Kỉ niệm về một thời sinh viên
Tùng Linh
« Mong chóng về già để kể chuyện cùng nhau
Về những ngày chúng mình đang sống
Đời sinh viên vui buồn thơ mộng
Ai sống qua rồi chắc dễ gì quên »
(Lê Kim Chung, K13, khoa Pháp, ĐHSPNN HN)
Mới ngày nào chúng tôi đọc những vần thơ này với nhau, thế mà, thời gian thấm thóat thoi đưa, bây giờ « mong ước » đó đã trở thành hiện thực. Chúng tôi, những sinh viên công giáo của những năm 80 thế kỉ trước bây giờ đã trở thành những phụ huynh học sinh sinh viên, một vài bạn dâng mình cho Chúa. Hiện nay chúng tôi sống ở mọi miền Tổ Quốc, mỗi người một hoàn cảnh, một địa vị xã hội khác nhau, nhưng những ngày học đường thuở ấy có lẽ luôn in sâu trong kí ưc mỗi người. Những lời chia sẻ dưới đây không phải là để khoe khoang, nhưng chỉ là những gợi nhớ về một thời học đường « vui, buồn, thơ mộng » của nhóm sinh viên công giáo chúng tôi. Có thể những suy tư này chỉ đúng với chúng tôi, với thời chúng tôi, nhưng dù sao nó cũng là những kỉ niệm để chia sẻ với các bạn.
Phải nói rằng vì nhiều lí do khác nhau, ngày ấy có rẩt ít người công giáo được học đại học. Riêng đối với tôi, bà nội tôi, một người nông dân chất phác, luôn luôn nói với anh em chúng tôi rằng : « các cháu ạ, học ít mà giữ được đức tin thì còn quý hơn là học lên cao mà mất đạo, ‘lợi lãi cả và thế gian mà lỗ vốn mất linh hồn thì được ích gì ?’. Bà nghe nói bây giờ người ta dạy là không có Thiên Chúa, con người bởi vượn mà ra. Rồi người ta nói xấu các cha, cho rằng theo đạo là theo thực dân... ». Lớn lên tôi ngẫm thấy những lời khuyên của bà thật đơn sơ, nhưng chứa đựng một lòng đạo đức bình dân, lòng yêu mến Giáo Hội thâm sâu. Có thể vì thời đó, một phần do đời sống kinh tế qúa khó khăn, vì thời thế, và nhất là vì các bậc cha mẹ muốn con cái mình không bị mất đức tin, nên không cho con cái mình học lên cao.
Ở đại học, chúng tôi âm thầm giữ đạo, nhiều người phải giữ bí mật danh tính công giáo của mình vì những lí do hết sức tế nhị. Thế nhưng, khi biết đươc một bạn nào đó theo đạo thì chúng tôi tìm cách làm quen và vui mừng vô cùng. Cả năm năm học đại học mà chúng tôi chỉ tìm được sáu anh chị em công giáo trong hàng nghìn sinh viên của bốn khoa trong trường. Chúng tôi trở nên một nhóm bạn thân thiết trong học tập, trong việc giữ đạo. Chúng tôi tự hào vì mình là những người công giáo và ai cũng ý thức một điều là chúng tôi phải là những sinh viên gương mẫu trong học tập cũng như trong cuộc sống. Theo chúng tôi đó là cách truyền giáo tốt nhất.trong hoàn cảnh đó. Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa. Chính Chúa mới là Đấng ban Đức Tin cho chúng ta và chúng ta chỉ là những dụng cụ Chúa dùng để loan báo Tin Mừng của Chúa cho người khác, như Mẹ Têrêxa Calcuta đã nói « Tôi chỉ là cây bút chì trong tay Chúa ». Là những người công giáo, nhưng lúc đó do hoàn cảnh các xứ đạo không được tổ chức các lớp học giáo lý như bây giờ, nên chúng tôi không biết nhiều về Kinh Thánh, về thần học, nhưng ai cũng được cha mẹ dạy những lẽ cơ bản để giữ đạo, nhất là tình yêu mến Chúa va Giáo Hội. Hầu như ai trong chúng tôi, tuy không nói ra, nhưng ai cũng yêu quý, trân trọng đức tin, tự hào về đức tin Kitô giáo của mình và mong muốn mọi người chung quanh mình biết Chúa. Chúng tôi nhận ra rằng truyền giáo không chỉ là việc của các giáo sĩ, mà là của mỗi người Kitô giáo, của mọi giới, của mọi thời và có rất nhiều cách truyền giáo. Truyền giáo không hẳn chỉ là những bài giảng thuyết, nhưng còn là cách sống, là những nghĩa cử bác ái, có khi chỉ là một cách bắt tay chân thành, một lời nói đẹp, một cái nhìn thông cảm...Khi những điều bình thường được làm với tình yêu Chúa, với một ý thức, nó sẽ vượt qua ý nghĩa thông thường của nhân bản, của xã giao. Nhưng nói gì thì nói, chúng ta không thể cho người khác cái mà chúng ta không có. Trong môi trường đại học những sinh viên công giáo chúng tôi chỉ là thiễu số. Chúng tôi tự hào vì mình biết Chúa, nhưng chúng tôi không lí tưởng hóa người công giáo, không dám coi tất cả mọi người công giáo là tốt hơn những người khác. Ai trong chúng tôi cũng ý thức rằng người công giáo luôn khiêm nhường nhìn nhận mình là những người tội lỗi, bất toàn, rất cần đến Ơn Chúa và sự cố gắng của cá nhân từng người để « trở nên hoàn thiện như Cha trên trời ». Người công giáo cũng là những con người bình thường như bao người khác, nhưng người công giáo luôn hy vọng vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, Đấng có thể làm cho con người trở nên hoàn thiện trong Ơn Nghĩa của Ngài cộng với sự tự do của con người. Nhìn một cách nào đó, một số người Kitô có thễ không sống tốt hơn những người ngoài Kitô giáo, nhưng giáo lý và luân lý Kitô giáo có những đặc thù vô cùng quý giá, như cách Chúa Giêsu dậy « phải tha thứ không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy » khi có người xúc phạm đến ta, như cách Chúa yêu thương và dậy yêu thương những người tội lỗi, yêu cả kẻ thù v.v.
Một điều mà ai trong chúng tôi bây giờ mới nhận ra là trong điều kiện khó khăn, người ta tránh tụ tập, tránh xưng mình là người có đạo, tránh những cái làm ảnh hưởng đến tương lai của mình, nhưng chúng tôi lại đến với nhau bằng tất cả nhiệt tình tiềm ẩn ý thức truyền giáo mà không hề sợ hãi vì tất cả đều thật vô tư. Ngày ấy, viêc tụ tập sinh viên công giáo là việc hết sức liều lĩnh, nhưng sự nhiệt tình của tuổi trẻ làm cho chúng tôi nhiều khi không để ý đến những chuyện phức tạp khác. Tất nhiên bây giờ nghĩ lại chúng tôi cũng nhận thấy có những việc làm không cần thiết, nhưng những gì làm thuần túy vì Chúa chúng tôi không bao giờ hối tiếc. Nhóm chúng tôi lúc đầu chỉ có 6 người học sư phạm, dần dần chúng tôi làm quen với các bạn sinh viên công gíao học ở các trường đại học khác trong những lần đi lễ và con số của nhóm chúng tôi lên tới mười lăm. Thật lạ lùng, khi biết nhau theo đạo, chúng tôi tin tưởng nhau, trở nên thân thiết với nhau một cách dễ dàng. Dường như có một dấu nào đó Chúa đã in trong tâm hồn những người tin Chúa và phải chăng, dấu đó chính là tình yêu thương ? ( !), điều mà Chúa dậy « Cứ dấu này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ thầy là các con yêu thương nhau ». Về sau này có một nhà báo hỏi tôi « giữa tình đồng hương (cùng quê) và đồng đạo (cùng tôn giáo) thì cái nào quan trọng hơn ? », tôi không ngần ngại trả lời : « tình đồng đạo ». Có thế như vậy là cục bộ và trẻ con, nhưng đúng vậy, ngày ấy những sinh viên công giáo chúng tôi rất ít, nhưng chúng tôi thân thiết với nhau, thương yêu giúp đỡ nhau thật lòng và coi nhau như anh chị em cùng gia đình.
