Lối vào

Ngay từ thời học sinh cấp I, không hiểu sao tôi đã thích để ý những chuyện hằng ngày xảy ra xung quanh mình, rồi mày mò tự viết lách, dù lúc đó chỉ “viết chơi” thôi. Tôi cũng thích đọc báo chí từ thuở nhỏ, hồi đó các chị tôi hay mua báo Thằng Bờm (kiểu như báo Áo Trắng ngày nay nhưng đa dạng hơn), khi rảnh thì tôi cứ đọc và giải các ô chữ trong báo.

Cứ thế. Thích thì làm. Làm riết rồi quen. Làm mãi hóa… mê. Cái đam mê “không giống ai”, cái “máu” lạc loài ấy không ai có trong dòng tộc – cả nội lẫn ngoại. Mới đầu tôi tự tìm sách vở học nhạc, rồi bắt đầu viết ca khúc khi tôi tròn 16 tuổi, nhưng lúc đó chỉ viết Thánh ca. Sau nhiều năm tôi mới viết nhạc đời. Ca khúc Bài Ca Cho Bé là ca khúc đầu tiên được Đài Tiếng Nói Việt Nam dàn dựng và phát sóng năm 1991. Còn bài thơ đầu tiên của tôi xuất hiện trên báo Tuổi Hồng năm 1991 là bài Tuổi Mười Lăm. Được đà làm tới, “hành trình viết lách” của tôi tính đến nay vừa tròn 20 năm. Nếu là tuổi đời thì còn “trẻ người non dạ”, nhưng nếu là “tuổi viết lách” thì cũng không còn trẻ.

Viết lách

Tôi không là người chuyên nghiệp trong nghề báo – vì tôi không được học hành chính quy về lĩnh vực này. Tôi chỉ là kẻ nghiệp dư trong việc viết báo, nhưng viết mãi cũng hóa ra không khác gì chuyên nghiệp vì “máu” càng ngày càng thấm sâu vào con người. Theo thời gian, ngòi bút có thể “sắc” hơn ở mức độ nhất định nào đó, nhưng lại khó “lách” hơn.

Tôi đến với việc viết báo vừa tình cờ, vừa bất đắc dĩ, và cũng có chút “máu mê”. Cái gì đam mê cũng khó bỏ, tất nhiên “chuyện viết lách” cũng vậy. Đối với tôi, cái đam mê viết của tôi có “khác người” hơn vì đó như điều “bắt buộc”. Tại sao? Vì ngòi bút như “cần câu cơm” của tôi, dù chỉ “câu” được những “con cá tép”. Biết sao được, vì không câu không được!

Cụ thi hào Nguyễn Du so sánh: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Còn cụ Đồ Chiểu xác định: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm – Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Điều đó cho thấy ai cũng phải có cái Tâm, đặc biệt đối với những người viết báo. Lời nói dễ qua tai (trừ trường hợp thu âm và thu hình), nhưng những gì viết ra thì có thể còn hoài, giấy mực rõ ràng từng dấm chấm, dấu phẩy, ai cũng có thể đọc được tư tưởng của người viết.

Việc gì cũng có nỗi khổ đặc trưng. Và “chuyện viết lách” cũng không ngoại trừ. VIẾT được một bài đã là khó, LÁCH được càng khó hơn!

Ca khúc, thơ, truyện hay bài viết đều có “số phận” hẩm hiu nhất định. Trong 20 năm viết lách, tôi thấy có những điều “kỳ lạ”. Có những ca khúc tôi gởi bình thường thì không được dùng (có thể hiểu là “bị chê”), nhưng khi tôi gởi dự thi thì lại đoạt giải. Các tòa soạn cũng khác nhau, tùy quan điểm của mỗi biên tập viên (BTV), có thể BTV trước có “cảm tình” với tác giả này, nhưng BTV sau lại “không ưa” tác giả đó. Nhiều báo tôi thấy có tình trạng này. Cái mà người ta gọi là “phe cánh”. Tất nhiên, là con người thì không thể tránh khỏi “thất tình”, nhưng phải làm sao đừng định kiến.

