Một số người trong chúng ta, đã hơn một lần giơ tay vặn nút dò đài trên chiếc Radio : rà tới chỗ 19m, 25m, 31m, 41m... Quay đi quay lại cũng ngần ấy làn sóng. Nhất là làn sóng 31m. Nhưng mà rà tới đó rồi còn phải xê đi xích lại đôi chút mới bắt được đúng đài mà mình muốn (tiếng Anh gọi là Fine tuning : tinh chỉnh). Bởi lẽ cũng 31m đó, nhưng có biết bao nhiêu là đài : VN, BBC, VOA, Úc,… Mỗi đài trên làn sóng 31m đó có 1 tần số riêng, ví dụ : Hà Nội 31m tần số 10.060 KiloHetz, VOA 31m 9890 KHz, BBC 9605 KHz… . Những máy thu thanh nào có bộ rà đài bằng tần số, thì chỉ cần bấm nút : td. 10060 là có ngay đài HN. Vì thế chúng ta hay nghe thông báo : “Chương trình chúng tôi được phát trên làn sóng 31m, tức là 9710 Kilô chu kỳ… .” Phải đúng tần số thì mới bắt được đài mà ta cần.

Máy thu hình cũng vậy. Mỗi kênh có một tần số hình riêng, một tần số tiếng riêng. Rà đúng là hình rõ, tiếng trong. Rà lệch là hình mờ tiếng đục.

Chúa Giêsu chịu chết tại Giêrusalem. Khi sống lại, Ngài hiện ra với các môn đệ cũng tại Giêrusalem, phía nam Palestine. Nhưng có một lần hiện ra với chị Maria Mađalêna tại Giêrusalem, Chúa Giêsu nhờ chị đi báo với các môn đệ là hãy trở về Galilê, họ sẽ được gặp Chúa tại đó. Từ Giêrusalem về lại Galilê, chặng đường hơn trăm cây số, có lẽ phải 3 ngày đường mới trở về đó được…

Trong khi chờ gặp Thầy mình hiện ra tại Galilê, họ rủ nhau đi đánh cá : 7 người tất cả: Phêrô, Tôma, Nathanael, 2 người con của Zebeđê : Gioan và Giacôbê và 2 môn đệ khác… Họ thức trắng đêm nhưng vẫn trắng tay : đêm ấy họ không bắt được gì cả ! Sáng ra khi đã có thể nhận biết được người và thuyền, chứ không phải còn mờ mờ tối, Chúa Giêsu hiện ra. Nhưng không ai nhận ra Chúa, mặc dầu họ từ Giêrusalem trở về Galilê là để gặp Chúa. Nói theo ví dụ trong phần mở đề, thì họ đã cố ý tiến đến làn sóng 31m, nhưng vẫn chưa tinh chỉnh cho đúng tần số để có thể bắt gặp được Chúa. Họ chỉ mới thấy (Chúa) Giêsu đứng trên bờ, như một chàng thanh niên nào đó. Chúa Giêsu gợi ý để họ bắt đúng tần số : Ngài phát tín hiệu : Các chú có gì ăn không ? : ngôn ngữ miền biển có nghĩa là “Có đánh được con cá nào không ?” Họ trả lời “Không.” Chán nản, mệt mỏi. Vẫn chưa nhận đúng tần số. Chúa lại phát tín hiệu mới như là một lệnh: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền, anh em sẽ bắt được cá !”

Bên phải và bên trái thì khác gì đâu. Nhưng giống như một mật hiệu, khi cá thu được nhiều, Gioan nhận đúng tần số và báo liền cho Phêrô : “Chúa đó !” Còn các môn đệ khác, kéo lưới lên bờ đếm được 153 con cá to, lưới không rách, lại thấy than hồng có cá đang nướng bên trên, cộng thêm ít bánh bên cạnh, kèm theo lời mời nghe rất quen của Chúa : Anh em hãy đến mà ăn ! Họ mới thật sự là rà đúng tần số… Không ai dám hỏi “Người là ai,” vì các ông lúc đó biết rằng chính là Chúa.

