VÃN ĐỨC THẦY VÊRÔ PHÒ TÁ ĐỨC VUA GIA LONG PHỤC QUỐC



DOMINIQUE-THOMAS TRỊNH KHÁNH TẤN
TRI HUYỆN HONORAIRE

SAIGON

IMPRIMERIE DE LA MISSION À TÂN ĐỊNH
1904

TỰ

Năm 1902 ngày mồng 10 tháng Mars, tại Nam Kỳ đã làm lễ trọng dựng hình Đức Thầy Vêrô giữa thành Sài Gòn, trước Nhà thờ Đức Chúa Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, trước là cho đặng tỏ lòng muôn dân biết ơn đấng đã có công trọng khôn đang, sau là cho đặng bia tích vững bền cho kẻ hậu lai đặng thấy mà nhớ người.

Thật ai nấy trong nước Việt Nam, nhứt là tại Nam Kỳ đã nghe tên Đức Thầy Vêrô, cùng biết người đã phải chịu ghe nỗi gian nan, đang cơn quốc gia tàn bại, cho đặng giúp đấng quân vương đang hồi bạc phận, cùng dẹp đặng ngụy thần cho bá tánh an cư lạc nghiệp, nên đáng cho quân vương, triều thần, đều đem lòng phụng kính, đáng cho cả và dân nước ta muôn đời thương nhớ, đáng cho ngôi để lập lăng và tạc bia vàng, đề chữ thắm, kể lại mọi công nghiệp người đã gầy dựng quốc an, nhơn tử lưu danh, lưu danh thiên cổ. Nhưng rày không còn mấy ai nhớ tỏ mọi công việc người đã làm và công lao cực khổ thể nào, ra như biết tên mà quên mặt, nên nay tôi ra công chép cuốn sách mọn nầy, tóm lại hạnh đấng Quân sư, từ khi mới sanh ra cho đến ngày tạ thế, cho ai nấy đặng xem hầu thêm lòng cám ơn, và mến đức người hơn nữa.

Tôi đã lục trong nhiều Sử Nam Việt và nhứt là hạnh Đức Thầy của cha Louvet đã chép, mà rút ra mọi điều theo thứ tự; nên tuy là vắn tắt, song đã ký chép đủ, chẳng bỏ qua điều nào. Lại tôi có ý ra sức tìm những tiếng cho mau hiểu rõ ràng, và có để một ít tiếng chữ thường, người ta hay dùng nói mà thôi. Tôi tưởng dầu những kẻ học trường sơ coi cũng có lẽ hiểu đặng những điều đã chép trong sách nầy.

Chợ Quán, ngày 15 tháng 6 An Nam, năm 1904.

DOMINIQUE-THOMAS TRỊNH KHÁNH TẤN

Tri huyện honoraire

ĐỨC THẦY VÊRÔ

Sử xanh chép đã đành rành,

Pinho Giám mục thơm danh để đời.

Vêrô cầm khóa cửa trời,

Thật là bổn mạng của thời Đức Cha.

Vốn người quê ở Phangsa. 5

Giàu, sang, vừa phải, nhằm là bực trung.

Song thân nhơn đức lạ lùng,

Ông bà kết bạn thỉ chung thuận hòa.

Bá niên, giai lão, một nhà,

Tử tôn miêu duệ phước đa vuông tròn. 10

Sanh ra mười chín người con,

Đức Thầy trưởng tử hết lòng mến thương.

Người thì tánh trí phi thường,

Ông bà sở định vào trường đi tu.

Chí lăm ra sức công phu, 15

Học hành đạo lý mấy thu ai bì.

Thông minh, nhơn đức lạ kì,

Kinh kia, sách nọ, người thì suốt thông.

Ơn trên Chúa định thưởng công,

Phong quờn linh mục để hòng giáo dân. 20

Hai mươi bốn tuổi xuất thân,

Xin vào trường Hội ân cần liệu toan.

Quyết đi giảng đạo bốn phang,

Lén cha, giấu mẹ, họ hàng không hay.

Thảm buồn nhiều nỗi thương thay! 25

Mấy em người cũng chẳng bày điều chi.

Xuống tàu vượt biển trẩy đi,

Xăm xăm lướt dặm qua thì Việt Nam.

Khẩn cầu Chúa đoái lòng phàm,

Nguyện xin thần giúp dẫn đam đi rày. 30

Vòng do tây quốc chầy ngày,

Đi mười tám tháng tới rày Hà Tiên.

Gặp cơn bắt đạo không yên,

Lại trong nhà nước đảo huyền phân vân.

Lúc dời chơn, rất ân cần, 35

Gởi thơ xin lỗi song thân nhiều lần.

Tỏ bày mọi nỗi muôn phần,

Chép biên kể hết phân trần ra đây.

Thơ Đức Thầy gởi về xin lỗi cùng cha mẹ:

” Trước trọng kính mẹ cha bá bái,

Sau dưng câu vạn phước bình an. 40

Kể từ ngày con mới dời sang,

Lòng thương nhớ mẹ cha hết sức.

Bỏ quê hương thật lòng nên cực,

Cách mấy em biết mấy đoạn sầu !

Bởi bấy lâu con đã khẩn cầu, 45

Lòng quyết chí kiếm tìm chiên lạc.

Dầu cực khổ cam bề gánh vác,

Cho nhiều người hồn đặng tiêu diêu.

Dốc một lòng giảng dạy mười điều,

Mở đạo Chúa danh Cha cả sáng. 50

Lúc gần đi lòng sầu lai láng,

Muốn tỏ cho cha mẹ biết hay.

Song sợ vì nhiều nỗi đắng cay,

Song thân bảo không cho dời bước.

Sự hiếu trung con chưa đền được, 55

Lại làm cho cha mẹ héo don.

Công phụ hiền, báu tợ núi non,

Ơn từ mẫu, thì con chưa trả.

Lạy mẹ cha dấu yêu vô giá,

Mười chín con, còn lại mười hai. 60

Dưng con cho Đấng tạo muôn loài,

Hầu dạy dỗ các người tha xứ.

Lạy mẹ cha xuống ơn tha thứ,

Bởi Chúa đà định để cách nhau.

” Kiểng lạ thay! Vắng vẻ trước sau; 65

Muôn điều hiểm, trăm đàng tư lự.

Con nay dám tỏ điều tâm sự,

Cho cha mẹ đặng biết, đặng hay.

Nhà của con thật rất hèn thay,

Lợp bằng lá, kín mưa, đỡ gió. 70

Phận con nay rất nên nghèo khó,

Song học trò nuôi đặng bốn mươi.

Ước trông sau dạy dỗ người người,

Cho chúng nó nối quờn linh mục.

Giúp địa phận, muôn dân tùng phục, 75

Cho đạo rày nổi tiếng danh vang.

Lúc bây giờ bổn đạo nghèo nàn,

Đặng ít ít chưa đông gì mấy.

“Chỗ Hà Tiên, khắp trong nơi ấy,

Gần núi non, gần biển, gần rừng. 80

Sớm lòng con dạ những bưng khuâng,

Chiều thơ thẩn vào ra cửa ngõ.

Ngó xuống sông, thảm thương võ võ,

Thấy những thuyền thương mãi vãng lai.

Xem trên trời, lộng lộng quang khai, 85

Những cầm thú bay qua, bay lại.

Chốn núi non, con sầu bải hoải,

Nơi rừng già quạnh quẻ tư lương.

Đường vơi vơi, huyền viễn vô thường,

Nẻo vọi vọi, trông đà lắt léo. 90

Ve dắng dỏi, lòng buồn khô héo,

Dế ngâm sầu, từ đoạn nhớ thương.

” Khốn thân con! Nhiều nỗi tai ương,

Vì cấm đạo ghe đường khổ não.

Bắt con rày vô phương khả đảo, 95

Cầm trong tù đã mấy tháng liên.

Cổ mang gông, tay lại mang xiềng,

Còn bổn đạo, chết khôn kể xiết.

Ở trong tù rét đà rũ liệt,

Trọn mùa chay, đau đớn luôn luôn. 100

Song thật con lòng chẳng có buồn,

Chịu việc ấy, lấy làm có phước.

Chốn lao tù con đà khỏi được,

Lại gặp thơ cha mẹ gởi sang.

Cảm nghĩa sâu, hai cụm xuân đàng, 105

Đã tha lỗi, lại còn chúc phước.

Mắt xem thơ hai hàng thấm ướt.

Thấy mẹ cha sợ hãi cho con,

Vì cơn nầy nhiều nỗi thon von,

Đang bắt đạo ghe đàng khốn cực. 110

Xin cha mẹ chớ hề buồn bực,

Phú dưng con theo ý Chúa Cha.

Đất Nam Kỳ cách mặt rất xa,

Song lòng trí con đâu dám cách.

Thân phận con một mình đât khách, 115

Trí nhiều khi như gặp mẹ cha.

” Ớ Trái Tim Chúa cả thiên tòa,

Xin thương mến mẹ cha tôi hỡi!

Đàng xa xuôi khó bề lui tới,

Xin giúp rày hằng bữa bình an. 20

Đặng hưởng câu vạn phước thọ toàn,

Phần hồn xác thảy đều mạnh sức.

Xin mẹ cha lo bề đạo đức:

Kính Trái Tim Chúa cả luôn luôn,

Thì đặng an lòng chẳng có buồn: 125

Giữ nghĩa Chúa, hầu sau Chúa thưởng.

” Rất thương thay! Cù lao nuôi dưỡng!

Mấy em thì xin dạy dỗ liên.

Xin mẹ cha thường bữa cầu nguyền,

Cho con đặng trọn niềm hiếu tử, 130

Bổn phận con lo bề nắm giữ,

Phước đức thì ra sức cần chuyên,

Hầu giảng rao danh Chúa các miền,

Mở đạo thánh khắp nơi Nam Việt.

Thật con nay lòng mừng khôn xiết, 135

Làm lễ thì hằng nhớ mẹ cha.

Lại con năng xin Đức Chúa Bà

Hằng phù hộ xuống ơn che chở,

Trước trong nhà, sau là xứ sở,

Cùng bà con hết thảy bình yên. 140

Cả trong dòng kính Chúa thượng thiên,

Ngõ sum hiệp trên nơi cõi thọ.

Mọi điều kính thăm đà tỏ rõ,

Chúc miên trường hai chữ.” Nay thơ.

Bấy lâu thương nhớ đợi chờ, 145

Viết thơ kể nỗi tri cơ nhiều tờ.

Trông tin dạ những ước mơ,

Nay cha mẹ mới gởi thơ tỏ bày:

Đã tha lỗi, lòng thương thay!

Lại còn chúc phước cho nay muôn phần.150

Từ đây nhựt dạ ân cần

Giảng rao đạo chánh, giáo dân các miền.

Đức Cha địa phận hằng khuyên,

Bảo thì phải ráng cần chuyên việc nầy,

Dạy người bổn quốc làm thầy, 155

Nối quyền Linh mục, giữ nay mối giềng.

Gắng công ra sức chẳng phiền,

Tập rèn sĩ tử nên hiền, nên danh.

Tai bay, họa xảy chẳng lành:

Ngô, Mên hiệp lại, tung hoành hại di 160

Ba cha tây ở một khi,

Một cha bị chết, còn thì hai cha.

Người bèn khi ấy trốn ra,

Giết đoàn sĩ tử còn mà ít hơi.

Phá nhà, phá cửa, tả tơi; 165

Của thâu cướp hết tức thời bỏ đi.

Việc rồi công luận một khi,

Cử người lên chức làm thì Bề trên.

Giữ gìn trường học cho bền,

Biết đâu cho đặng lập nên bây giờ? 170

Xiết bao những nỗi bơ vơ,

Nam Kỳ cấm đạo, đỗ nhờ sao yên?

Xiêm, Mên, bị giặc liền liền,

Khắp trong bá tánh đảo huyền đa đoan.

Xét đi tính lại kỉ cang, 175

Phải dời trường học trẫy sang chẳng chầy.

Qua miền thuộc địa của tây,

Ponri xứ ấy nước nầy nên xa.

Đường đi cách trở sơn hà,

Mướn ghe một chiếc thả mà nổi trôi. 180

Tớ thầy thảm thiết thương ôi!

Cha con lặn lội, kể thôi không cùng.

Minh mông sóng bổ đùng đùng,

Địa bàn một cái để dùng mà coi.

Trăng trăng, nước nước, trời trời, 185

Tới nơi cảnh lạ, lập thời trường ra.

Lo dạy dỗ, dựng nên nhà,

Bốn năm ở đó, được mà bình yên.

Đức Cha địa phận cao niên,

Nên nay phải chọn thế quyền giữ chăn. 190

Cử cha Pinho chức thăng,

Sau làm Giám mục giữ căn bổn nầy.

Đức Cha địa phận vui vầy,

Gởi tờ về đến, dưng ngay Giáo Hoàng.

Lịnh trên phê chỉ rõ ràng, 195

Ưng cho người đặng chiếu vàng sắc phong.

Tính rồi các việc ngoài trong,

Đức Cha tạ thế đam lòng lo toan.

Đất Nam Kỳ, nước Cao Man,

Ấ y là địa phận nấy ban cho người. 200

Lên quờn tuổi mới ba mươi,

Mattia lễ thánh thì người thọ phong.

Lãnh chức rồi mới vừa xong,

Trở về địa phận giữ trong mối giềng.

Tới Hà Tiên, rất cần chuyên, 205

Bi Lư lập họ, về miền nước Mên.

Sai các cha giảng phía trên,

Rồi sai phía dưới, xuống lên khắp miền.

Nam Kỳ địa phận chưa yên,

Qua Xiêm, sang Mọi, đi Mên giảng truyền. 210

Đức Cha chọn đứng nhơn hiền,

Phong người bổn quốc nối quyền làm cha.

Lo sau dạy dỗ người ta

Cho đồng ngôn ngữ, thiệt là dễ hơn.

Phong cha Nghi đặng lên quờn, 215

Sau vua gặp được, nhờ ơn ông nầy.

