NHÂN CUỘC CHIẾN TRANH LẦN THỨ NĂM GIỮA Ả RẬP VÀ ISRAEL (5)

V. CHIẾN TRANH LẦN THỨ HAI NĂM 1956 GIỮA ISRAEL-Ả RẬP

Chiến tranh lần thứ nhất giữa Israel và Ả Rập năm 1948, phía Israel thiệt 4,000 lính; 2,000 dân. Nhưng vì ý thức được tình hình rất mong manh cho nên Israel phải đặt mình trong tình trạng chiến tranh, phải duy trì quân số rất đông, phải chi 20% tổng lợi tức cho quốc phòng.

Về phía người Ả Rập chịu nhiều thiệt hại hơn người Do Thái. Hàng ngàn người chết trong chiến tranh và cả do sự khủng bố của người Do Thái. LHQ ước lượng khoảng 750 ngàn người Palestine tị nạn vào năm 1948-49. Chỉ một số kiếm được việc làm trong nước Israel thì bị chính đồng bào của họ mắng là ‘những tên Do Thái trong thế giới Ả Rập’; ngoài ra đại đa số sống cực khổ trong những túp lều ở các trại tị nạn dọc biên giới với Israel. Tất cả đều cho là người Do Thái ăn cướp đất đai, tài sản của người Ả Rập. Họ căm hờn muốn trả thù người Do Thái.

Cả hai bên đều biết các hiệp định kí kết vào năm 1949 chỉ đưa tới cuộc hưu chiến tạm thời. Chiến tranh còn có thể xẩy ra bất cứ lúc nào vì những nguyên cũ vẫn chưa được giải quyết, nay chồng chất thêm những nguyên phân phát sinh do cuộc chiến lần thứ nhất để lại.

Các nguyên nhân:

1/ Vấn đề biên giới: Phía người Ả Rập có đủ lí do để bất mãn về biên giới vì thua trận. Nhưng phía người Do Thái cũng có một số chưa hài lòng về phần đất rông rãi họ được hưởng nhờ chiến thắng. Họ còn mơ tưởng bành trướng thêm theo như lời Thánh Kinh đã hứa vì số dân rồi sẽ tăng nhiều trong tương lai. Quả vậy, sau chiến tranh cả triệu người Do Thái từ khắp nơi hồi hương. Hơn nữa, người Do Thái còn khổ tâm vì bức tường than khóc linh thiêng của họ còn trong vùng Jordan kiểm soát và thành thánh Jerusalem bị chia đôi.

2/ Vấn đề người Ả Rập tị nạn: Sau chiến tranh, chính phủ Israel chỉ cho những người Ả Rập theo Kitô giáo được trở về, còn đại đa số là người theo Hồi giáo thì bị cấm ngặt không cho hồi cư. Họ sống rất cơ cực, nhưng nhất định chấp nhận sống trong các trại dọc biên giới chứ không chịu di cư tới những nước chung quanh mời mọc họ. Bởi vì họ nghĩ có sống ở các trại gần quê quán cũ thì mới hi vọng sẽ còn cơ hội trở về quê cha đất tổ. Dân tị nạn Ả Rập rất oán hận những nước Lebanon, Jordan và Ai Cập vì đã hi sinh họ để kí hiệp định với Israel. Quốc vương Jordan là Abdallah bị ám sát vì tội ‘phản dân tộc’. Thủ tướng Lebanon là Ayad Solh cũng mất mạng vì tội điều đình với Israel. Còn quốc vương Farouk của Ai Cập bị nhóm của Nasser lật đổ khỏi ngai vàng vào ngày 25 tháng 7 năm 1952

3/ Vấn đề xung khắc về tôn giáo: Hằng ngày, người Do Thái nào cũng đọc Cựu Ước và người Hồi giáo nào cũng đọc kinh Qur’an. Trong Qur’an có câu: ‘Nếu bọn dị giáo tấn công các ngươi thì các ngươi hãy tắm trong máu của chúng’. Ngày nay nhiều nhóm Hồi giáo cực đoan vẫn còn thái độ hiếu chiến, hiếu sát này.

Đang khi đó sách Cựu Ước có đoạn gây căm tức cho người Ả Rập: ‘Ngày đó, đức Jahve giao ước với Abraham rằng: ‘Cho dòng giống ngươi, Ta sẽ ban thửa đất này từ sông Ai Cập đến sông Cả, sông Phơrat (Euphrates), xứ của dân tộc Qêni, dân Qênizzi, dân Qađmôni, dân Hittit, dân Phơrizi, dân Rơphaim, dân Amori, dân Canaan, dân Ghirgasi, dân Yơbusi Giêbunít” (Sáng Thế,15:18-21). Hoặc đoạn: ‘…nếu nó tuyên chiến với ngươi, ngươi sẽ hãm thành; Yavê Thiên Chúa của ngươi sẽ phó nộp nó trong tay ngươi và ngươi sẽ tuốt gươm chém. sạch nam nhân trong thành…(Thứ luật, 20:12,13).