Do đâu Gioan nhận ra được ngay “chính Chúa đó !” (cũng như chính Gioan là vị tông đồ duy nhất nhìn ngôi mộ trống là tin Chúa sống lại ngay, chứ không cần đòi Chúa hiện ra rồi mới tin từ từ như các tông đồ khác). Do đâu Gioan nhận ra ngay được Chúa (tức là, rà đúng tần số nhanh nhất) ? Có 2 giải đáp :

1. Do Gioan có lòng trong sạch.

Phúc thứ 6 trong Bát Phúc ghi : Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa. Những tâm hồn trong sạch, nhìn thấy Chúa nhanh hơn vì con mắt họ trong sáng. Có người còn nói mạnh, vì Gioan theo truyền thống là tông đồ duy nhất không lập gia đình, ở độc thân, giữ “đức trong sạch,” nên ông dễ nhận ra Chúa hơn các tông đồ khác. Nhưng lý do này không đủ mạnh cho bằng lý do sau đây :

2. Do Gioan yêu Chúa và được Chúa yêu.

Truyền thống xưa xem Gioan là người có biệt hiệu “Người Chúa yêu”. Nhất là trước khi nhận ra “chính Chúa đó” và thông báo cho Phêrô, thì biệt hiệu “người Chúa yêu” được sách Tin Mừng nhấn mạnh : “Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với Phêrô : Chúa đó !”

“Từ trái tim đi tới trái tim” là con đường nhanh nhất. Khi hai tim cùng rung một nhịp, một tần số, thì dù cách xa nghìn trùng cũng “thấy nhau.” Đã mấy lần, có một phái bộ nhân đạo Mỹ giúp VN mang tên gọi rất ý nghĩa “Trái tim tới trái tim” (Heart to heart), cho nên đi đến đâu cũng nhận ra nhau.

Trong vở tuồng "Tiếng hò Sông Hậu" có hai anh em sinh đôi tên Chơn và Chất, giống hệt nhau từ nét mặt, tướng đi đến giọng nói. Trong một cuộc tranh đấu với địa chủ, Chơn bị bắt đày đi Côn Đảo. Nhưng một thời gian sau anh vượt ngục trở về thăm mẹ già khi ấy đã mù lòa cả hai con mắt. Trong lúc Chơn đang ở nhà thì tên Hương Quản đến, Chơn nhanh trí giả làm Chất nên không bị lộ, nhưng ngay sau khi tên Hương Quản đi thì bà mẹ mù lòa ấy nói ngay : "Phải mày là thằng Chơn đó không?" Chơn chưa muốn cho mẹ biết nên trả lời "Không, con là thằng Chất đây mà, anh Chơn con còn đang ngồi tù". Nhưng bà mẹ nói "Thôi mà, con gạt ai được chứ gạt mẹ làm sao được, con chính là thằng Chơn của mẹ mà !" Chính tình yêu đã giúp cho người mẹ mù lòa ấy nhận ra con mình trong khi mọi người đều không nhận ra. Trường hợp của thánh Gioan cũng vậy : trong khi mọi người đều không nhận ra Chúa Giêsu thì chỉ mình Gioan đã nhận ra, vì Gioan yêu thương Chúa nhiều.

Hoàng thi Thơ có làm bài hát “Khi tình yêu đến” với những lời lẽ thật ý nghĩa : Khi tình yêu tình yêu tới, tuy có đông người, đôi mắt đôi mắt ta buồn cười, một người ta thấy thôi. Bàn về chữ “thấy,” liên quan tới tình yêu trong lần Chúa hiện ra, ta có ví dụ này:

Một giọt nước nếu nhìn bằng mắt thường thì cũng chỉ là một giọt nước, nhưng nếu nhìn bằng kính hiển vi thì lại là cả một thế giới sống động. Một cái hồ nếu được nhìn bởi một người nông dân thì cũng chỉ là một cái hồ, nhưng dưới mắt của một nghệ sĩ thì lại là cả một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời không thể nào tả xiết.

Như thế nghĩa là gì ? Nghĩa là cùng một sự việc nhưng có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy những cách nhìn khác nhau. Sự việc đã xảy ra trên hồ Tibêria cũng thế : lúc ấy trời còn tờ mờ tối, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các tông đồ đang lúc các ông thả lưới đánh cá. Các ông tưởng là ma nên run sợ và định chạy trốn. Riêng có Gioan là nhận ra ngay ấy là Thầy. Do đâu mà Gioan đã nhận định sắc sảo được như thế ? Chúng ta đã trả lời: Thưa vì Gioan là tông đồ yêu mến Chúa nhiều nhất. Chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan và giúp Gioan thấy được cái mà người khác không thấy. Người ta nói rằng tình yêu là một năng lực diệu kỳ, làm cho người ta mạnh sức, có thêm nhiều nghị lực để vượt qua những chướng ngại, chịu đựng những hy sinh và cuộc sống thêm lạc quan.