Nhóm chúng tôi bây giờ nhớ về nhau là nhớ về một thời đầy ắp những kỉ niệm. Tôi còn nhớ như in ngày anh chi em Sư Phạm chúng tôi làm quen với ba bạn trường Đại Học Dược Hà Nội là ngày lễ Giáng Sinh năm 1982. Ba bạn Hải, Tiên, Tóan đi đón chúng tôi từ chiều 23. Anh Tiên hì hục nấu cơm nếp để chiêu đãi cả nhóm ăn sau Lễ Nửa Đêm. Năm ấy, sau Thánh Lễ Nửa Đêm tại Nhà thờ Lớn Hà Nôi, trong cái rét căm căm, chúng tôi đã chia sẻ với nhau một cách vui vẻ những nắm cơm nếp do anh Tiên nấu. Đến bây giờ ai cũng nhớ rằng cơm nếp hôm đó rất ngon, mặc dù anh Tiên quên không cho muối ! Một chuyện nữa không thễ nào quên là một anh trong nhóm có người yêu ở quê, hôm đó anh cũng đưa người yêu đi dự lễ với chúng tôi ở Hà Nội, nhưng vì ngượng nên giới thiệu với chúng tôi đó là em gái.
Nói những điều này ra có thể nhiều bạn không tin, nhưng ngày ấy sinh viên chúng tôi sống rất khó khăn : con trai chúng tôi cảm thấy lúc nào cũng bị đói, một người có thể ăn hết ba, bốn suất cơm tập thể mặc dù đó chỉ là những bữa cơm chỉ có « canh toàn quốc, nước mắm đại dương » (canh chỉ có nước và nước mắm rất nhạt), nhưng chúng tôi sống rất đoàn kết và tình nghĩa :
« Dù thời gian năm tháng lùi xa
chẵng thễ nào quên những ngày sức ăn như rồng cuốn
Bữa souper một giờ đêm chưa muộn
Đơn vị đo bằng nồi bảy nồi ba
Ngày ấy chúng mình sống cũng « xa hoa »
Mừng sinh nhật ăn toàn khoai với sắn
Một bữa cháo hành bàn năm bảy bận
gạo ít người đông thêm nước lại đầy » (Lê Kim Chung)
Vì thể, sinh viên Đại Học Sư Phạm chúng tôi thường bị nói đùa là chúng tôi ăn như sư, ở như phạm (nhân). Chúng tôi đã vươt qua những khó khăn vật chất như thế trong suốt năm năm đại học, có điều lạ là ai cũng lạc quan, yêu đời. Tôi nhớ ngày ấy tôi chỉ có một cái áo len mỏng duy nhất để chống chọi với cái rét cắt da cắt thịt của Hà Nội, nhưng không may bị mất trộm trong khi ngủ. Biết chuyện, các bạn đã góp tiền mua len và trong vòng ba ngày hai bạn Thịnh và Thúy Hà quê Hải Phòng đã miệt mài đan cho tôi một cái áo len khác để tôi mặc chống rét. Ngày ấy cả kí túc xá chỉ có một hoăc hai bạn có xe đạp và xe đạp được coi là phương tiện đi lại sang trọng. Thời gian đầu chúng tôi phải đi bộ từ trường Sư Phạm đến Cổ Nhuế để dự thánh lễ. Về sau, các bạn các trường khác như Giao Thông, Y, Dược đã lặn lội sang tận Sư Phạm để đưa chúng tôi đi lễ. Ngày chủ nhật cũng là dịp duy nhất trong tuần để chúng tôi gặp nhau, để trò chuyện, chia sẻ những buồn vui một cách hết sức vô tư trong sáng.
Nhớ về những ngày ấy là nhớ về những chuyến đi về quê nhau. Chúng tôi không thễ nào quên những lần về Hải Phòng, Bắc Ninh, Phát Diệm...Chúng tôi không bao giờ quên những lời giáo huấn của các Đức Cha mà chúng tôi được gặp trong những lần về quê nhau. Ai cũng coi quyễn Kinh Thánh Tân Ứoc mà Đức Cha Nguyễn Tùng Cương tặng hồi đó là báu vật. Ai cũng nhớ bữa cơm thanh đạm mà Đức Cha Bùi Chu Tạo mời ăn cùng với Ngài là một bữa cơm đầy ắp tình thương yêu. Không ai có thễ quên được bài hát mà chúng tôi hát mừng Đức Cha Phạm Đình Tụng nhân ngày lễ thánh Phaolo (25/1/1981) và cũng là dip chuẩn bị đón năm mới :
« Đàn chim ríu rít bay về tổ ấm hưởng nguồn êm ấm
Dặt dìu đi khác chi máu chảy về tim hun nóng thêm tim
Đoàn con hân hoan vui mừng xuân mới cảnh vật phơi phới, chúc mừng năm mới
Cầu cùng Chúa ban cho Đức Cha khỏe hơn, dư đầy Ơn Thánh Thần. »
Ngày ấy một số người trong nhóm chúng tôi là cây văn nghệ của các trương đại học nên chúng tôi hát không kém gì một ca đoàn. Bài hát mà chúng tôi thích nhất thời đó là những bài Tình Yêu Thiên Chúa của Thế Thông - Đình Diễn và bài Con vẫn trông cậy Chúa của Nguyễn Duy. Đi đâu chúng tôi cũng hát những bài này.