Nước nhà loạn, biết tôi ngay,

Xin sau xem việc ông thầy hiền nhơn. ”

Đọan nầy tỏ hết căn duơn,

Nước Nam sự tích nguồn cơn như vầy. 220

Cứ trong Sử, làm ra đây :

Nhà Lê chánh vị ngự nay ngôi quyền,

Khắp trong triều chẳng đặng yên,

Lại là thế nhược, lúc nghiêng, hồi nghèo.

Nhiều khi trong nước cheo leo, 225

Thì là họ Nguyễn hằng theo giúp hoài.

Lại nhờ họ Trịnh giữ cai,

Phò vua vực nước, trong ngoài sửa sang;

Đánh Nam, dẹp Bắc danh vang,

Nên vua trọng thưởng phong ban chức quờn; 230

Tỏ lòng kính chuộng biết ơn,

Đặt làm hai chúa căn nguơn mọi đàng.

Song vì họ Trịnh cao sang,

Quyền cao thế mạnh gần ngang bệ rồng.

Chúa Nguyễn Hoàng, lòng ước trông, 235

Ông nầy dòng Nguyễn khởi công ban đầu.

Mưu kia, chước nọ, nhiệm mầu,

Đêm toan, ngày tính đặng hầu tách ra.

Ông Trịnh Kiểm, gốc Trịnh gia,

Có tài dẹp giặc khắp mà gần xa. 240

Chị Nguyễn Hoàng, vợ Trịnh gia,

Xin cho em mới đặng mà xuất thân.

Trịnh Kiểm tâu, vua ân cần,

Đàng Trong phê chỉ, an phần trẩy xa.

Đàng Ngoài từ Huế sấp ra, 245

Đàng Trong từ Huế sấp mà trở vô.

Trấn nơi Huế, lập nghiệp đô.

Nguyễn gia, Trịnh chúa, phân phô nghịch rày.

Nguyễn không tùng Trịnh ngày nay;

Đánh nhau trăm trận, Nguyễn tày không suy. 250

Từ làm chúa lập kinh kì,

Mấy đời nay mới vận thì đổi đi.

Duệ Vương dòng Nguyễn trị vì,

Có quan phụ chánh, hiểm nguy trăm đàng.

Tên người là Trương Phước Man, 255

Ở ăn khắc bạc, dân than thở lòng.

Huế thành hết thảy ngoài trong,

Không còn tùng phục, hòng mong phản đầy.

Vua Lê, chúa Trịnh bàn nay,

Sai Huỳnh Ngũ Phước sắp bày binh cơ. 260

Quan quân tới Huế phất cờ,

Đánh nay Nguyễn chúa bây giờ chạy đi.

Quảng Nam Nguyễn ngụ một khi,

Kế đâu ông Nhạc mới thì dấy binh.

Giặc nầy thiệt dữ nên kinh, 265

Anh em ba gã đồng tình làm hung.

Nhạc, Huệ, Lữ, thật tam hùng,

Đã nên tài trí, lấy cùng nước Nam.

Nhạc hay muốn nặng túi tham,

Thua bài, thua bạc, hằng ham bạc tiền. 270

Làm biện lại đánh bạc liên,

Của quan làm hết, Nhạc liền thoát thân.

Trốn đi khi ấy, hiệp quần

Phía tây trên núi, cướp lân, phá làng.

Lần lần tụ đặng vài ngàn: 275

Tây Sơn gốc giặc rõ ràng thế ni.

Trước rằng: phò giúp triều nghi,

Nhạc sau không kể, không vì tới chi.

Muôn binh tướng mạnh dị kì,

Qui Nhơn chiếm cứ, lập thì nghiệp đô. 80

Nguyễn gia thế đã đơn cô,

Tây Sơn mới đánh, chạy vô Sài Gòn.

Ba chú cháu cùng bà con,

Ở nơi Gia Định chẳng còn binh cơ.

Nhạc xưng vương mới tung hô, 285

Hiệu đề Thái Đức, đắp tô lũy thành.

Sai em là Huệ xuất hành,

Đi ra đánh Huế tranh giành đoạt ngang.

Giục binh thẳng riết băng ngàn,

Đánh đâu thắng đó, đã vang trong ngoài. 290

Vua Lê, chúa Trịnh thua hoài,

Cự đà hết sức, hết tài dõng binh.

Lấy Thăng Long, chỗ Lê kinh,

Khi đầu Huệ cũng còn nhìn tới vua.

Vua Lê đã thất, bị thua, 295

Vua đem công chúa gả đùa cho va.

Lầm mưu khẩu thiệt, tâm xà,

Gả con cho giặc rất đà thiết tha!

Mở kho lấy của hằng hà,

Phen sau Huệ biểu tôn mà lên ngôi. 300

Xưng Quang Trung hiệu vừa rồi,

Đặt quan các chỗ, giữ coi an bài.

Việc xong, từ giã Đàng Ngoài,

Trở về thành Huế, ngự đài Nguyễn gia.

Cảnh Hưng Lê đế thăng hà, 305

Tôn vua Chiêu Thống rốt mà nhà Lê.

Vua nầy chịu cực não nề,

Cùng là chúa Trịnh trăm bề gian nan.

Bấy lâu chúa dựng ngai vàng,

Nhiều đời nay cũng đều tàn giang san. 310

Tây Sơn đánh đuổi phá tan,

Sót còn một ít trốn ngang lên đàng.

Thảm thay! Thái hậu tân toan,

Cùng là hoàng tử chạy sang qua Tàu.

Dưng thơ tấu hết trước sau, 315

Xin cùng Thanh đế chữa bàu đoái thương:

Vua quan thất quốc triều đường,

Ngày nay cứu giúp, ơn bường thái sơn.

Vua nghe tỏ nỗi nguồn cơn,

Động lòng thương đến ra ơn hết lòng. 320

Lịnh truyền Tổng đốc Quảng Đông,

Sai Tôn Sĩ Nghị hưng công binh đầy.

Đại Thanh cờ dựng vang dầy,

Quyết sang vấn tội, giúp rày vua Lê.

Mười muôn binh kéo tràn trề, 325

Ông Tôn Sĩ Nghị chỉ đề tướng quân.

Các quan mạnh đã như thần,

Những là đề đốc muôn phần phò phang.

Binh qua các ải, các gành,

Lớp thì đánh tẩy, lấp toan dựng thành. 330

Bắn ra đồn cháy khắp quanh,

Các quan ngụy đảng bôn hành vỡ tan.

Sông Nhĩ Hà binh sắp dàn,

Rồi sang Hà Nội, chỗ thành Thăng Long.

Um sùm những tiếng Quảng Đông, 335

Binh như kiến cỏ tràn đồng, chật sông.

Tống tờ khắp hết ngoài trong,

Khoe khoang tướng mạnh, binh ròng khôn đang.

Kiêu căng kể chuyện hiển vang,

Rằng: “ Vua Thượng vị dạy sang khử tà. 340

Làm cho hòn đá chẻ ra,

Núi non khắp cả gần xa ban bằng.

Làm cho sông biển khô khan,

Bao nhiêu đảng tặc đánh tan đi rày. ”

Quang Trung nghe giận lắm thay, 345

Thấy tờ phi báo, cười nay phán rằng:

” Tao cho nó xấc mấy thằng;

Để tao chánh vị cao thăng bây giờ. ”

Gộp binh khắp hết kéo cờ,

Tới nơi Thanh đóng viết thơ tức thì. 350

Xin đầu, xin lỗi một khi,

Khiêm nhường, nhút nhác, ai bì nhỏ nhoi.

Chẳng dè binh đã hẳn hòi,

Thanh khinh Nam dở, có coi ra gì.

Thần công súng phát khắc kì, 355

Tứ phương giai ứng, voi thì kéo ra.

Súng đâu bắn vải, binh sa,

Đèn sào, hỏa hổ, vụt mà khắp giăng.

Binh Tàu thua chạy nhào lăng,

Trèo thành, leo lũy, trốn băng đã đầy. 360

Ai ôi! Mấy tướng chết ngay,

Dưới sông khách nổi ngày rày linh đinh.

Trận nầy thật dữ hết tình,

Ngụy vương vinh hiển, quan binh ai tày.

Tướng hùm, tướng hổ giỏi hay, 365

Cùng là quân sĩ chết nay nửa phần.

Sớ tâu thanh đế ân cần,

Vua cho binh viện đặng lần trẫy qua.

Phước Khương An tướng sai ra,

Sắp binh chín tỉnh, kíp mà tới nơi. 370

Quang Trung nhiều kế, nhiều lời,

Bạc vàng hối lộ tức thời đam dưng.

Thiệt nên bực đại gian hùng,

Trăm hung, ngàn dữ, mưu chưng nên già.

Phước tướng quân tấu thượng tòa, 375

Xin binh khoan huởn, đặng mà liệu toan.

Rằng mùa hè nắng chan chan.

Lại mời Lê để qua sang nơi mình.

Bạc đen mưu chước nên kinh.

Vua Lê vội vã cất mình tới dinh. 380

Quan rằng: phản tặc nó khinh,

Cạo đầu, gióc tóc cho in như mình,

Hầu cho đặng dựa oai linh,

Tây Sơn nó sợ, đặng mình khởi binh.

Vua Lê lòng tưởng thiệt tình, 385

Biểu sao, làm vậy, chẳng minh lòng tà.

Tướng quân gian tấu, tâu qua,

Xin vua Thanh đế đặng mà bãi binh.

Rằng: “ Vua Lê đã thuận tình,

Ở yên Trung thổ, an bình thảnh thơi. ” 390

Dưng tâu: “ Ông Huệ xưng tôi,

Cúi đầu tạ tội, phục thôi đã rồi. ”

Vua Thanh nghe tấu y lời,

Bãi binh hết thảy, thiệt thời bất nhơn.

Lại còn đem sứ Tây Sơn, 395

Đặng vào triều yết lãnh quờn Thanh phong.

Phong cho ông Huệ vừa xong,

Làm vua Nam quốc, giữ trong nước nhà.

Vua Lê mắc kế gian tà,

Yên Kinh Thanh đế đam mà tới nơi. 400

Thanh vương phong chức cho người

Bực hàm tam phẩm, hết thôi tái bồi.

Vận Lê đến thế, hỡi ôi!

Ba trăm sáu chục năm rồi còn chi!

Rầu buồn hoàng tử thát đi, 405

Cùng vua nay cũng đều thì băng luôn.

Tám năm thái hậu thảm buồn,

Chết luôn hết thảy, đượm tuôn khôn cùng.

Gần băng, vua trối thỉ chung,

Xin đam hài cốt về chưng nước nhà. 410

Ngày sau Thanh đế chỉ ra,

Cốt vua Lê đã chở mà về quê.

Ấ y là sự tích nhà Lê,

Đây biên việc đạo thuộc về nước ta.

Hậu Lê chánh vị quốc gia, 415

Đời vua Vĩnh Tộ đạo mà giảng sang.

Sách xưa còn để rõ ràng,

Chúa ban ơn xuống, Giáo Hoàng phán ra.

Sai truyền các đấng làm cha,

Trẫy qua Nam Việt đặng mà dạy dân. 420

Ban đầu khốn cực nhiều phần,

Chịu người xua đuổi gian truân ghe đàng.

Trịnh Trang làm chúa hiển vang,

Xuống ơn cho phép các hàng làm cha

Giảng rao đạo chánh nước ta, 425

Dạy người rửa tội, cao xa nhiệm mầu.

Làng An Vực chịu ban đầu,

Chúa công mời dạy tới hầu chỉ ra.

Thành Hà Nội, cho lập nhà,

Chị người vô đạo cùng là bà con: 430

Mười bảy người trong thân nhơn,

Cũng đều vô đạo nguồn cơn thế nầy.

Lần lần nhà thánh cất đầy,

Cùng là giáo hữu dầy dầy nơi nơi.

Ít năm mới đặng thảnh thơi, 435

Kế truyền cấm đạo, rao lời dể khinh.

Quyền chúa Trịnh, bắt bỡi mình,

Nguyễn gia đều cũng hành hình xiết bao!

Tây Sơn không khác chút nào,

Mạnh ai, nấy cấm, gươm dao hại hoài. 440

Biết bao nhiêu việc nạn tai,

Cầm tù tra khảo, hành hài tấm thân.

Đốt nhà, lấy của, khắp lân,

Nhà thờ triệt hạ, muôn phần gian nan.

Đọc kinh, xem lễ phá tan, 445

Kể sơ việc đạo dẫy tràn thiết tha!

Ơn trên ý Chúa thượng tòa,

Lớp thì bắt đạo, lúc mà huởn ra.

Bây giờ kể truyện Nguyễn gia,

Chạy vô Gia Định lo mà lập binh. 450

Tây Sơn thật dữ nên kinh,

Binh vây bắt đặng chính mình Duệ Vương.

Hoàng Tôn cung quyến vô phương,

Đều thì bị giết, thảm thương hết lòng!

Nguyễn Ánh, sau hiệu Gia Long, 455

Một mình sót lại, long đong muôn vàn.

Tuổi còn trẻ, chịu gian nan,

Mười lăm, mười bảy, khôn ngoan đâu tường.

Trốn thôi đã khắp địa phương,

Tây Sơn tìm bắt cùng đường hiểm nguy. 460

Thảm thương thầy tớ xiết chi!

Một thuyền nhỏ nhỏ với thì ít quân;

Việc nầy Tạo hóa xây vần,

Ban cho họ Nguyễn đặng phần phước riêng.

May đâu mà gặp nhơn hiền, 465

Cha Nghi trốn giặc đồng miền một nơi.

Nguyễn Ánh khi ấy mở lời,

Tỏ bày mọi nỗi việc mình thời ra.

Bởi tin thầy đạo thật thà,

Căn do xin cứu, kể mà thỉ chung. 470

Cha bổn quốc thương không cùng,

Hết lòng giúp đỡ, lạ lùng mến thương.