Người ta có thể hiểu Kinh Thánh theo nghĩa biểu tượng, ngụ ý dậy làm lành lánh dữ, chứ không hiểu theo nghĩa cụ thể của ngôn ngữ thường tình. Nhưng rõ ràng trong lớp người Do Thái thế hệ năm 1940, 50, nhiều người đã hiểu Kinh Thánh theo nghĩa cụ thể của từng chữ. Tai họa nằm ở đó.

4/ Sự xuất hiện nhân vật Nasser với giấc mộng lớn: Hai năm sau khi lật đổ quốc vương Farouk, Gamal Abdul Nasser (1918-1970) lên làm tổng thống Ai Cập ngày 14 tháng 11 năm 1954. Việc đầu tiên ông làm là thương thuyết để Anh rút quân khỏi Ai Cập. Thứ đến, ông vận động thống nhất các dân tộc Ả Rập.

Các quốc gia Ả Rập có những điểm giống nhau về ngôn ngữ, tôn giáo, trừ ra Lebanon có nhiều người theo Kitô giáo, nhưng lại khác biệt về chính thể. Đa số theo thể độ cộng hòa, riêng Jordan và Saudi Arabia vẫn duy trì chế độ quân chủ. Họ đã liên kết với nhau trong Liên Đoàn Ả Rập (Arab League) thành lập năm 1945 gồm các nước: Irak, Jordan, Lebanon, Saudi Arabia, Egypt, Syria, and Yemen. Năm 1959 thêm Libya, Morocco, Sudan, và Tunisia. Năm 1961 thêm Kuwait. Tuy thế họ không có tiếng nói mạnh vì thiếu đoàn kết khi hữu sự. Bằng chứng là những gì đã xẩy ra trong cuộc chiến tranh thứ nhất với Israel. Vì thiếu đoàn kết thực sự cho nên họ, gồm 5 nước với ba bốn chục triệu dân, vây đánh Israel, có hơn nửa triệu dân, mà dã bị Israel đánh cho đại bại.

Trước tình trạng ấy, Nasser cố làm hưng phấn tinh thần của người Ả Rập bằng cách chứnh minh sự vượt trội của dân số Ả Rập (khoảng ba bốn chục triệu) và số tín đồ Hồi giáo trên thế giới (lúc đó khoảng 400 triệu), sự quan trọng vị trí bản lề giữa 3 lục địa của vùng Trung Đông, về sự giầu có dầu mỏ của vùng này chiếm 50% trữ lượng của thế giới.

Nasser là nhà nhà lãnh đạo có tài ôm ấp giấc mộng lớn tiếp tục sự nghiệp của Tiên tri Muhammad là thống nhất khối Ả Rập, cầm đầu ‘thế giới thứ ba’, chia thế giới thành thế chân vạc cùng với Liên xô và Hoa Kì.

Để có được đủ uy tín trong bước khởi đầu, Nasser quyết tâm trừ khử cái ung nhọt Israel trước mắt. Con bài ông chơi là gây kình chống nhau giữa Hoa Kì và Liên Xô và gài cho Israel rơi vào cái bẫy của ông ta.

Trước khi Nasser lên cầm quyền, chính sách của Hoa Kì ở Trung Đông rất thành công. Hoa Kì từ chối cung cấp vũ khí cho Israel để lấy lòng khối Ả Rập. Đồng thời Hoa Kì bảo trợ một liên đoàn chống Cộng sản và đã kí kết được hiệp ước Baghdad (the Baghdad Pact) gồm có Thổ Nhĩ Kì, Pakistan, Iraq, Iran, và Anh quốc.

Nasser chẳng những không kí hiệp ước này mà còn thông đồng với Liên Xô để đổi bông vải lấy vũ khí của Tiệp Khắc. Trước mắt thế giới, bây giờ Liên Xô đóng vai bảo vệ chủ nghĩa quốc gia Ả Rập chống lại phương Tây. Chiến tranh lạnh đã lan tới Trung Đông.

Đối với Israel, Nasser khiêu khích bằng cách cho đánh lẻ tẻ quấy phá biên giới, di chuyển xe tăng đại bác vào vùng Sianai. Làm thế để nếu Israel ra tay trước tức là rơi vào cái bẫy của Nasser. Israel sẽ hiện nguyên hình là tên hiếu chiến trước dư luận.