Ngày ấy, chắc nhóm Sư Phạm còn nhớ, chúng ta đã chuyền tay nhau để đọc và thậm chí chép tay đễ tăng nhau những cuốn sách đạo đức như « Bánh Sống », « Đường Hy Vọng » của Đức Cha Fx. Nguyễn Văn Thuận, hoặc « Nói với chính mình », những suy niệm và giáo huấn của Đức Cha Bùi Tuần.... Ngày ấy chúng tôi khát đọc sách đạo mà không có. Trên thư viện có duy nhất một tờ báo có dính dáng đến công giáo, nhưng thực tình chúng tôi không thích cho lắm. Một lần tôi mượn tờ báo đó, chị thủ thư hỏi « Em đi đạo à ? », tôi trả lời « vâng ạ » và cho rằng chị ấy thật tò mò, nhưng từ đó chị rất quý tôi. Về sau, khi ra trường rồi tôi mới được biết chị có đạo và là con dâu của ông An, trưởng ca đoàn giáo xứ Nhà Thờ lớn Hà Nội.
Dù thời gian năm tháng lùi xa, nhưng chúng tôi không thể nào quên được những chuỗi « Mân Côi sống » giữa lòng thủ đô trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn như thế. Đó là chúng tôi cam kết với nhau mỗi ngày chúng tôi lần một chục hạt, mỗi người nhận một mầu nhiệm Mân Côi và cứ mỗi tháng lại thay đỗi. Chúng tôi nghĩ hết sức đơn sơ, mỗi ngày nhóm chúng tôi trở thành một chuỗi « Mân Côi sống » để dâng lên Mẹ. Sau nhiều năm ra trường, sau nhiều thăng trầm của cuộc đời mỗi người, một lần tôi gặp lại một anh bạn hiện nay là chuyên viên cao cấp trong một ngành công nghiệp, tôi thực sư xúc động và có phần xâu hỗ với chính mình khi bạn ấy nói với tôi : « Mình vẫn nhớ lần cuối cùng gặp nhau, cậu nhận ngắm thứ năm Năm Sự Vui, còn mình nhận thứ ba Năm Sự Thương. Mình vẫn ngắm hàng ngày và còn ngắm thay cả cho bạn nữa đấy ».
Tôi viết những dòng này khi chúng tôi không còn bên nhau nữa, nhưng khi nhớ về nhau là nhớ về một thời « vui, buồn thơ mộng ». Bây giờ, mỗi người chúng tôi có mỗi cuộc đời khác nhau, những ưu tư khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nhưng những kỉ niệm về nhau, ý thức và niềm tự hào mình là con Chúa, con Giáo Hội vẫn còn đó. Thời gian rồi sẽ qua đi, những buồn vui cũng sẽ qua đi, tất cả rồi cũng sẽ qua đi, phải chăng chỉ có tình yêu xuất phát từ nơi Chúa là mãi mãi còn ? Tự nhiên tôi thấy bài hát của nhac sĩ Xuân Phương thật đúng với tâm trạng của tôi lúc này : « Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy có ước muốn cho thời gian trở lại... ». Chúng tôi đã có một thời như thế và tiếc rằng thời đó không bao giờ trở lại.
Tùng Linh
Tùng Linh
« Mong chóng về già để kể chuyện cùng nhau
Về những ngày chúng mình đang sống
Đời sinh viên vui buồn thơ mộng
Ai sống qua rồi chắc dễ gì quên »
(Lê Kim Chung, K13, khoa Pháp, ĐHSPNN HN)
Mới ngày nào chúng tôi đọc những vần thơ này với nhau, thế mà, thời gian thấm thóat thoi đưa, bây giờ « mong ước » đó đã trở thành hiện thực. Chúng tôi, những sinh viên công giáo của những năm 80 thế kỉ trước bây giờ đã trở thành những phụ huynh học sinh sinh viên, một vài bạn dâng mình cho Chúa. Hiện nay chúng tôi sống ở mọi miền Tổ Quốc, mỗi người một hoàn cảnh, một địa vị xã hội khác nhau, nhưng những ngày học đường thuở ấy có lẽ luôn in sâu trong kí ưc mỗi người. Những lời chia sẻ dưới đây không phải là để khoe khoang, nhưng chỉ là những gợi nhớ về một thời học đường « vui, buồn, thơ mộng » của nhóm sinh viên công giáo chúng tôi. Có thể những suy tư này chỉ đúng với chúng tôi, với thời chúng tôi, nhưng dù sao nó cũng là những kỉ niệm để chia sẻ với các bạn.