Chở người giấu mấy dặm trường,

Sông kia, rạch nọ, lo lường kế liên.

Thẳng vô tới xứ Hà Tiên, 475

Giữ gìn cẩn nhiệm, cần quyền nào khuây.

Đam lên nhà ở Đức Thầy,

Không cho ai biết, ai hay việc nầy.

Cha Nghi vội vã chẳng chầy,

Gởi thơ cho đặng Đức Thầy người hay. 480

Rằng: “ Vua Nguyễn chúa khốn thay! ”

Đức Thầy khi ấy ở rày Cao Man.

Cha Nghi chước nhiệm mọi đàng,

Song Tây Sơn cứ tìm sang bắt hoài.

Bản treo khắp hết ai ai, 485

Hễ mà bắt đặng thưởng tài, thưởng công.

Đắng cay nhiều nỗi não nồng,

Mới ngoài một tháng, hết trông yên rày.

Cha Nghi sợ phải lâm tay,

Đam lên rừng vắng, giấu ngay vội vàng. 490

Nguyễn Ánh cám ngãi ơn mang,

Của ăn, vật nọ, đam sang ngày ngày.

Đặng vài ba tháng công dày,

Đức Thầy khi ấy mới nay trở về.

Nguyễn Ánh mừng rỡ trăm bề, 495

Đức Thầy an ủi, chớ hề tháo lui.

Hết lòng thương mến dưỡng nuôi,

Nguyễn Ánh nương ngụ, ngậm ngùi xiết chi.

Đêm bàn, ngày luận thiếu gì,

Giấu đem nơi nọ, dời thì chỗ kia. 500

Ngày qua, tháng lụn, chẳng lìa,

Muối, rau, hẩm hút, sớm khuya giữ gìn.

Nổi trôi, trôi nổi lưu linh,

Hòn kia, sông nọ, hết tình liệu toan.

Đức Thầy có một tên Gioang, 505

Người tây bạo dạn, dưng đàng lập công.

Trót năm những mảng luận đồng,

Nguyễn Anh rán sức khởi công chẳng chầy.

Ông Gioang theo thói bên tây,

Dọn nhiều trái phá, bắn nay lũy thành. 510

Vốn người nghề võ cũng rành,

Khéo khôn việc giặc, tập tành binh cơ.

Nguyễn Ánh đặng thế bây giờ,

Lại nhờ quân sĩ, lại nhờ các quan.

Chiêu binh mãi mã chàng ràng, 515

Nguyễn Ánh làm tướng đam đoàn binh đi.

Long Hồ thẳng tới một khi,

Ông Gioang cứ bắn tứ vi khắp cùng.

Tây Sơn nghe tiếng đùng đùng,

Thuở nay chưa biết, lạ lùng hãi kinh. 520

Cháy tàu lại với các dinh,

Binh gia bị chết, linh đinh trôi đầy.

Tây Sơn hết sức phủ vây,

Đánh nhau nên mạnh, nên hay, nên tài.

Ngụy binh thất thủ chạy dài, 525

Tướng quân lấy đặng, mở khai dinh thành.

Máu dầm đầy áo Nguyễn Anh,

Đã nên đạp sỏi, giày sành chông gai.

Long Hồ thắng trận nên may,

Bao nhiêu tàu ngụy về tay tướng tài. 530

Tây Sơn từ lấy Đồng Nai,

Sài Gòn khắp chỗ giữ cai các thành.

Nguyễn Ánh nhờ những hùng danh,

Bây giờ mới đánh, mới giành lại nay.

Đỗ Thanh Nhơn thật tướng hay, 535

Có công cả thể, ai tày sánh vai;

Nguyễn Ánh ban chức thượng tài.

Ngày nay mới đặng an bài ít hơi.

Lòng mừng thạnh lợi thảnh thơi,

Các quan đều mới dưng lời tôn vương. 540

Nguyễn Ánh còn hãy lo lường,

Chưa ưng, để huởn, tìm phương dẹp loàn.

Cứ làm Nguyên Soái liệu toan,

Lo trừ ngụy tặc, đảng gian hung nầy.

Lại xin Gioang rán công bày, 545

Đóng tàu binh khí theo tây cho ròng.

Các quan ra sức hiệp đồng,

Chỉnh tu binh mã, gắng công tập rèn.

Nguyễn tướng soái lúc bình yên,

Hai mươi tuổi mới vầy duyên cang thường. 550

Năm sau phước lộc, trinh, tường,

Sanh ra công tử, ai đương, ai bì:

Tên Đông Cung Cảnh nam nhi,

Ngày sau đi tới nơi thì tây kinh.

Đức Thầy chạy giặc lưu linh, 555

Nghe Sài Gòn mới đặng bình yên yên.

Bỏ Cao Mên, cùng các miền,

Đồng Nai, Gia Định trẩy liền tới nơi.

Tướng quân Nguyên Soái rước mời,

Đức Thầy mới mở ít lời xin ra. 560

Tân triều xin ở cất nhà,

Latinh trường lập, đặng mà gần nhau.

Việc chi lui tới cho mau,

Công đồng bàn nghị, trước sau vẽ bày.

Giảng cho Đại tướng lẽ ngay, 565

Khắp bầu thế giái bởi tay Chúa gầy.

Bốn phương: Nam, Bắc, Đông, Tây,

Nhà kia có chủ, nước nầy có ai?

Có vua ngự trị trên ngai,

Trên trời có Chúa thiên đài chí công. 570

Xin thong thả, dân dữ đồng;

Chúa trời ban xuống, ắt trông thái bình.

Bảo cho Nguyên Soái đặng tin,

Rằng: người có đạo thật minh trung thần.

Xin cho giảng dạy xa gần, 575

Mở mang đạo Chúa an phần nơi nơi.

Tướng quân như đã y lời;

Các quan nhiều kẻ nhiều nơi vui lòng

Xin vào đạo khắp ngoài trong;

Tướng quân xem lễ ngợi khong đạo mầu. 580

Thánh đàng gần gũi đền lầu,

Đức Thầy giảng dạy, cao sâu tỏ bày.

Tướng quân nghe hiểu rõ ngay,

Tờ cho giữ đạo, rao nay các thành.

Chẳng cho hà hiếp đạo lành, 585

Đức Thầy đặng thế, nổi danh bây giờ;

Lái Thiêu, Chợ Quán, Cầu Kho,

Nam Vang, Mặc Bắc, Cần Thơ, giảng cùng.

Tây Sơn nay đã giận hung,

Đem binh xuất trận đánh hung mấy đồn. 590

Nguyễn Ánh binh kéo khắp dồn,

Đuổi binh bội đảng chạy bôn rút về.

Tướng quân mạnh sức được nề,

Rượt theo giặc trốn tư bề uyên thiên.

Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên, 595

Thảy đều bắt đặng, lấy liên mấy thành.

Trí an các chỗ phản hành,

Về thành Gia Định tập tành binh thêm.

Nước nhà sắp đặt ngày đêm,

Trên bờ, dưới thủy, khép kềm binh cơ. 600

Bấy lâu hồi biến đến giờ,

Giấu trong gia quyến đỗ nhờ hôm mai.

Tỉnh Quảng Trị lánh nạn tai,

Nguyễn Ánh nay mới dạy sai rước về.

Các quan hội hiệp nghiêm tề, 605

Tôn người tức vị, an bề quốc gia.

Phen nầy mới chịu vương tòa,

Đ ại Nam Nguyễn chúa ngự mà ngôi cao.

Bá quan văn võ trong trào,

Tới chầu vương vị, ngợi rao các thành. 610

Xong rồi kế việc chẳng lành,

Đỗ Thanh Nhơn ỷ chức danh quyền mình.

Ở ăn nhiều việc bất bình,

Lộng quyền, cậy thế, sự sinh dữ dằn.

Muốn giết vua, vua khuyên răn, 615

Bởi công trận lớn, ai bằng, ai đang?

Chẳng nghe cứ tánh bạo tàn,

Nên vua lập kế, cho quân giết rày.

Những là bộ hạ chơn tay,

Của quan tướng ấy ngày nay mến thầy, 620

Trốn đi làm giặc thêm gây;

Lại sau nó hiệp với Tây Sơn cùng.

Bấy lâu giặc sợ tướng hung,

Đỗ Thanh Nhơn chết, binh nhung dấy đầy.

Ngụy vương Nhạc, Huệ, mừng thay, 625

Dọn thuyền trăm chiếc, thẳng ngay Cần Giờ.

Ông Manoe chực hờ,

Người tây nầy của cậy nhờ Đức Cha

Dưng vua phò tá quốc gia,

Trận nầy bạc mạng phải mà nạn nay. 630

Tàu đi mắc cạn không day,

Tây Sơn nó áp phủ vây đầy tàu.

Túng bề chẳng biết làm sao,

Xuống hầm thuốc súng, đốt ào cháy giăng,

Cả tàu bị chết dữ dằn. 635

Tây Sơn xông trận chạy băng giựt cờ

Bởi liền đem đốt bầy giờ

Tàu thuyền vua cháy, giặc vô Sàigòn.

Đoạt thành, vua chạy Ba Giồng,

Hà Tiên, Phú Quốc, thẳng sông miết dài. 640

Sàigòn giặc đặt quan cai,

Anh em Nhạc, Huệ, về ngoài Quy Nhơn.

Châu Văn Tiếp, tướng giỏi hơn,

Cùng là binh sĩ phá quờn Tây Sơn.

Tru đảng nguỵ, diệt bất nhơn, 645

Kéo cờ tá quốc, giận hờn Tây Sơn.

Rước vua về lại Sàigòn,

Vua làm đồn luỹ nơi sông khắp dài.

Dây thảo long, giăng an bài,

Hỏa công thuyền đậu, đã ngoài một trăm. 650

Tây Sơn nay quyết hằm hằm,

Tàu thuyền chạy riết, thẳng nhằm đồn vua.

Súng bắn hung, binh chạy đùa,

vạn binh, thiên tướng, điều thua bỏ thành.

Vua chạy bộ, tới Rạch Chanh, 655

Gặp trâu nằm nước, nằm khoanh dưới bùn.

Lên lưng nó lội nữa chừng,

Sông sâu, trâu hụt cẳng chưn nó rày.

Việc nầy thực rất nên may,

Sấu trừng, vua mới bước ngay qua liền. 660

Sấu thì dữ, mà nay hiền,

Nghiêng mình vua ngự, chở chuyên qua bờ.

Chạy sang Phú Quốc nương nhờ,

Tây Sơn vây bắt, bây giờ khó toan.

Áo vua cổi mặc cho quan, 665

Nhà Lê Phước Điển, tráo gian mưu dày.

Đứng mũi thuyền, giặc chẳng hay,

Bắn Lê Phước Điển, vua nay thoát liền.

Trung thần tiếng để thiên niên,

Liều mình chịu chết, vẹn tuyền tôi ngay. 670

Giặc bắt được dỗ không lay,

Phong quờn, ban chức cho nay, không màng.

Cứu vua khỏi chết rõ ràng,

Chẳng thèm tùng giặc, cao sang, lộc quyền.

Đêm, ngày, vua cứ chạy liên, 675

Ra Côn Nôn ngụ; giặc truyền phủ vây.

Ba ngày bao khắp Đông, Tây,

Nhờ trời dông bão, đất bay mịt mù.

Chết chìm liều íu, lu bù,

Trên bờ, dưới nước tối hù thấy đâu. 680

Lòng vua ra sức khẩn cầu.

Thoát thân chạy khỏi, giặc hầu biết chi.

Bạt thuyền Phú Quốc một khi,

Đức Thầy lúc ấy trốn thì lưu linh.

Các linh mục cực hết tình, 685

Vêrô Giám mục giữ gìn trước sau.

Dưới sông, trên bộ, dác nhau,

Nam Kỳ trốn khắp, kể sao cho cùng !

Biển thì bị sóng hãi hùng,

Lào, Mên, Xiêm, Mọi. giặc hung đã đầy. 690

Mấy năm trôi nổi đắng cay,

Nhiều khi ở biển, ở ngay giữa vời.

Vua thì chịu cực hết hơi,

Quan quân đói khát, ăn thời những rau.

Đào khoai, bắt ốc nuôi nhau, 695

Moi nần, hái trái, ăn hầu đỡ thân.

Đức Thầy lo lắng muôn phần,

Sai người tìm kiếm lần lần hỏi nay.

Đức vua khốn cực lắm thay,

Đức Thầy khi ấy ở rày trong Xiêm. 700

Đức vua cũng ra sức tìm;

Hai vì nay hiệp, phỉ niềm ước trông.

Cùng nhau mừng rỡ hết lòng,

Kể ra đoạn thảm long đong không cùng.

Đức Thầy thương cách lạ lùng: 705

Bao nhiêu lương phạn, đồ dùng, của ăn,

Đam dưng vua đặng phát ban,

Giúp cho tướng, sĩ, được đàng ấm no.

Các cha, dân giã dưng cho,

Kẻ nhiều, người ít, hằng lo giữ gìn. 710

Ở chung bàn luận hết tình,

Suy đi, xét lại, cho minh cho tường.

Đức Thầy an ủi lo lường,

Gắng công cầu cứu, tìm phương vẽ bày.

Vua rằng: “Nhiều nước phương tây, 715

Cũng đều muốn giúp, rủi may khó lòng.

Đòi nhiều, đòi ít, lòng dòng,

Trẫm hằng nghi ngại, phải phòng, phải lo.

Việc xong khó nỗi đôi co.”

Đức Thầy bàn tính, sánh so, chỉ bày, 720

Điều hơn, sự thiệt, lẽ hay,

Vua liền ưng chịu, phú tay Đức Thầy

Viện cầu về nước bên tây,

Phangsa đại quốc, ban ngay ấn rày.

Đông Cung giao phú Đức Thầy, 725

Mới năm, sáu tuổi, bỏ nay nước nhà.

Đặng cho cứu khổ nước ta,

Làm con tin thật, đặng mà viện binh.

