Rồi chỉ nghe cái tên kiều diễm, chỉ cảm nhận được chút lòng thơm thảo, mà Tử đem lòng yêu Thương Thương. Lắm lúc Hàn Mặc Tử biết yêu như thế là vô duyên, nhưng càng tưởng tưởng đến hình ảnh của Thương Thương, chàng càng yêu Thương Thương tha thiết. Trong một bức thư gửi cho Thương Thương, chàng thú nhận rằng: Em ơi, nhờ những giây phút nhớ nhung em mà anh đã quên được cuộc đời đau khổ, bệnh hoạn.

Sầu lên cho tới ngàn khơi

Ai lau ráo lệ cho lời nói ra,

Chiềy nay tàn tạ hồn hoa

Nhớ THƯƠNG THƯƠNG quá xót xa tâm bào!


Những bài thơ Hàn Mặc Tử làm trong lúc này nhiều khi rất siêu thoát. Chỉ trong nửa năm chàng hoàn tất được ba tập thơ, nói lên tình cảm đối với Thương Thương. Một tập định lấy tựa đề là Thương Thương, sau thấy không tiện, đổi là Cẩm Châu Duyên. Hai tập kia là Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội. Riêng Quần Tiên Hội, còn một đoạn cuối chưa viết, nhưng vì có sự can thiệp của gia đình Thương Thương, nên Hàn Mặc Tử đã quăng bút và giải nghệ viết lách. Thế là nguồn thơ khởi hứng từ tình yêu đã hoàn toàn tắt lịm trong con người Hàn Mặc Tử từ lúc đó cho đến khi chàng qua đời tại Quy Hòa.

Cốt truyện của Duyên Kỳ Ngộ là một thi sĩ, tức Hàn Mặc Tử đi tìm nguồn thơ, lạc vào một nơi tiên cảnh. Suối cất tiếng chào, chim đưa lời đón, và những tiếng sáo tiêu thánh thót theo hầu. Đương khi say sưa cùng cảnh vật, thì một tiên nga trong trắng và ngây thơ xuất hiện. Đó là Thương Thương.

Hai bên gặp nhau tình thanh, ý thắm, trao đổi tâm tình dưới bầu trời gấm hoa, đầy nhạc, đầy hương, đầy tiếng chim, tiếng suối phụ họa. Bỗng nhiên, thi sĩ chợt nhớ đến hoàn cảnh thực tại của kẻ cùi hủi, thân hình xấu xa, liền từ biệt Tiên Nga, ra đi với tấm lòng khô héo, và tiếng tiêu não nùng quấn quít bên chân.

Ngai mai: Nguồn thi cảm thứ ba: Những nỗi đau khổ