![]() |
| Sinh hoạt sinh viên Công Giáo ở Hà Nội |
Ở đại học, chúng tôi âm thầm giữ đạo, nhiều người phải giữ bí mật danh tính công giáo của mình vì những lí do hết sức tế nhị. Thế nhưng, khi biết đươc một bạn nào đó theo đạo thì chúng tôi tìm cách làm quen và vui mừng vô cùng. Cả năm năm học đại học mà chúng tôi chỉ tìm được sáu anh chị em công giáo trong hàng nghìn sinh viên của bốn khoa trong trường. Chúng tôi trở nên một nhóm bạn thân thiết trong học tập, trong việc giữ đạo. Chúng tôi tự hào vì mình là những người công giáo và ai cũng ý thức một điều là chúng tôi phải là những sinh viên gương mẫu trong học tập cũng như trong cuộc sống. Theo chúng tôi đó là cách truyền giáo tốt nhất.trong hoàn cảnh đó. Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa. Chính Chúa mới là Đấng ban Đức Tin cho chúng ta và chúng ta chỉ là những dụng cụ Chúa dùng để loan báo Tin Mừng của Chúa cho người khác, như Mẹ Têrêxa Calcuta đã nói « Tôi chỉ là cây bút chì trong tay Chúa ». Là những người công giáo, nhưng lúc đó do hoàn cảnh các xứ đạo không được tổ chức các lớp học giáo lý như bây giờ, nên chúng tôi không biết nhiều về Kinh Thánh, về thần học, nhưng ai cũng được cha mẹ dạy những lẽ cơ bản để giữ đạo, nhất là tình yêu mến Chúa va Giáo Hội. Hầu như ai trong chúng tôi, tuy không nói ra, nhưng ai cũng yêu quý, trân trọng đức tin, tự hào về đức tin Kitô giáo của mình và mong muốn mọi người chung quanh mình biết Chúa. Chúng tôi nhận ra rằng truyền giáo không chỉ là việc của các giáo sĩ, mà là của mỗi người Kitô giáo, của mọi giới, của mọi thời và có rất nhiều cách truyền giáo. Truyền giáo không hẳn chỉ là những bài giảng thuyết, nhưng còn là cách sống, là những nghĩa cử bác ái, có khi chỉ là một cách bắt tay chân thành, một lời nói đẹp, một cái nhìn thông cảm...Khi những điều bình thường được làm với tình yêu Chúa, với một ý thức, nó sẽ vượt qua ý nghĩa thông thường của nhân bản, của xã giao. Nhưng nói gì thì nói, chúng ta không thể cho người khác cái mà chúng ta không có. Trong môi trường đại học những sinh viên công giáo chúng tôi chỉ là thiễu số. Chúng tôi tự hào vì mình biết Chúa, nhưng chúng tôi không lí tưởng hóa người công giáo, không dám coi tất cả mọi người công giáo là tốt hơn những người khác. Ai trong chúng tôi cũng ý thức rằng người công giáo luôn khiêm nhường nhìn nhận mình là những người tội lỗi, bất toàn, rất cần đến Ơn Chúa và sự cố gắng của cá nhân từng người để « trở nên hoàn thiện như Cha trên trời ». Người công giáo cũng là những con người bình thường như bao người khác, nhưng người công giáo luôn hy vọng vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất, Đấng có thể làm cho con người trở nên hoàn thiện trong Ơn Nghĩa của Ngài cộng với sự tự do của con người. Nhìn một cách nào đó, một số người Kitô có thễ không sống tốt hơn những người ngoài Kitô giáo, nhưng giáo lý và luân lý Kitô giáo có những đặc thù vô cùng quý giá, như cách Chúa Giêsu dậy « phải tha thứ không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy » khi có người xúc phạm đến ta, như cách Chúa yêu thương và dậy yêu thương những người tội lỗi, yêu cả kẻ thù v.v.