Công đồng hiệp nghị an bình,

Làm mười bốn khoản, triều đình lập thanh. 730

Không kể ra, vì bất thành,

Việc sau điều ước thi hành chẳng nên.

Phong thơ vua đứng ở trên,

Triều đình đứng dưới, gởi bên tây thành.

Thương thay! Giám mục nhơn lành, 735

Thấy vua khốn cực chẳng đành bỏ qua.

Vua thì hằng hỏi Đức Cha,

Lại xin cứu giúp cơn mà hiểm nguy.

Thở than, than thở sầu bi,

Trọng làm mưu sĩ, kính vì quân sư. 740

Luận bàn tính việc nên hư,

Đức Thầy chỉ vẽ, ưu tư mọi bề.

Xuất thân cực khổ chẳng nề,

Lo đi cầu viện, chiu mê đoạn sầu.

Trí hằng sợ hãi nguyện cầu. 745

Việc thành có phước, lo âu không thành.

Lòng thương vương vị Nguyễn Anh,

Lại rằng: “Nếu việc đặng thành ngày sau,

Ắt là vua sẽ chữa bàu,

Nước vua, đạo thánh, cùng nhau thuận hòa.” 750

Tính rồi ý nhiệm cao xa,

Cầu xin Chúa cứu, vua mà Nguyễn Anh.

Em Hoàng hậu, đã tùng hành,

Cùng hai quan lớn chịu danh đạo lành.

Đức Thầy rửa tội an thành, 755

Dạy cha Nghi giúp Nguyễn Anh hằng ngày.

Lạ thay cho một điều nầy!

Đông Cung còn nhỏ vua rày bảo đi,

Không khóc lóc, chẳng cãi gì,

Đức vua chỉ phán, tức thì chịu đi. 760

Kẻ thương, người mến, li bì,

Quốc gia loạn lạc phân li nỗi nầy.

Vua rằng: “Trẫm phú Đức Thầy,

Lễ nghi, phép đạo, dạy rày con ta,

Hầu sau kế vị nước nhà.” 765

Đức Thầy nghe phán vui mà xiết bao!

Trúng lòng người đã ước ao,

Vua bồng, vua dắc, vua trao, phú quyền.

Dấu yêu dường thể thánh hiền,

Đông Cung mến đạo, lại siêng học hành. 770

Đức Thầy lo lắng tập tành,

Thuộc kinh, sáng dạ, hiền lành, khôn dang.

Đức Thầy gánh vác muôn vàn,

Tận tâm, kiệt lực, liệu toan kế phòng

Cùng là việc đạo ngoài trong, 775

Tâu vua các chuyện, đặng hòng trí an.

Hai phương, hai nước, đôi phang,

Gởi trong bổn đạo, Cao Hoàng biết hay.

Đã nên sốt sắng ai tày,

Lo về phần đạo, rõ nay hết lòng. 780

Nuôi học trò, ra sức nong,

Ba mươi theo với, thoát vòng hiểm nguy.

Đem qua Thiên Trước một khi,

Lập nhà trường đó dạy thì lễ văn.

Dầu cơn khốn cực khó khăn, 785

Lo bề bổn phận, không hằng giãn ra.

Kể từ cách mặt mẹ cha

Hai mươi năm chẵn, hồi qua Nam Kỳ.

Ngày nay hữu sự ra đi,

Lòng thương bịn rịn, xiết chi đoạn phiền! 790

Bấy lâu ở với bầy chiên,

Đêm cầu, ngày khẩn, giữ giềng mối luôn.

Nhiều khi cực khổ thảm buồn,

Mảng theo chơn Chúa, chịu muôn ngàn sầu.

Bị bắt đạo, hằng lo âu, 795

Lại còn sự giặc, kể đâu cho cùng!

Đức Thầy xin Chúa rộng dung,

Cứu hồi cơn khổ bão bùng tân toan.

Dầu hao, tim lụn, canh tàn,

Đi buồn, đứng nhớ, ngồi bàn, dựa than. 800

Trống lầu canh nhặt không an,

Tiếng gà eo ét, hai hàng đượm tuôn.

Đoàn chiên Chúa, phú dưng luôn,

Nước chao, sóng dợn, lòng buồn thảm thay!

Một mình thầm thĩ canh chầy, 805

Đọc kinh, lần hột, cầu nay đêm ngày.

Cây cao thì gió càng lay;

Càng cao sang trọng, càng dày gian nan!

Lòng lo mọi nỗi thở than,

Hai vai gánh nặng đầy tràn cả hai. 810

Một bên Giám mục giữ cai,

Một bên tá quốc hôm mai nhọc nhằn.

Giã từ, dời gót, phăng phăng,

Vua quan trọng kính, đứng giăng chúc lành.

Đông Cung, Giám mục đồng hành, 815

Ba người tùng phái non xanh đạp giày.

Bổn đạo đưa Đức Thầy trở về nước Phalangsa viện binh.

Đông dầy Bổn đạo tựu đầy,

Thảy đều cúi lạy đưa nay một bài:

Đội ơn Chúa cả thiên thai,

Đã cho ta biết đạo ngay mà thờ. 820

Chúng con thật rất bơ vơ,

Như gà lẻ mẹ, biết nhờ vào đâu!

Chúng con dạ rất thảm sầu,

Đức Thầy dời bước, ai hầu ủi an?

Thở than lụy nhỏ chứa chan, 825

Vắng hiu quạnh quẽ, mắt tràn vơi vơi.

Đức Thầy chóng kíp vội dời,

Chúng con xin tỏ ít lời nầy ra.

Tỏ thời nước mắt nhỏ sa,

Hai hàng châu lụy chan hòa chẳng nguôi. 830

Chúng con phải phận mồ côi,

Bao giờ thấy mặt? Cha ôi! Con phiền.

Bấy lâu hằng ở các miền,

Sớm khuya dạy dỗ, cầu nguyền cho con.

Bởi đâu thì vận thon von, 835

Cha nam, con bắc, héo don đoạn trường!

Xa xuôi huyền viễn vô thường,

Biệt ly muôn dặm, không tường căn do.

Còn cha, con đặng gồm no,

Cha đi, con biết âu lo phương nào! 840

Cơn nầy sóng gió ba đào,

Chúng con dường thể cá nhào biển đông.

Bầy chiên hết sức đợi trông,

Thới lai xin tới, não nồng xin qua.

Tư bề muôn sói hằng hà, 845

Phủ vây đều bắt, khốn đà nơi nơi.

Thuở xưa Chúa xuống ra đời,

Muôn dân theo Chúa nghe lời thiếu chi.

Dọn tàu Chúa lại trẩy đi,

Đặng sang chốn khác, Chúa thì dạy dân. 580

Vêrô cầm lái ân cần;

Gió thì đã có Thiên Thần thổi đưa.

Sóng phủ đừa, còn chừa Chúa ráo,

Các Tông đồ ướt áo xăng văng.

Kẻ thì leo cột vịn chằng; 855

Người thì dại sóng, té văng xuống vời,

Lội đà uống nước hết hơi.

Vêrô thức Chúa. Giả ngơi nín nằm.

Tông đồ sợ hãi đằm đằm;

Chúa bèn ngồi dậy, hỏi thăm thử lòng 860

Thấy điều nguy hiểm cực song,

Chúa đều khiến lặng cả dòng hải ba.

Cúi xin Chúa chữa Đức Cha,

Cùng là chúng tử cơn mà hiểm nguy.

Ngày nay phụng mạng ra đi, 865

Vêrô thức Chúa, cứu thì Đức Cha.

Trở về phục đặng quốc gia,

Đức Thầy, bổn đạo hưởng mà hiển vang.

Đang thì cả nước không an,

Tây Sơn đánh phá bạo tàn nên kinh, 870

Chờ cho vãng khổ lai bình,

Chúng con sẽ đặng phỉ tình ước ao.

Bây giờ lận đận, lao đao,

Cầu xin Chúa cả thiên tào đoái thương.

Từ rày phân rẽ đôi phương, 875

Chít chiu ngơ ngáo, tư lương thêm phiền.

Chúng con hôm sớm cầu nguyền,

Thái bình vận tới, cho yên nước nhà.

Trước là Chúa cứu Nguyễn gia,

Sau đoàn chiên Chúa kẻo mà sầu bi. 880

Cúi xin Đức Mẹ phù trì,

Tử sanh đều cũng một thì bình an.

Ngõ sau lên cõi cao quang,

Ở gần tòa Chúa hiển vang chẳng cùng.

Đức Thầy xông trận bão bùng, 885

Tay lau nước mắt, không cùng nhớ thương.

Đức Thầy tây, con nam phương.

Mến nhau vì bởi, Chúa thường ban cho.

Điều nầy, việc nọ, dặn dò,

Phép lành ban khắp đủ no mọi đàng. 890

Biển đông lướt dặm băng ngàn,

Trải qua biển bắc gian nan công dày.

Vua ở lại, chịu châu mày,

Tây Sơn nó rượt, xỏ ngay buồm lèo.

Chạy ra ngoài biển cheo leo, 895

Ở khơi nước mặn, rất eo cực phiền,

Chịu khát quá, vua khẩn nguyền,

Xin trời thương xót, chữa chuyên vô bờ;

Chẳng thì chìm chết bây giờ:

May đâu tạo hóa thiên cơ nhậm lời. 900

Ơn trên dành để có nơi,

Vua quan múc nước, uống thời ngọt ngay.

Lần hồi cho kẻ thám nay,

Giặc đà thấy vắng, về rày Long Xuyên.

Ở đâu cũng chẳng đặng yên, 905

Đánh thì thua mãi, tách miền vô Xiêm.

Xiêm vương rước đãi trọng niềm,

Vua xin binh giúp, Xiêm liền giúp cho.

Hai muôn quan lính đủ no,

Thuyền vài trăm chiếc, thẳng vô các đồn. 910

Đánh Mang Thích, giặc sảng hồn,

Ông Châu Văn Tiếp khéo khôn trí tài

Trận nầy bị chết, vì gai:

Vua rầu, vua khóc, vua ai, vua phiền.

Nhạc nay xuống chiếu chỉ truyền, 915

Sai em là Huệ trăm thuyền kéo vô.

Tới Rạch Gằm, binh đánh nô.

Nhử Xiêm xáp trận, Huệ xô lũy thành.

Đặt binh mai phục xung quanh,

Đánh cho một trận, thật danh tướng hùng. 920

Binh Xiêm vỡ chạy khắp cùng,

Mới thâu tàn tốt, lén trùng trốn ngay,

Thẳng về Băng Cót chạy bay,

Không còn dám giúp, khốn thay nỗi nầy!

Tây Sơn treo bản khắp đầy, 925

Can tầm mà bắt vua nay hết lòng.

Túng cùng, vua tính không xong,

Chạy qua Xiêm nữa, ở hòng hai năm.

Trông binh viện, chẳng thấy tăm,

Phen nầy vua mới chí lăm thoát liền. 930

Nhắm xem ở chẳng đặng yên,

Vua Xiêm toan hại, cực phiền biết bao!

Bởi nghe đồn, vua có tàu,

Có quan, có lính giúp, nào có nao.

Nửa đêm vua phán chỉ rao, 935

Gia thần, cung quyến chở ào một khi.

Viết thơ lại, thoát tức thì,

Giã từ Xiêm quốc, lén đi tuốt về.

Hà Tiên thẳng riết dựa kề,

Giấu trong cung quyến, ngụ về một nơi. 940

Vua khởi binh, cầu với trời,

May đâu chư tướng, quân thời theo đông,

Võ Công Tánh, người Gò Công,

Đạo binh ứng nghĩa đã hòng trót muôn.

Tiếng bay dường thể tiếng chuông, 945

Vua ban chức trọng thưởng luôn công dầy.

Mấy muôn binh kéo dầy dầy,

Thẳng lên Gia Định, đánh Tây Sơn liền.

Các thành vỡ chạy khắp miền,

Ba lần lấy lại, mới yên lần nầy. 950

Dựng cờ, treo bản đông tây,

Chiêu an đề chữ cho nay dân tình.

Vua truyền cho các quan binh,

Rước bà quốc mẫu, trú đình lánh thân,

Chổ noi Phú Quốc chẳng gần, 955

Lại cùng cung quyến phải vâng rước về.

Hai mươi hai năm giặc bê,

Lần nầy chúa thượng nhắm bề yên yên.

Trên bờ, dưới thủy, dọn liên,

Binh thuyền, binh bộ, chỉ truyền lập ra. 960

Lại đồn nhiều tiếng ngâm nga,

Viện binh gần tới, kể đà mấy muôn.

Tàu nên mạnh, nói thêm luôn,

Mấy trăm, mấy chục, sang tuôn đùng đùng.

Tây Sơn nghe đã hãi hùng, 965

Không còn dám đánh, làm hung lăng loàn.

Binh vua mừng rỡ hỉ hoan,

Các quan phấn chấn tiếng vang dậy trời.

Nhạc, Huệ, Lữ, chia ba nơi:

Qui Nhơn về Nhạc, Huệ thời Huế kinh, 970

Sài Gòn Lữ lãnh về mình;

Ba vua, ba xứ rất vinh dẫy đầy.

Lữ nay sợ hãi lúc nầy,

Mới lo tiên liệu, bỏ nay Sài Gòn.

Cuốn cờ về tót Qui Nhơn, 975

Ngày sau thát đó, chẳng còn dám gây.

Đoạn nầy kể việc đi tây,

Đông Cung đi với Đức Thầy trải qua.

Khắp nơi thiên hạ nhà nhà,

Coi Hoàng thái tử của mà nước ta. 980

Bấy lâu người cõi Phangsa.

Chưa hề đặng thấy con nhà An Nam.

Tới kinh xin đến thánh hoàng;

Vua Lu-y ngự phẩm hàng nghiêm trang.

Vua rằng: “Con trẻ hà phang, 985

Do hà quì dưới ngai vàng trẫm đây?

Sân chầu lại có Đức Thầy,

Tôn sư hãy tỏ, trẫm nay biết tường.”