Nasser quốc hữu hóa kênh Suez và cuộc chiến bùng nổ:

Hoa Kì cố gắng chèo kéo Nasser, hứa tài trợ 50 triệu cho công trình xây đập Aswan trên sông Nile. Để gây áp lực, Hoa Kì còn ưng thuận để Pháp bán vũ khí của khối NATO cho Israel. Nhưng Nasser nhất định không ngả theo Hoa Kì,

Hoa Kì phản ứng, rút lại 50 triệu đã hứa vào tháng 7 năm 1956. Nasser trả miếng bằng cách quốc hữu hóa kênh Suez (26 tháng 7 năm 1956), lấy lí do dùng lợi tức từ con kênh để chi cho công trình xây đập Aswan. Quyết định này được khối Ả Rập hoan hô nhiệt liệt. Ông trở thành anh hùng Ả Rập. Việc quốc hữu hóa kênh Suez làm chấn động Tây phương vì con kênh này là huyết lộ chuyên chở dầu lửa và việc thông thương hai thế giới Đông-Tây.

Vụ kênh Suez được đưa ra Hội đồng Bảo an LHQ.

Giữa lúc đang hi vọng có giải pháp cho vấn đề thì lúc 17 giờ ngày 29 tháng 10 năm 1956, quân nhảy dù Israel bất ngờ tấn công trung tâm bán đảo Sinai, rồi chiến xa và bộ binh mở 3 mũi tiến như vũ bão xuống vùng kênh Suez. Ngày hôm sau, như đã mật ước, Anh và Pháp cũng tham chiến. Trước hết họ oanh tạc các mục tiêu quân sự, rồi đưa quân chiếm kênh Suez.

Mặc dù Anh, Pháp và Israel chiếm được các mục tiêu quân sự, nhưng Nasser đã kịp đánh đắm một số tầu để khóa kín kên Suez không cho tầu bè qua lại được nữa.

Liên Xô không đứng nhìn. Họ đe dọa nếu Anh, Pháp và Israel không lui binh họ sẽ can thiệp.

E sợ chiến cuộc lan rộng ra tầm mức thế giới cho nên Hoa Kí án binh bất động.

Nhưng Hoa Kì đủ sức mạnh kinh tế để ép buộc Anh, Pháp phải ngưng bắn vào hồi 24 giờ ngày 06 tháng 11 năm 1956 theo quyết định của LHQ. Đương nhiên Israel cũng phải chấp nhận ngưng chiến.

Hậu quả của cuộc chiến 8 ngày:

Israel mất 180 binh sĩ tử trận, vài trăm bị thương, 1 bị bắt. Số sĩ quan chết nhiều vì họ có truyền thống xung phong hàng đầu.

Phiá Ai Cập vượt quá xa về sự thiệt hại nhân mạng cũng như số tù binh. Nguyên tại trận Oum Shihan, Israel đã bắt giữ 700 tù binh Ai Cập.

Tuy nhiên, thế giới tránh được cuộc đại chiến.

Anh, Pháp phải rút hết quân ra khỏi vùng này. Uy tín của Anh, Pháp suy giảm.

Tinh thần khối Ả Rập lên cao chưa từng có.

LHQ ra lệnh cho Israel triệt thoái về biên giới như cũ.

Liên Xô nghiễm nhiên đóng vai trò quan trọng trong vùng này và được khối Ả Rập trọng vọng. Liên Xô đã dùng viện trợ kinh tế để thu đạt thắng lợi chính trị, còn Hoa Kì lại dùng chính trị để gặt hái quyền lợi kinh tế. Do đó, Hoa Kì đã thua Liên Xô một vố nặng tại Trung Đông vào năm 1956.

Sau này tổng thống Eisenhower đưa ra ‘chủ nghĩa Eisenhower’, và ngày 05 tháng 01 năm 1957 tổng thống xin quốc hội cho phép ông được quyền tự ý chi tới 200 triệu để có thể chi phối vùng Trung Đông cách mau lẹ hơn. Kết quả là Hoa Kì đã mời được quốc vương Saudi Arabia tới Hoa Thịnh Đốn và đã tiếp đón quốc vương long trọng. Từ đó Saudi Arabia và Hoa Kì trở thành thân thiện. Nhưng Ai Cập và Syria dứt khoát tránh xa qũy đạo của Hoa Kì. Nasser còn thuyết phục được Syria chịu gom hai nước lại thành một nước cộng hòa Ả Rập Liên Hiệp do Nasser làm tổng thống, cưụ tổng thống Syria là Sabri El Assali làm phó tổng thống. Tuy nhiên vì sự vụng về của Nasser, cho nên nước cộng hòa liên hiệp này không bền, rồi các nước Jordan, Sudan, Iraq…lơ là dần. Cuối cùng ảnh hưởng của Hoa Kì vẫn duy trì đưọc ở vùng này.

Xét về tương lai, một khi có bàn tay của 2 siêu cường Liên Xô và Hoa Kì (sau này Mao Trạch Đông cũng muốn xía vào) thò vào vùng này, cuộc đối đầu giữa Israel và khối Ả Rập trở thành ngày một phức tạp hơn. Vấn đề Palestine càng không tìm ra được một giải pháp thỏa đáng.