Còn có những trường hợp theo kiểu “gà tức nhau tiếng gáy”. Thấy người khác viết được nhiều hoặc làm được nhiều thể loại (văn, thơ, nhạc, họa) thì cũng có người ác cảm. Ngay cả những cuộc thi cũng xảy ra tình trạng thiên tư. Vậy làm sao có cái “công tâm” cần thiết cho nghề báo – báo nói hoặc báo viết? Không dám nói thẳng, nói thật hoặc không muốn phục thiện thì thật nguy hiểm, vì Dục Tử xác định: “Biết đúng mà không theo là dở, biết sai mà không sửa là mê”.

Chuyện thi cử cũng có những điều “rắc rối”. Có những cuộc vận động sáng tác ca khúc mà buộc người dự thi phải kèm CD. Giám khảo không thể “đọc nhạc” sao mà phải chấm giải bằng cách nghe? Vậy thì rất thiếu độ chính xác. Có những cuộc thi người ta nhìn tân tác giả mà “định đoạt”, đây là kiểu tệ nhất. Nhưng có những cuộc thi không cho ghi tên tác giả hoặc bất cứ thông tin nào về tác giả trên bản nhạc, tác giả tự chọn mã số riêng và ghi thông tin tác giả cho vào một phong bì dán kín. Khi nào chấm xong mới lấy các thông tin kia ra và mới biết ai là người đạt giải nào. Tôi thấy cách này hay, nhưng hiếm khi được áp dụng!

Thuận ngôn, nghịch nhĩ. Sự thật luôn phũ phàng. Người ta không thích các “thuận ngôn” vì chúng luôn gây “nghịch nhĩ”. Dám thay đổi là một dạng can đảm. Ngành nghề nào cũng cần có Đức. Ngành y gọi là y đức. Còn nghề báo gọi là gì? Lâu nay người ta phê phán nhiều về chuyện y đức, còn cái đức của nghề báo thì sao?

Tôi rất khâm phục những nhà báo dám sống thật với lòng mình, dám đấu tranh với cái xấu, dám xả thân vì công lý, không nhận tiền đút lót hoặc “nhờ vả” dù cuộc sống họ vẫn còn nhiều khó khăn về kinh tế. Tất nhiên, tôi “không ưa” gì những người xu nịnh, tâng bốc, vì “giá áo, túi cơm” mà sẵn sàng đánh mất lương tri chính trực.

Tạm kết

Có những báo rất lịch sự, quan tâm và nâng đỡ tác giả, thậm chí còn gọi điện hoặc gởi mail mời nhận nhuận bút. Nhưng có những báo lại “chảnh” và “tệ” thật, không hề tôn trọng tác giả, thậm chí còn “xù” nhuận bút của tác giả – người miền Bắc có cách nói là “ăn cắp cơm chim”.

Bất kỳ lĩnh vực nào – xã hội, tôn giáo, báo chí, thương mại, chính trị, nghệ thuật,… – cũng đều cần có cái Tâm, dù là “nghề” hay là “nghiệp”. Nói thì phải làm, không thể nói suông, không thể “đánh trống bỏ dùi” hoặc nói cho có “phong trào”.

Như đã nói, tôi không làm báo chuyên nghiệp. Tôi chỉ là người viết ca khúc, làm thơ, dịch thuật, viết truyện ngắn, và viết những gì tôi cảm nhận về cuộc sống, vì đó là cách “xả stress” của tôi, nhưng dù viết ở lĩnh vực nào, tôi vẫn phải chân thật và đưa cái Tâm vào đó. Tôi luôn tâm niệm: “Tôi viết những gì tôi sống, và tôi sống những gì tôi viết”.