Tâu rằng: “Thái tử xa phương,

Con vua Nam Việt mắc đường ức oan. 990

Hoàng thân bị giặc bại tàn,

Cậy nay thần ngãi tìm đàng viện binh.”

Đế vương nghe rõ sự tình,

Phán rằng: “Đế hội triều đình liệu toan.”

Thành Paris, súng bắn vang, 995

Chào mừng Hoàng Tử An Nam tới rày.

Tiệc bày thết đãi trọng thay,

Đế vương thương mến, chuẩn nay bạc vàng.

Cấp rộng rãi của vua ban,

Xứng vì Hoàng Tử, đáng hàng ngôi vương. 1000

Hội giảng đạo có nhà trường,

Đức Thầy, bọn sứ, ngụ nương, lo lường.

Phangsa hoàng đế tây phương,

Có vì Thái tử cũng trương tuổi nầy.

Ra vào đền ngọc vui vầy, 1005

Hai hoàng thương mến, chơi nay trong triều.

Ai ai xem thấy mến yêu,

Đông Cung tánh nết nhiều điều đáng thương.

Bé thơ lìa cách quê hương,

Con vua mà chịu tha phương nỗi nầy.1010

An Nam đi tới bên tây;

Đông Cung đội mão, xem rày tốt thay.

Trong triều lấy kiểu ngày nay,

Làm ra mà đội, tỏ bày là vui.

Vẽ hình tượng, thấy ngùi ngùi, 1015

Đặt bài, đặt vã, thương người nạn tai.

Đức Thầy bàn luận lâu ngày:

Vào triều diện tấu, kể bày thỉ chung.

Đức vua gạn hỏi khắp cùng,

Bá quan hội luận, đều tùng hỏi tra. 1020

Đức Thầy phân giãi tâu qua,

Làm tờ dưng tới tỏ mà việc ra.

Công đồng cãi lẫy gần xa,

Kẻ thì bàn tới, người mà bàn lui.

Trót năm việc mới vừa xuôi, 1025

Đức Thầy mở trí, mới vui lúc nầy.

Ơn trên thánh thượng đại tây,

Châu phê bút ngọc, phong nay Đức Thầy

Hoàng hòa Đại sứ chức nầy,

Lại ban của vật, phú tay Đức Thầy. 1030

Năm điều giao ước triều tây,

Không thành nên chẳng kể bày ra đây.

Việc an, kiệt lực, công dày,

Đức Thầy người mới xin nay về nhà.

Trước là thăm viếng mẹ cha, 1035

Sau thăm cô bác cùng là bà con,

Bấy lâu cách biển, núi non,

Thăm em, thăm cháu, vuông tròn gần xa.

Sum vầy đủ mặt cả nhà,

Cha già khỏe mạnh, mẹ già tốt tươi. 1040

Mừng cha, mừng mẹ, vui cười,

Thương thương, mến mến, người người, nơi nơi.

Giã từ, dời bước tách vời,

Hoàng triều hạ lịnh, tàu thời đưa đi.

Viết tờ truyền chỉ một khi, 1045

Trẫy qua Thiên Trước lãnh thì binh cơ,

Y như mấy khoản trong tờ,

Quan cai hạt ấy, bây giờ phải vưng.

Cả trong bộ sứ vui mừng,

Cám ơn hoàng đế xuống chưng phước lành.1050

Tạ từ triều quốc, cả thành,

Xuống tàu chạy riết, non xanh lướt vời.

Núi cao biển thẳm ra khơi,

Trẩy đi diệu vợi, vơi vơi xa đường.

Ponry vừa tới trình chường, 1055

Có tờ chánh nước đế vương lịnh truyền.

Quan cai quản hạt mở liền,

Xem coi từ khoản chỉ biên rõ ràng.

Dạy rằng: “Quân bộ mấy ngàn,

Thủy binh mấy đoạn, phải dàn đủ ra. 1060

Tàu lớn nhỏ, lo trẩy qua,

Cùng là súng lớn, lại là tiểu thương,

Mấy trăm pháo thủ lo lường,

Bao nhiêu khí giái, phải trương đủ đầy.

Kíp lo, chẳng đặng để chầy, 1065

Sang qua Nam Việt, giúp rày Nguyễn Anh.

Triều Nam riêng một góc thành,

Quốc gia dường thể chỉ mành treo chuông.

Việc xong mở cuộc bán buôn,

An Nam nhường đất Côn Nôn, Cửa Hàn, 1070

Sơn Chà và chỗ Ải Vân…”

Lượt biên nhơn kể ít phần ra đây.

Rủi thay! Việc chẳng thành nay,

Quận công quan ấy lại gay chẳng làm.

Sanh ra việc đã bất kham, 1075

Liền làm tờ tấu dưng đam bệ vàng.

Xin cùng hoàng thượng giãn khoan,

Kể ra nhiều chuyện, nhiều đàng ngạnh ra.

Lại nhằm đang lúc quốc gia,

Phải quân ngụy dấy, đánh mà ngoài trong.1080

Vua nghe quan tấu bằng lòng,

Đức Thầy nài nỉ, cũng không ra gì.

Đã nên đau đớn sầu bi,

Đức Thầy nát ruột, lo thì nát gan.

Cầu xin cùng Chúa thở than, 1085

Viện binh chẳng đặng, hỗ hang trăm đàng.

Sợ vì nhiều nỗi tai nàn,

Nước Nam trách phạt dối gian nịnh thần.

Suy đi, tính lại muôn phần,

Hồng Mao xin đã nhiều lần giúp cho. 1090

Hứa càng chịu đã đủ no,

Mười muôn đồng bạc, ban cho riêng liền.

Đức Thầy sợ lạc đạo truyền,

Tức thì than thở cầu nguyền Chúa Cha.

Hết lòng sốt sắng thiết tha. 1095

Ngày nay mới xuất của mà Đức Cha.

Của vua Lu-y ban ra,

Của cha, của mẹ, cùng là bà con,

Của đi phổ khuyến các hòn,

Cù lao mấy chỗ chìu lòn hảng buôn. 1100

Nhà giàu xuất bạc cho tuôn,

Ponry, Thiên Trước giúp luôn nhiều điều,

Của bá gia, người mến yêu.

Mua tàu mấy chiếc, mua nhiều súng nay,

Mấy ngàn súng nhỏ cầm tay, 1105

Một trăm vị lớn, kéo ngay xuống tàu.

Thỉnh chiêu bạn hữu trước sau,

Quan quân tình nguyện kéo nhau dầy dầy.

Anh hùng tướng sĩ sum vầy,

Cựu quan thủy, bộ, giúp nay Đức Thầy. 1110

Ba bốn trăm hội vang dầy,

Xuống tàu chạy riết sang rày Việt Nam.

Để cho thiên hạ luận đàm,Một ông thầy đạo cõi phàm khó đang.

Đã nên đứng bực khôn ngoan, 1115

Đã nên thượng trí, thế gian ít tày.

Gởi tờ tấu dộng trên ngai,

Đại Nam Nguyễn chúa đặng hay tin nầy.

Xem thơ lòng tợ lên mây,

Tống tờ cho khắp đông tây mừng rày. 1120

Vua truyền văn võ sắp bày,

Thuyền rồng vua ngự, chạy ngay Vũng Tàu.

Kể từ xa cách mặt nhau,

Sáu năm những mảng chịu đau đớn lòng.

Trời thanh biển lặng, trăng trong, 1125

Ngoài khơi thẳm thẳm, giữa dòng vơi vơi.

Côn Nôn tàu chạy tới nơi,

Đức Thầy truyền ghé, trí thời súng đây.

Ít vị lớn, phòng chỗ nầy,

Rồi tàu thẳng riết, chạy bay chẳng chầy. 1130

Trải qua gành nọ, núi nầy,

Đức Thầy lên đất thăm bầy đoàn chiên.

Bấy lâu những mảng lo phiền,

Ngày nay vui hiệp, phỉ nguyền ước trông.

Mấy tàu đều chạy như dông, 1135

Vũng Tàu vừa tới, đều ngừng gieo neo.

Hoàng hòa Đại sứ cờ treo,

Đức Thầy, Thái tử, mừng reo cả tàu.

Trông con như hạn trông dào,

Ngư nay đắc thủy, gặp nhau phỉ rồi. 1140

Bổn triều Hoàng tử phản hồi,

Hoàng thân mừng rỡ, kể thôi không cùng.

Thấy con đã lớn hình dung,

Gặp vua tâu tiếng khiêm cung muôn phần.

Đức vua, Giám mục, ân cần, 1145

Dìu theo kể nỗi kề gần với nhau.

Đức vua mới phán trước sau,

Cá khô được nước mưa dào đượm tuôn.

Mừng mừng, chúc chúc, luôn luôn,

Tây, Nam, chư tướng buồm trương về thành. 1150

Sài Gòn binh đóng khắp quanh,

Trên bờ, dưới thủy, chúc lành nhạc khoan:

Súng đền mừng bắn đã vang,

Dưới tàu Giám mục binh càng bắn lung.

Rền trời, dậy đất, tiếng cùng, 1155

Ầm ầm trống trận, đùng đùng nhạc ca.

Gởi thơ qua nước Phangsa,

Đội ơn Hoàng đế cùng là các quan.

Bất thành chẳng tại đế hoàng,

Bởi đâu nên phải giữa đàng khác ra. 1160

Cuộc mừng nhiều đoạn ngâm nga,

Xong rồi vua mới lo qua nước nhà.

Cấp phong viên chức Phangsa,

Kẻ quan đề đốc, người mà năm ren.

Nhiều quan sang trọng chẳng hèn, 1165

Nghề văn, nghiệp võ, ghe phen đã tầng.

Lòng thương Giám mục mới vâng,

Sang qua mà giúp vương quân lúc nầy.

Phong thủy sư, quản tàu tây,

Tàu Long, tàu Phụng, sắp bày lớp lang. 1170

Đóng tàu lớn, nhỏ, nhiều đàng,

Đặt tên, đặt họ, An Nam nhộn nhàng.

Bộ binh phong chức các quan,

Họa đồ, thầy thuốc, phẩm hàng ban danh,

Quan lương phạn, quan xây thành, 1175

Thành bền, lũy chắc, xung quanh Sài Gòn.

Sáu ngàn binh tập nên ròng,

Theo như tây cả, đặng hòng phò ngai,

Năm muôn binh chiến anh tài.

Khắp trong các việc phú tay Đức Thầy, 1180

Lo xử trí, với người tây;

Ban khoanh, phong chức, nhờ nay Đức Thầy.

Đức Thầy trông vận thới lai,

Về tây đem lại theo rày tám cha.

Trình diện tấu, vua phán ra, 1185

Ban bày mở tiệc đãi mà các cha.

Đức Thầy sai khắp gần xa,

Tây, Nam, Linh mục cai mà giáo nhơn.

Lập ra địa phận keo sơn,

Viếng thăm giúp đỡ, nguồn cơn giữ gìn. 1190

Phần hồn dạy dỗ hết tình,

Xin cho giáo hữu trường sinh cõi trời.

Cất nhà thờ đã nhiều nơi,

Đem người trở lại, nào thời thảnh thơi.

Cả lo quá, nhọc hết hơi, 1195

Phần hồn, việc nước, thương ôi! Nhiều đàng.

Cực thân vóc ngọc, mình vàng,

Đức Thầy phát bịnh, phổi gan mụt đầy.

Đức vua than thở nào khuây,

Vì ai mà phải bịnh nầy nên hung? 1200

Khóc thương, yêu mến không cùng,

Châu rơi hột ngọc, thỉ chung tỏ bày:

”Bởi vì trẫm, chịu đắng cay,

Thiên sơn, vạn hải, đạp giày tuyết sương.

Ngày đêm tìm thế lo phương, 1205

Gan vàng bị cháy, nên vương bịnh nầy.

Ngậm cay, nuốt đắng, bấy chầy,

Nghiêng nghèo trong nước, nhờ Thầy ra ơn.

Ngày ngày ăn giận, uống hờn,

Ghét loài đảng tặc, đoạt quờn lâu nay.” 1210

Bên giường ngồi kế Đức Thầy,

Rước lương y đã đủ đầy ngoài trong.

Lo điều trị, thương hết lòng,

Thuốc kia, thầy nọ, hằng mong chữa đầy.

Lòng khẩn nguyện, nhờ thầy hay, 1215

Bịnh lần lần khá, một ngày một hơn.

Việc chi mưu sự tại nhơn,

Song le thành sự bởi ơn Chúa trời.

Việc mê mê, khắp nơi nơi,

Nếu mà người chết, ắt thời phải hư.1220

Đức vua mừng đứng quân sư,

Bịnh thuyên khỏe mạnh cũng như lúc thường.

Lòng vua phới phở lo lường,

Quan văn, tướng võ, đường đường vô song.

Lính bộ sẵn, lính thủy ròng, 1225

Cất binh đánh riết, thẳng xông phá thành.

Tây, Nam, nhiều tướng vút nanh,

Đều đồng hiệp lực, đánh quanh khắp đồn.

Lấy đà tứ phía vệ môn,

Tàu vua xáp trận, giặc bôn chạy dài. 1230

Mấy muôn binh ngụy lâm tay,

Tàu thuyền trăm chiếc, bắt ngay về mình.

Tới cửa Dã, vua dừng binh;

Nhạc thì còn hãy giữ gìn Qui Nhơn.

Ngày nay Nhạc tỏ nguồn cơn, 1235

Cho em đặng rõ giang sơn lúc nầy.

Quang Trung đang ngự Huế nay,

Nghe tin anh tỏ dọn bày binh cơ.

Tống ban lời dụ mấy tờ,

Kế sa nhiều trận, cõi bờ phá tan. 1240

Tây dương người ở xa phang,

Chẳng làm chi được, chẳng gan bằng mình.

Gộp binh khắp tỉnh, khắp dinh,

Tàu, thuyền, voi, ngựa, thân chinh đánh liền.