Điều này thật ra rất bình thường chẳng có gì khó hiểu. Chúng ta thử điểm lại một số kinh nghiệm trong cuộc sống của mình xem. Tại sao khi yêu, người ta thích tặng quà cho nhau ? Thích chở nhau đi chơi (tuy là bằng xe đạp) ? Thích lặn lội mưa nắng tìm đến nhau ? Nếu không yêu thì đem số tiền dành dụm để mua một món đồ đưa cho người khác thì quả là dại ! Nếu không yêu thì gò lưng đạp xe chở người ta đi chơi thì quả là ngu ! Nếu không yêu mà lặn lội mưa nắng đi tìm người ta thì quả là khờ !

Nhưng khi đã yêu thì tất cả đều đổi khác : Tặng quà là một niềm vui, được chở người ta là một sung sướng, lặn lội mưa nắng tìm đến nhau là bằng chứng của cả một tấm lòng thiết tha ! Cho nên thánh Augustinô đã nói rất đúng : “Ubi amatur, non laboratur” : khi đã yêu thì không còn biết cực nhọc.

Đối với Chúa cũng thế. Nếu ta không yêu mến Chúa hay yêu mến quá ít thì cầu nguyện là việc chán ngán, đến nhà thờ là một gánh nặng, vác thánh giá là một cực hình. Còn nếu ta yêu Chúa nhiều thì đương nhiên ta thích cầu nguyện, thì đương nhiên ta ham đến nhà thờ, đương nhiên ta sẵn sàng vác những thánh giá hy sinh Chúa gởi đến hàng ngày. Cho nên muốn sống đạo tốt thì cần thiết phải có lòng yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa nhiều thì hăng say sống đạo tích cực, yêu mến Chúa ít thì ít hăng hái hơn, và nếu không yêu mến Chúa thì Đạo trở thành gánh nặng, và làm những việc bổn phận trong Đạo chẳng khác nào con trâu kéo cày trưa.

Trong bài Tin Mừng, Chúa dọn sẵn cá, bánh : một cách thức biểu lộ tình thương. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Ai sống cũng trong tình yêu thì nhận ra ngay.

Chính Phê-rô, cuối bài Tin Mừng cũng được thử thách bằng 3 câu hỏi : Có yêu mến Chúa không ?

Một nhà kinh doanh ở Chicago có môn giải trí vui vui, là cứ cuối tuần, ông chọn 5, 7 em bé của các gia đình nghèo cho các em bộ đồ mới, dẫn các em đi công viên giải trí, rồi đi ăn. Cứ vậy, tuần này qua tuần kia. Một hôm, sau bữa ăn thịnh soạn, một em bé 8 tuổi chỉ vào nhà kinh doanh và nói : Thưa ông, ông là Giêsu ! Em bé này nói câu y như Gioan nói với Phêrô “Chính Chúa đó !”

Những ai làm ơn lành cho ta, có lẽ ta dễ nhận ra: “Chính Chúa đó !” Nhưng Chúa Giêsu không chỉ ở nơi những ân nhân, Ngài còn ở nơi cộng đoàn, nơi người linh mục, nơi Mình Máu Chúa, và nhất là nơi những người cùng khổ.

Đó là những cách hiện diện của Chúa, những hiện thân của Ngài : nhiều người trong chúng ta biết điều đó. Nhưng chúng ta không dễ gì nhận diện được Ngài. Như chúng ta biết làn sóng 31m đó… nhưng không thấy Ngài, vì tần số yêu thương ta chưa rà tới. Nói khác đi, ta chưa thật sự sống yêu thương nên không dễ gì nhận ra Chúa.

Phải sống thế nào như nữ tu tập sự của mẹ Têrêxa Calcutta. Sau khi chăm sóc cho một người đói khổ hấp hối, trở về chị báo cáo với Mẹ : Thưa Mẹ, hôm nay con đã đụng chạm tới thân thể Chúa Kitô.

Phải có tình thương yêu thật sự mới nhận ra được “chính Chúa đó” như Gioan môn đệ Chúa Giêsu yêu và yêu Chúa Giêsu.