Lo cứu anh, lại lòng phiền, 1245

Quang Trung chẳng kịp, sớm liền băng ngang;

Bốn mươi lăm tuổi tách đàng,

Con là Cảnh Thịnh ngai vàng kế ngôi;

Tuổi còn nhỏ, lo chơi bời,

Khắp trong việc nước giao thời Thái sư. 1250

Qui Nhơn vua hết sức trừ,

Binh đà tử trận kể dư muôn ngàn.

Nay vua Thái Đức phòng toan,

Sợ thua mà phải lâm đàng gian nan.

Gởi tin cho cháu vội vàng, 1255

Cậy con của chú, binh sang hiệp vầy.

Vua Cảnh Thịnh binh kéo đầy,

Tới không cứu bác, lại day soán quyền.

Vua Thái Đức đau đớn liên,

Bác rầu, bác những ưu phiền ruột gan. 1260

Tức mình, Thái Đức băng ngang,

Tiếu Triều con bác vô phang cùng đàng.

Ngày nay con chú luận bàn,

Phong Tiếu Triều tước huyền đàng Phù Ly.

Nguyễn vương lòng sợ xiết chi, 1265

Vì binh Cảnh Thịnh hiệp thì cả hai.

Nên vua truyền lịnh mở khai,

Sài Gòn quân lính ai ai về rày.

Đoạn nầy kể việc Đức Thầy,

Đầu đuôi đem nhón ra đây tỏ bày. 1270

Tính người hiền hậu, vui thay,

Dịu dàng, nhơn đức, ai tày được nay.

Thông minh rất mực tài hay,

Cả đời hằng giữ giờ ngày liên liên.

Việc hồn, việc nước, liền liền, 1275

Hằng lo bổn phận, lòng chuyên đêm ngày.

Nhọc nhằn muôn việc đắng cay,

Thở than cầu Chúa giúp nay cho mình.

Ả nh chuộc tội mắt hằng nhìn,

Tay cầm, lòng nguyện, xin gìn giữ luôn. 1280

Biết bao nhiêu việc thảm buồn,

Đông Cung vua phú dạy khuôn phép hoài.

Việc văn, việc lễ, dồi mài,

Nhiều quan thấy vậy, kêu nài cáo gian.

Thấy vua yêu dấu nhiều đàng, 1285

Thấy quan vô đạo, không an trong lòng.

Nhiều quan rán sức mà nong,

Cáo rằng: “Thầy đạo đam lòng giết dân :

Khoét con mắt; thấy nhiều lần,

Làm bùa nhiễu hại trăm phần đa đoan.” 1290

Dẫn đứa câm, trước ngai vàng,

Tâu xin vua xử, ức oan việc nầy.

Những là thầy đạo, khốn thay!

Cho bùa, nên phải câm nay làm vầy.

Vua rằng: “Trẫm giận thầy tây, 1295

Ai ngờ hại trẫm, phá rày nước ta.”

Vào phòng kiếm thuốc ngoại khoa,

Đam bình nước uống đổ ra ly vàng.

Pha đỏ đỏ, lấy màu vàng,

Đem cho bịnh uống, khá ngang tức thì. 1300

Vua truyền tra khảo thằng ni,

Ai mưu bỏ vạ, chẳng vì đạo nay.

Đánh đau, nó mới khai ngay,

Năm mươi quan đã mưu bày chước ra,

Vu oan, gieo họa, thậm đa, 1305

Liệu toan đặng giết Đức Cha bấy chầy.

Vua truyền bắt đảng tà tây,

Truyền quan võ sĩ, chém ngay tám người.

Vu lần trước đã mấy mươi,

Đức Thầy xin khỏi, dễ ngươi phen nầy. 1310

Đức vua trị thẳng, chẳng chầy,

Bởi thương công nghiệp Đức Thầy vô biên.

Tháng ngày gần gũi nhau liên,

Muôn ngàn việc việc, cần chuyên nhiều điều.

Đức vua theo xác thịt nhiều, 1315

Đức Thầy thấy vậy kiếm điều lui ra.

Tránh dịp tội, giữ kẻo sa,

Đã nên nhơn đức, thiệt là chơn tu.

Thiệt chơn tu rất công phu,

Trong trào, ngoài quận, mấy thu ngợi đầy. 1320

Đức Thầy tâu tỏ ra đây,

Xin vua cho kiếu sự hay chầu thường;

Có việc trọng, tới tìm phương,

Đặng bày mưu kế, giúp đường quốc vương.

Lại tâu có kẻ toan đường, 1325

Phân bì, bỏ vạ, lo lường hại thay.

Vua chẳng cho, kiếm chước bày,

Nói điều phạm thượng tới rày đạo nay.

Lại hăm cấm đạo nên gay,

Lập mưu, lập thế, đắng cay nhiều đàng. 1330

Kiếm điều, kiếm lẽ, liệu toan,

Bắt quan có đạo, luận bàn tội ngay.

Tội kia, việc nọ, đam bày,

Hầu cho Giám mục đặng hay, đặng tường.

Đức Thầy ra sức lo lường, 1335

Xin vua tha thứ, ấy dường là ơn.

Đức Thầy sợ nỗi cừu hờn,

Lại còn nhiều việc thiệt hơn nhãn tiền.

Vua tánh nóng, không đặng hiền,

Nhiều khi vua phán, vua phiền ăn năn: 1340

”Thương Đức Thầy giữ nghiệp hằng.

Bởi nhờ can gián, nhiều lần cản ngay,

Trẫm mến thay! Lại ơn thay!

Có điều trẫm sái, nhờ nay Đức Thầy.

Quân sư tế thế ai tày, 1345

Trẫm thương, trẫm kính, đấng rày bực cao.”

Đức Thầy cực khổ công lao,

Lòng hằng cầu nguyện ước ao đêm ngày,

Trông nhờ phần đạo sau đây,

Thương ôi! Đoạn thảm lúc nầy xiết chi. 1350

Các địa phận trách li bì,

Không lo bổn phận, tham vì quờn danh.

Rất vô ích, chẳng khôn lanh,

Tây Sơn bắt đạo hoành hành tại ai?

Đi tây về giúp vương đài, 1355

Giận hờn, cừu oán, nỗi oai, hại hoài.

Biết bao muôn việc nạn tai,

Giết người bổn đạo, hành hài vô song.

Các cha nó cũng chẳng dong,

Nhà thờ phá tuyệt, đau lòng nào nguôi. 1360

Đức vua tay vỗ, lòng vui,

Phán rằng: “Quốc sự điềm xuôi đã bày.

Cả và nước, nhắm đã may,

Sẽ về một mối vào tay trầm rày.

Bởi vì bắt đạo thánh nay, 1365

Tây Sơn chắc bị bởi tay Chúa Trời.”

Giáo Hoàng nghe bấy nhiêu lời,

Không điều trách phạt việc thời Đức Cha.

Đức vua nay tống lịnh ra,

Ba mươi hai khoản, sửa mà binh cơ. 1370

Răn dưới thủy, cấm trên bờ,

Cùng là khắp tỉnh, chớ sơ lịnh truyền.

Nghiêm răn nhặt nhiệm bảo khuyên.

Lại nay vua cũng quở liên, dặn dò.

Các quan hiệp đánh bạc to, 1375

Quở quan rát mặt, quan lo điếng hồn.

Lại rằng: “Chúa tạo càn khôn,

Trên trời dưới đất, chí tôn đời đời.

Chúa bổn đạo thờ nơi nơi,

Ai khinh phạm đến, phạt thời chẳng tha.” 1380

Đoạn nầy quyết phục quốc gia,

Công đồng xuất trận, binh mà kéo đi.

Đức vua bàn luận xiết chi,

Sai Đông Cung với cùng thì Đức Cha.

Nha Trang trấn thủ cự già, 1385

Binh giăng các lũy giữ mà ngoài trong.

Vua hằng ép uổng hết lòng,

Đông Cung còn nhỏ cậy trông Đức Thầy.

Mưu mô bày trí nên hay,

Đuổi quân đảng tặc, chạy bay tìm đường. 1390

Kéo cờ, ai dám tranh cường,

Thành đồn, chống vững một phương lạ lùng.

Tiểu Triều oán Cảnh Thịnh hung,

Bấy lâu nay mới nổi xung đánh nà.

Qui Nhơn nghiệp đế của cha, 1395

Lấy rồi lại sợ giữ mà không an.

Gởi tâu Nguyễn chúa bảo toàn,

Đầu hàng cho đặng vững đàng nghiệp nay.

Chẳng ngờ Cảnh Thịnh đã hay,

Đam quân vô đánh, giết ngay Tiểu Triều. 1400

Đức vua lo lắng nhiều điều,

Lòng buồn rầu rĩ, việc điều chẳng an.

Đức Thầy lưu trấn Nha Trang,

Ngày nay vua dạy trẩy sang tức thì.

Qui Nhơn thành tựu một khi, 1405

Đức vua, Giám mục, đều thì hiệp đây.

Chung cùng bàn luận đêm ngày,

Đức vua than thở với nay Đức Thầy:

”Mấy trận thủy, nhờ tàu tây,

Của quân sư sắm, dựng gầy bấy lâu.1410

Mấy trận bộ, đã tóm thâu,

Cũng đà hết sức, mới hầu đặng nay.

Mấy nơi đồn lũy về tay,

Cũng hằng kiên giữ, đêm ngày keo sơn.

Ngặt vì một cõi Qui Nhơn, 1415

Chỗ đô của ngụy dữ hơn các thành.

Trẫm đam binh tới vây quanh,

Đánh đà mỏi mệt, tử sanh chẳng nài.

Xuân qua, đông lụn lâu dài,

Trót năm tử trận kể đầy mấy muôn. 1420

Ngã lòng trẫm muốn mở buông,

Đức Thầy can gián vây luôn thành nầy.”

Đức vua nghe tiếng bảo đây,

Nên truyền quân cứ vây đầy các nơi.

Binh vây ngụy tặc hết hơi, 1425

Tư bề nghiêm nhặt, thương ôi! Nhọc nhằn.

Các tướng giặc thấy dữ dằn,

Lớp thì thoát trốn, lớp bàn thủ thân.

Liệu không xong, mới tỏ phân,

Xin hàng cho đặng khỏi phần nạn tai. 1430

Trước khi đầu, nhờ con nai,

Ban đêm chạy chỗ quan cai lũy đồn.

Quân thất thế, dậy la dồn,

Nghe nai thì tưởng binh Đồng Nai bao.

Bắn nhau sa hố, té hào, 1435

Sáng ra mới biết la Lào, nói Ngô.

Đức vua vào tới ngụy đô,

Lòng mừng hết sức, cơ đồ nghiệp vương.

Vỗ về tướng sĩ, binh cường,

Qui Nhơn tên cũ toan đương đổi liền. 1440

Đặt là Bình Định, trông yên;

Dạy quan Võ Tánh cầm quyền giữ nay.

Quan nầy tướng nhứt giỏi hay.

Kế đâu bịnh tới Đức Thầy phải lâm.

Đức vua thật rất tình thâm, 1445

Rước danh sư tới, khóc dầm thở than.

Chữa chuyên hết sức vô phang,

Đức Thầy nguyện Chúa thiên đàng đoái thương.

Đã ba mươi hai năm trường,

Hết lòng kính Chúa, lo lường lập công. 1450

Bấy lâu khẩn nguyện ước trông,

Trông vua có đạo, rày không ra gì.

Hai mươi năm cực sá chi,

Giúp vua Nam Việt phục thì quốc vương.

Lòng mong cả nước bốn phương, 1455

Ngày sau thờ Chúa, theo đường đạo ngay.

Đức Thầy chí quyết thuở nay,

Rày gần vô ích, tiếc thay không cùng.

Đức Thầy nay trối thỉ chung,

Gởi trong giáo hữu cho chưng vua cùng. 1460

Lại rằng: của mọn xin dưng,

Những là báu vật đồ dùng bên tây,

Vua Lu-y ban bấy chầy,

Ngày nay dưng hết của nầy cho vua,

Để dùng buổi sớm, lúc trưa. 1465

Lại chường quốc mẫu xin tua nhậm dùng.

Trối cùng Hoàng tử Đông Cung,

Của hèn sư đệ hãy dùng ngày nay.

Cùng nhau mười mấy năm chầy,

Dưỡng nuôi dạy dỗ, nào khuây tấm lòng. 1470

Đông Cung nước mắt ròng ròng,

Thương Thầy sầu não, không cùng thảm thay.

Đức Thầy kêu Chúa phú tay,

Linh hồn mọi việc xin rày Chúa thương.

Hết lòng sốt sắng lo lường, 1475

Chịu ơn bí tích đủ đường một khi.

Có câu sinh kí tử qui,

Đức Thầy nay đã mới thì về quê.

Tiêu diêu trực vãng lạc hề,

Tới nơi cõi thọ, hầu kề Chúa Cha. 1480

Trong triều hết thảy gần xa,

Vua quan thương khóc, buồn mà nơi nơi.

Năm mươi bảy tuổi qua đời;

Đức vua kể nỗi, châu rơi trăm bề:

”Chước Thầy bày chất muôn xe, 1485

Đánh đồn đánh lũy, chở che thành vàng.

Loạn thần, phản chúa, nghèo nàn,

Mưu cao mấy nhiệm, phá tan ngụy tàn.

Nhắm xem trong nước gần an,

Ngôi vàng hòng vững, hòng toàn, hòng thanh. 1490

Bội quân đút mặt xó thành,

Thân đơn, thể mỏng, mặt xanh như chàm.

Bấy lâu trẫm ở cõi Nam,

Lao đao cực khổ, Thầy cam tấm lòng.

Hỡi ôi! Công rất trọng công! 1495

Ơn chưa được trả, ngãi không đặng đền.

Dòng châu mịt mịt nào yên,

Mờ mờ suối ngọc, đâu quên ơn Thầy!

Thương ôi! Người cõi bên tây,

Cứu vua Nam Việt dựng gầy quốc an. 1500

Ơn nầy trẫm tạc bia vàng,

Trẫm đề chữ thắm, danh vang muôn đời.”

Sau coi sắc tặng của người,

Không điều thêu dệt, không lời bày ra.

Lịnh đam gấm, nhiễu, lụa là, 1505

Hòm thì rất tốt, liệm mà Đức Cha.

Chở về Gia Định cất nhà,

Để quàn hai tháng, tỏ mà nhớ thương.

Qui Nhơn các tỉnh hùng cường,

Trí quan cai giữ, lịnh vương phản hồi. 1510

Sài Gòn đều mới tới nơi,

Đức vua đau đớn, thương thôi nhiều đường!

Các cha làm lễ thường thường,

Khắp trong bổn đạo lo lường đọc kinh.

Cầu hồn, xem lễ tỏ tình, 1515

Nguyện xin Giám mục trường sinh cõi trời.

Các quan triều ở nơi nơi,

Tới mà thăm viếng, trọng người quốc sư.

Đông Cung mến đấng nhơn từ,

Vua cho để chế cũng như thân mình. 1520

Đông Cung thương nhớ hết tình,

Đãi đằng hầu hạ, tỏ mình như con.

Đượm đầy khóc lóc nỉ non,

Nghĩ tình sư đệ, héo don đoạn trường.

Tốn hao các cuộc phô trương, 1525

Của vua ban cấp, nhiều đường trọng thay.

Vua đi xem lễ châu mày,

Thương vì nghiệp cả, công dày thuở nay.

Đức vua dạy các quan tây,

Cứ trong phép đạo vẽ bày việc ra. 1530

Có sức nào táng Đức Cha,

Thì làm ngần ấy, ban mà tận tâm.

Mồng mười tháng chạp An Nam,

Kỷ vì năm ấy, đang nhằm mùa đông.

Ban đêm thiên hạ tràn đồng, 1535

Hai giờ khuya mới khởi công phát hành.

Đàng đầu Thánh Giá xưng danh,

Lồng đèn kết sáng khắp quanh đi đàng.

Sáu bàn chạm lọng thếp vàng,

Sơn son hết thảy, sắp hàng khiêng ra. 1540

Thứ nhứt khám kính Thiên tòa,

Hoàng Thiên Chúa tễ trọng mà tung hô;

Thứ hai, khám ảnh Phaolồ;

Thứ ba, thánh cả Vêrô tỏ bày,

Ấ y là Bổn mạng Đức Thầy; 1545

Thứ tư, Hộ thủ kính nay Thiên thần;

Thứ năm, Đức Mẹ khoan nhân,

Phù trì giáo hữu, ra ân muôn ngàn;

Thứ sáu, triệu thêu chữ vàng,

Họ tên, chức tước, lớp lang sắp bày. 1550

Kế rạp gậy mũ Đức Thầy,

Để đồ Giám mục trước ngay quan tài.

Nhi nam, nhi nữ kéo dài,

Trùm, câu, chức họ, đi hai bên đàng.

Các cha lớp lớp có hàng, 1555

Quan triều, vị vị phẩm dàn kế đây.

Vua ngự cùng các quan tây,

Đông Cung trưởng tử hầu rày sầu bi.

Bà Hoàng hậu, các thứ phi,

Hoàng nam, Công nữ, đi thì theo nay. 1560

Lính hộ vệ bồng súng tay,

Lọng tàn, gươm giáo, kể đầy hai muôn.

Đường ra trận, giữ phép khuôn.

Voi ngoài trăm thớt hầu luôn hai hàng.

Thắng kiều khấu, rất nghiêm trang, 1565

Như chầu vua vậy, sửa sang rạng ngời.

Đô tùy khiêng tám mươi người;

Sáp thì đã thắp mấy mươi ngọn đèn.

Người sang cho tới kẻ hèn,

Muôn vàn thiên hạ ngợi khen tiếng đồn. 1570

Làng Tân Sơn cách Sài Gòn,

Năm kilomètres, nơi chôn Đức Thầy.

Hai văn tế, và trong bia kể tích, sắc tặng,

thì đều cứ y theo trong sử mà chép ra.

Văn tế của Quới chức và Bổn đạo.

Có văn tế rằng:

Hỡi ôi!

Phép Chúa khiến đổi dời,

Cơ hội ấy ai không thảm thiết!

Hễ người đời sống thác,

Cớ sự nầy ôi đã rõ ràng.

Tưởng đến, lòng thêm chua xót,

Nghe thôi, dạ rất thảm thương.

Nhớ Cha xưa:

Vốn dòng sang trọng,

Nên đấng khôn ngoan,

Bẻ nương ấm thung huyên,

Hằng cấp củm văn phòng bốn bạn,

Lớn trỗ tài tùng bá,

Khéo dửng dưng danh lợi hai trường.

Lòng dốc lòng khí tục tinh tu,

Chẳng chuộng xe vời ngựa rước.

Chí quyết chí siêu phàm nhập thánh.

Ỷ thà níp dội, bầu mang.

Vun đức quén nhơn,

Rèn bẩy khắc tiết ngời gương rạng.

Nắm mình sửa tính,

Chống ba thù ngút bạt giá tan,

Thương là thương hay thủ ngãi, quyết xá sinh,

Khi đang thế hiểm gập ghình,

Cũng gượng gạo, chơn trèo đèo, tay chống gậy,

Cảm là cảm đã tận tâm, thêm kiệt lực,

Ở giữa chiến trường chật hẹp,

Chịu lao đao, ngày dãi nắng, tối dầm sương.

Ôi!

Bình chìm, trâm gãy,

Núi lở, sét ran.

Mây sầu giăng tở mở,

Mạch thảm chảy mê man.

Chớ chi gắng gỗ một hai năm, ra đến Trường An,

Việc Hội Thánh sửa sang, rồi sẽ khuất;

Chẳng nữa lần hồi năm bảy tháng, trở về Gia Định,

Cho chúng con thấy mặt, kẻo lòng thương.

Hỡi ôi! Thương thay!

Văn tế của Đông Cung Cảnh

Văn tế rằng:

Hỡi ôi!

Xưa có kế lui về phật kiểng.

Chiếc dép hãy di tông,

Nay như Thầy thẳng tách thiên đàng,

Nửa lời khôn phụ nhỉ.

Trăm mình ỷ khó chuộc cầu,

Muôn kiếp no nao đặng thấy.

Nhớ Đức Thượng Sư xưa:

Ghẽ tục phong lưu,

Nên trang cơ trí.

Vui đạo thánh tạm lìa quê quán,

Nước Langsa từ áng công danh.

Sửa tước trời mong hóa sinh dân,

Cõi Nam Việt gá duyên ngư thủy.

Thức thì thức thế,

Khôn ngoan quá khỏi đấng phàm gian.

Bất kị bất cầu,

Thong dong ở ngoài vòng tục lụy.

Thành Diên Khánh ách hơn Trần Thới,

Tư bề thỉ thạch sư sanh,

Vui trong đất trùng vây.

Thành Qui Nhơn hiểm quá Hàm Quan,

Mấy trận công thu trừ ốc,

Quyết ngoài trời thiên lý.

Những tưởng được năng y kì bịnh,

Nên trở về Gia Định, vàng tiếng tơ mà xướng khúc khởi hoàn;

Bằng hay nghiệm bất kiến kì quan,

Đã ở lại Kì Sơn, chịu di chỉ cho an lòng sư đệ.

Thuở đi thì gần kề hai võng,

Đàng phong sương xa tách vơi vơi.

Khi về thì phong cẩn một quan,

Thuyền li hận chở đầy phé phé.

Ôi!

Nửa gối du tiên,

Ngàn năm biệt mị.

Tòa khách tinh mây phủ mịt mù,

Dinh lữ thứ màn không vắng vẻ.

Ngàn trùng quan tác,

Xa xuôi cách dặm cố hương.

Ba thước lữ phần

Quạnh quẽ gởi miền di địa.

Bia trước lăng của Đức vua Gia Long,

Nguyên chữ nhu dịch ra tiếng chữ quốc ngữ.

KỂ TÍCH

Có người Thầy cả lớn quờn ở bên Tây, ên là Pinho, hiệu là Vêrô,

Thuở bé thơ đã học hành đạo lý trung quốc,

Thông suốt các kinh văn thánh hiền toàn hảo.

Đến tuổi khôn qua nước Việt Nam Ta,

Nhằm khi trong nước Ta đang phải đa đoan.

Người là khách tha bang, mà đã làm Thầy trong nước Ta.

Người đã tỏ bày tài văn học mình ra mà làm việc.

Vậy đã chung cùng ưu tư vối nhau,

Trong cơn nhà nước loạn ly hỗn độn.

Lại đã dành nấy phú việc đại sự cho người,

Làm Thầy nhà nước, mà đi viện binh giúp nước.

Thật người tận tâm tận lực, mà đi qua đi lại,

Hơn hai mươi năm gian nan cực khổ.

Người đã bày vẽ việc binh cơ đồ trận,

Chỉ cách xây thành, lập trấn.

Nhứt thiết các việc chỉ khởi bày gầy dựng,

Thì nhờ có người bày biểu,

Mà truyền để cho tới đời sau.

Bởi đó nước Ta đã đặng nhiều cách thế mà thạnh.

Vì có người làm Thầy có tài sức lắm.

Năm Kỷ Vì,

Người đã theo việc binh mà tới thành phủ Qui Nhơn.

Sang tới ngày mười một tháng chín,

Thì người đã tạ thế tại đó, là nơi bên cửa Thị Nại.

Khi ấy nguời đã đặng 57 tuổi.

Qua mạnh dông (tháng mười một),

Thì đặng sắc phong làm Thái Tử, Thái Phó Quận Công.

Đã chọn chôn xác người tại phía bắc thành Gia Định.

Vậy nơi xây đắp nầy là chốn nghỉ,

Cho đấng Thầy nhà nước đã mạng cố.

Nầy thật là dấu tích muôn đời.

Năm Canh Thân (1800)

Trọng thu, tháng tám, ngày lành, đã dựng bia.

Sắc tặng, cũng chữ nhu làm ra chữ quốc ngữ, cũng của Đức vua Gia Long.

Có sắc rằng:

Người hiền ngõ tôi đã quen biết xưa,

Chẳng nại đàng xa ngàn dặm mà tới,

Đang hội giao rất tốt,

Mà sao lại nỡ một buổi mà mất đi!

Tưởng đến đức cũ,

Nên rõ ra ơn nước Phalangsa phong chức:

Riêng Sai Thông Lịnh Sửa Sang Theo Ý Minh,

Tàu Chiến Thủy Bộ Binh Giúp,

Là Giám Mục Vêrô,

Là Thầy cả lớn quờn bên đất Tây,

Là khách nhứt hạng trong nước Việt Nam.

Ngày mới khởi cầm quờn, đã may gặp bạn rất lành.

Tin tưởng nhau lúc ban đầu còn u ám.

Ta đã kề tiếp đức âm người mà hỏi han,

Thì thật rất nhờ lắm.

Trong cơn nhà nước mắc nhiều hoạn nạn,

Trẫm khi ấy cực khổ trèo non vượt núi,

Cũng như đời nhà Hạ, vua Thiếu Khương.

Vậy đã khiến trở trời biển hai đàng,

Ông của Trẫm tin nghe theo, khác nào chức A Bảo,

Của Thái tử đời nhà Hán.

Tuy lời qua lại tỏ đã yên với nước tổ phụ,

Lấy binh đến giúp.

Nửa chừng việc với lòng trái nhau.

Song người đồng cừu, thì tính làm theo việc người:

Thà vì ngãi mà trọn với nhau..

Đều tựu hội lo mưu theo dịp dấy loạn ấy.

Năm Mậu Thân,

Trở về nước cũ mình thì rất trông tiếng tốt.

Năm Canh Tuất, thì cỡi thuyền lại chốn Đông Phò.

Khi ấy càng hậu lời giao ước hơn.

Thật rất phải đạo thầy dạy nuôi trẻ thơ ấu.

Thường ngày tiếp rước, hằng bày ra mưu lạ,

Mà yên trong cơn loạn rối.

Việc đạo đức, trong lời nói, tiếng cười,

Và ngãi nhơn đã hiệp nhau, như trâm với tóc vậy.

Việc kinh luân ngoài phong trần,

Tình rất tin nhau như liền dây cương,

Trước sau một lòng ngay thật, không hai.

Sinh ra mà gặp điều lạ thì đồng vui.

Những trông hẹn, trải qua năm tuổi tác lâu dài,

Mà vui vầy cùng nhau.

Ai dè bụi tro lại lấp chôn cây ngọc!

Ta thầm tới đó mà tặng phong

Làm chức Thái Phó, Tước Pinho Quận Công.

Lại thêm tặng hàm ân rằng:

Ngay Thật, Tốt Lành.

Cho đặng tỏ mùi thơm đức lớn kẻ đã khuất đời.

Và ngõ nên công nghiệp cả kẻ khách lành.

Hỡi ôi! Cái sao khách đêm sa!

Đi chốn thiên đàng khôn cầm lại,

Một chữ tặng khen thì rất lịch sự,

Như là mặc áo cẩm bào cho vậy.

Bởi tình Trẫm chẳng nguôi,

Hỡi ông thiêng liêng!

Đã gội nhuần Ta ơn sáng.

Nay Sắc phong.

Chôn cất xong việc Đức Thầy,

Xây lăng, đắp mả, để rày hậu lai.

Cây gỗ trọng, tạo lâu dài, 1575

Rõ ràng con thấy, ngày nay vững vàng.

Bia bài dựng để giữa lăng,

Tạc đề chữ thắm, chữ vàng, sắc phong.

Bá Đa Lộc trọng hết lòng,

Ấy là tên bụt, tặng khong khen người, 1580

Lưu danh thiên cổ để đời;

Chức thời Thái phó, chức thời Quận công.

Tặng đà gần bực ngôi rồng,

Bởi vua thương mến, bởi công nghiệp đầy.

Quân sư hồn ở thiên đài, 1585

Vua ban trọng kính là Thầy Nam phương.

Vua ngự bút, tiếng phi thường,

Biết ơn, cám nghĩa, khó lường, khó biên.

Năm mươi quân cấp thường xuyên,

Giữ lăng xem sóc, cần chuyên trau giồi. 1590

Ngày sau Minh mạng lên ngôi,

Mười ba năm mới bãi thôi giữ rày.

Đức vua còn nhớ Đức Thầy,

Kế Tây Sơn đã chuyến nầy làm hung,

Hùng binh trăm vạn kéo cùng, 1595

Đánh đồn, phá lũy, đùng đùng oai danh.

Ngụy vây Bình Định hãm thành,

Tờ tin phi báo chẳng lành khốn thay!

Đức vua thủy bộ cự ngay.

Súng hai bên bắn, chết nay muôn ngàn. 1600

Đánh trót năm, khó nỗi đang,

Binh vua mười vạn tai nàn mà ghê.

Vua quan bàn tính trăm bề,

Bỏ thành Bình Định, chỉ đề Huế kinh.

Tới nơi xuất trận lôi đình, 1605

Đánh Tây Sơn riết, muôn binh trốn đầy.

Tai nghe binh ó vang dầy,

Trống chiêng đánh giục, phủ vây bịt bùng.

Thổi kèn, cờ phất đã cùng,

Xông vào bắn vải khắp xung quanh thành. 1610

Tây Sơn khó nỗi đấu tranh,

Bởi vì binh mỏng thất thanh chạy dài.

Vua Cảnh Thịnh trốn bỏ ngai,

Nguyễn Ánh vào Huế, mừng nay không cùng.

Ngụy vây Bình Định tứ tung, 1615

Thương ôi! Võ Tánh bị trùng vô phương.

Ăn voi, ăn ngựa, hết lương,

Mặc đồ triều phục, toan đương hại mình.

Cả kêu tướng ngụy tỏ tình,

Xin đừng có giết, hành hình quan binh. 1620

Dặn dò bá tánh chư dinh,

Lên giàn chịu cháy; ngụy binh dăng thành.

Vua nghe, thương tiếc hùng anh,

Hai năm cầm cự, nay đành liều thân.

Khóc than, thương nhớ muôn phần, 1625

Đạo làm thần tử ưu quân nỗi nầy!

Trung thần mãn số chịu vây,

Xương tàn, cốt rụi, lửa vầy đốt ngay.

Ngụy quan lấy lại thành nầy,

Ở trong Gia Định ngày nay bất tường. 1630

Đông Cung Cảnh trấn Nam phương.

Người rày lên trái, bỏ đường kế vương.

Nhiều khi Hoàng tử toan đương,

Lúc còn mạnh mẽ, lo lường không an,

Tỏ cùng Giám mục nhiều đàng, 1635

Lòng buồn việc đạo mở mang chưa thành.

Ước trông sau sẽ ban hành,

Ước trông sau đặng ơn lành kế ngôi:

Ước trông sau hết dân tôi

Trở về đạo Chúa, hỡi ôi! Việc nầy. 1640

Từ khi ở cách Đức Thầy,

Thì theo xác thịt, tỏ bày vui say.

Ngày nay lâm phải bịnh nầy,

Mới lo nhớ Chúa, lòng rày chẳng khuây.

Ăn năn tội lỗi bấy chầy, 645

Cậy ông quan nhỏ rửa nay tội liền.

Hai mươi hai tuổi bỏ quyền.

Cha Nghi, người cũng qui thiên năm nầy.

Cha nầy công cả ai tày,

Cứu hồi vua khổ, giúp ngày ngụy vây. 1650

Vua thương, vua khóc dẫy đầy,

Vua phiền nhiều nỗi, trông ngày thới lai.

Khi vua lấy Huế lại đây,

Hai em Cảnh Thịnh bị nay bắt liền.

Phò mã Trị khó thăng thiên, 1655

Cũng đều bị bắt; vua truyền lịnh ra,

Đem vô Bình Định cả ba,

Ngụy quan xem thấy, hãi mà hồn kinh.

Đức vua rao khắp quan binh,

Tây Nam vây phủ, chớ đình huởn ra. 1660

Ngụy quan khi ấy bôn ba,

Bỏ thành Bình Định lén mà trốn đi.

Bấy lâu cực khổ xiết chi,

Đánh đà nhiều trận, nay thì mới xong.

Sớ tâu về trướoc bệ rồng, 1665

Vua hay mừng rỡ ngoài trong cơ đồ.

Ngụy vương nay đã đơn cô,

Chạy ra tỉnh Bắc, cải hô hiệu rày.

Bửu Hưng đặt lấy điềm may,

Lại sai quan sứ tâu bày vua Thanh. 1670

Xin binh cứu giúp đấu tranh;

Vua Tàu không chịu, bất thành, bất thanh.

Vua nay tu bổ hoàn thành,

Đình thần dưng sớ biển danh nước nhà.

Xin tức vị, hoàng đế tòa, 1675

Gia long đặt hiệu, chánh mà ngôi cao.

Bấy lâu văn võ ước ao,

Nay mừng chúc thọ, tống trao, nội trào,

Ra ân xá, khắp hết bao,

Thưởng quan, tha thuế, lịnh rao rành rành. 1680

Nguyễn vương nay mới ngự hành,

Trăm muôn binh sĩ kéo quanh các thành.

Đánh Bửu Hưng với các danh tướng cùng.

Giết hết ráo, tuyệt giặc hung, 1685

Kho tàng của cải về chưng vua rày.

Bạc, vàng, voi, súng vào tay,

Giặc nầy quét sạch ngày nay làu làu.

Đánh ngàn trận, chẳng phải mau;

An Nam mà giết với nhau làm vầy! 1690

Bốn mươi năm đã gần đầy

Nay qui nhứt thống về rày Nguyễn gia.

Bốn phương thâu lại một nhà,

Thanh bình nền đế trọn mà gần xa.

Phước nên khắp hết sơn hà,1695

Từ Nam chí Bắc nước nhà rộng thay.

Nước Nam từ có đến nay,

Một mình vua đặng gồm rày nhứt phương.

Công vua cao trọng ai bường:

Lao đao, cực khổ thảm thương trăm đàng. 1700

Lúc còn nhỏ, chịu cơ hàng,

Trèo non, vượt biển, gian nan muôn ngàn.

Lớn lên, văn võ lưỡng toan,

Cầm binh, tuyển tướng, ai đang, ai bì!

Các quan tây, khen thiếu gì, 1705

Siêng năng, khôn khéo, bá công,

Xứng vì vương đế, ngai rồng đáng ngôi.

Ngày nay cực khổ qua rồi;

Lọng tàn che phủ, trống hồi nhạc rung. 1710

Kỉnh thiên vua ngự chánh cung,

Thăng Long, Hà Nội, thùng thùng tiếng tung.

Bá quan triều hạ khắp cùng,

Lớp về bái mạng triều trung đã đầy.

Cẩm trướng giăng, cửa ngọc vầy, 1715

Kim lầu vua ngự, sắp bày nghiêm trang.

Nguyễn vương phán chỉ chiếu vàng,

Tống ra lời dụ, cho an, cho bình.

Kẻ làm giặc tới hạ mình,

Trở về đầu thú; xuống tình thứ tha. 1720

Dòng Lê, dòng Trịnh, hai nhà,

Vưng đam khí giái hàng mà Nguyễn gia.

Thưởng quan, thưởng tướng gần xa,

Bạc, vàng, gấm, nhiễu, phát mà nơi nơi.

Cố hương cho lính phản hồi, 1725

Lớp thời ban thưởng, cho thời thảnh thơi.

Tiệc bày vui đã trong đời.

Giải lao tướng sĩ, ban lời khen vang.

Thuế tha, ân xá nhiều đàng,

Đặt quan các tỉnh, sửa sang trong ngoài. 1730

Luật ra nhiều khoản an bài,

Ngự về kinh Huế, hưởng ngai ngôi rồng.

Bốn phương nam, bắc, tây, đông,

Sĩ, nông, công, cổ, đều đồng chúc vinh.

Đại Nam Việt quốc thinh thinh, 1735

Nguyễn gia ngự vị, thái bình muôn năm.

VỀ VIỆC DỰNG HÌNH ĐỨC THẦY VÊRÔ

Giáng sanh ngàn chín hai năm,

Tháng Mars, mồng chín, đương nhằm mùa xuân.

Vang danh Đại pháp lẫy lừng,

PINHO hình dựng áp chưng ngày nầy. 1740

Năm giờ chiều, thiên hạ đầy,

Vào trong nhà thánh, chầu nay phép lành,

Cám ơn Chúa cả sanh thành,

Đánh chuông, đánh nhạc, rao danh chói lòa.

Sáng ra chuông đánh nghe xa, 1745

Nhơn dân các sắc tựu mà ngóng trông.

Trước nhà thờ, thiệt nên đông,

Hầu mừng hình tượng Đức Ông đã đầy.

Cờ treo, tiếng nhạc vang dầy,

Chưng ra hực hở, đủ đầy nghiêm trang. 1750

Bảy giờ chuông đánh đã vang,

Hai tòa Giám mục ngồi ngang trước hình.

Đức Cha Mão, Giám mục mình,

Cùng Đức Cha Huế, chứng minh việc nầy.

Các bề trên, các cha tây, 1755

Cùng cha bổn quốc chầu vây khắp cùng.

Thầy dòng, nhà phước, tứ tung,

Trùm, câu, các họ đứng xung quanh đường.

Dựng cờ đề hiệu, phô trương,

Họ nào các chức, áo trường mắc nay. 1760

Học trò sắp liển dầy dầy,

Các quan bổn quốc tới rày hầu coi.

Chuông lầu mới đánh dứt hồi,

Thời quan Tổng Thống tới nơi đã rồi,

Nam Kỳ Nguyên Soái chánh ngôi, 1765

Cùng quan Soái thủy, vô hồi nghiêm trang.

Quan văn, quan võ, hàng hàng,

Chư chư, vị vị, rất sang phẩm quyền.

Đức Cha địa phận đứng liền,

Người bèn làm phép giữa thiên hạ rày. 1770

Cờ tam sắc, bao hình nầy,

Tức thì liền mở ra nay vội vàng.

PINHO Giám mục rõ ràng,

Tay cầm điều ước, lo đàng viện binh.

Bốn bên thiên hạ thấy hình, 1775

Đứng trên đá gấm, hết tình là sang;

Cổ mang tượng ảnh rõ ràng,

Xưng ra đạo thánh vững vàng lòng son;

Thiên niên vặc vặc vuông tròn,

Trước nơi đền thánh Sài Gòn rất vinh. 1780

Lại hình con trẻ với mình,

Là Đông Cung Cảnh tay gìn dắc đi.

Động lòng thiên hạ một khi,

Bá quan đứng dậy đều thì thào liên, 1785

Kế đây nhạc dứt, rao truyền tích ra.

Hai quan bổn quốc của ta,

Cũng đều hiệp sự, giải mà tiếng ra. 1790

Quan Nguyên Soái cùng Đức Cha,

Lại ông đầu hội cùng là xã tây.

Giao hình nầy, thành phố đây,

Thì quan Đốc lý vui vầy lãnh ngay.

Bốn vì kể truyện tỏ bày, 1795

Thỉ chung từ đoạn, mối dây ra dài:

Kể quê, kể quán an bài;

Kể hồi đi học, đức, tài, bên tây;

Kể hồi chịu chức làm thầy,

Lãnh quờn Giám mục xứ nầy, đoạn kia; 1800

Giảng rao đạo chánh, chẳng lìa;

Gặp đời Nguyễn chúa bị chia nước nhà.

Tây Sơn huynh đệ cả ba,

Đoạt quờn, cướp nước, thiệt là chí tai.

Gia Long thất quốc chạy dài, 1805

Biển kia, núi nọ, trốn hoài gần xa.

May đâu gặp đặng Đức Cha,

Dưỡng nuôi cứu giúp lo mà viện binh.

Công lao cực khổ lộ trình,

Kể ra từ đoạn, đinh ninh hết tình. 1810

Cứu vua cho đặng thái bình,

Nên vua trọng thưởng, tỏ mình biết ơn.

Lập lăng, ban chức, phong quờn,

Ngày nay hình dựng, nguồn cơn để bày.

Đức Cha địa phận công dày, 1815

Hiệp cùng Đại pháp, lập nay đã thành.

Bách tuần lễ trọng hiển danh,

Vêrô Giám mục, sử xanh chép rành.

Đã nên nhơn tử lưu danh,

Lưu danh nhơn tử giữa thành Nam thiên. 1820

Khi xưa Cha ở các miền,

Tay dìu, tay dắc, đoàn chiên ai bì!

Khắp trong lục tỉnh Nam Kỳ,

Một lòng phò tá theo thì Nguyễn gia.

Chết đà vô số hằng hà, 1825

Nam trung thần tử chịu mà thiết tha!

Mỹ Tho, Gia Định, Biên Hòa,

Vĩnh Long, Châu Đốc cùng là Hà Tiên,

Gian nan khốn cực uyên thiên,

Thì là địa phận bầy chiên của người. 1830

Ngày nay Cha ở cõi trời,

Chầu gần Chúa cả nguyện lời cho con.

Đời nầy là chốn thon von,

Xác hồn bị giặc, đương còn nạn tai.

Con người ai cũng như ai, 1835

Lọt ra lòng mẹ, nằm dài tu oa.

Biết mình cực khổ tới già,

Khóc than ngao ngán, thiệt là hiểm nguy.

Xin thương địa phận Nam Kỳ,

Cầu cho càng thạnh, thảy thì bằng an. 1840

Xin cho chiên Chúa vầy đoàn,

Giữ nên đạo thánh vững vàng đức tin.

Xin cho hồn xác an bình,

Thảy đều hầu Chúa hiển vinh đời đời.

Chung

Nguồn: www.giaophanvinhlong.net