Một điều mà ai trong chúng tôi bây giờ mới nhận ra là trong điều kiện khó khăn, người ta tránh tụ tập, tránh xưng mình là người có đạo, tránh những cái làm ảnh hưởng đến tương lai của mình, nhưng chúng tôi lại đến với nhau bằng tất cả nhiệt tình tiềm ẩn ý thức truyền giáo mà không hề sợ hãi vì tất cả đều thật vô tư. Ngày ấy, viêc tụ tập sinh viên công giáo là việc hết sức liều lĩnh, nhưng sự nhiệt tình của tuổi trẻ làm cho chúng tôi nhiều khi không để ý đến những chuyện phức tạp khác. Tất nhiên bây giờ nghĩ lại chúng tôi cũng nhận thấy có những việc làm không cần thiết, nhưng những gì làm thuần túy vì Chúa chúng tôi không bao giờ hối tiếc. Nhóm chúng tôi lúc đầu chỉ có 6 người học sư phạm, dần dần chúng tôi làm quen với các bạn sinh viên công gíao học ở các trường đại học khác trong những lần đi lễ và con số của nhóm chúng tôi lên tới mười lăm. Thật lạ lùng, khi biết nhau theo đạo, chúng tôi tin tưởng nhau, trở nên thân thiết với nhau một cách dễ dàng. Dường như có một dấu nào đó Chúa đã in trong tâm hồn những người tin Chúa và phải chăng, dấu đó chính là tình yêu thương ? ( !), điều mà Chúa dậy « Cứ dấu này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ thầy là các con yêu thương nhau ». Về sau này có một nhà báo hỏi tôi « giữa tình đồng hương (cùng quê) và đồng đạo (cùng tôn giáo) thì cái nào quan trọng hơn ? », tôi không ngần ngại trả lời : « tình đồng đạo ». Có thế như vậy là cục bộ và trẻ con, nhưng đúng vậy, ngày ấy những sinh viên công giáo chúng tôi rất ít, nhưng chúng tôi thân thiết với nhau, thương yêu giúp đỡ nhau thật lòng và coi nhau như anh chị em cùng gia đình.
![]() |
| Sinh hoạt nữ sinh viên Hà Nội |
Nói những điều này ra có thể nhiều bạn không tin, nhưng ngày ấy sinh viên chúng tôi sống rất khó khăn : con trai chúng tôi cảm thấy lúc nào cũng bị đói, một người có thể ăn hết ba, bốn suất cơm tập thể mặc dù đó chỉ là những bữa cơm chỉ có « canh toàn quốc, nước mắm đại dương » (canh chỉ có nước và nước mắm rất nhạt), nhưng chúng tôi sống rất đoàn kết và tình nghĩa :
« Dù thời gian năm tháng lùi xa
chẵng thễ nào quên những ngày sức ăn như rồng cuốn
Bữa souper một giờ đêm chưa muộn
Đơn vị đo bằng nồi bảy nồi ba
Ngày ấy chúng mình sống cũng « xa hoa »
Mừng sinh nhật ăn toàn khoai với sắn
Một bữa cháo hành bàn năm bảy bận
gạo ít người đông thêm nước lại đầy » (Lê Kim Chung)
Vì thể, sinh viên Đại Học Sư Phạm chúng tôi thường bị nói đùa là chúng tôi ăn như sư, ở như phạm (nhân). Chúng tôi đã vươt qua những khó khăn vật chất như thế trong suốt năm năm đại học, có điều lạ là ai cũng lạc quan, yêu đời. Tôi nhớ ngày ấy tôi chỉ có một cái áo len mỏng duy nhất để chống chọi với cái rét cắt da cắt thịt của Hà Nội, nhưng không may bị mất trộm trong khi ngủ. Biết chuyện, các bạn đã góp tiền mua len và trong vòng ba ngày hai bạn Thịnh và Thúy Hà quê Hải Phòng đã miệt mài đan cho tôi một cái áo len khác để tôi mặc chống rét. Ngày ấy cả kí túc xá chỉ có một hoăc hai bạn có xe đạp và xe đạp được coi là phương tiện đi lại sang trọng. Thời gian đầu chúng tôi phải đi bộ từ trường Sư Phạm đến Cổ Nhuế để dự thánh lễ. Về sau, các bạn các trường khác như Giao Thông, Y, Dược đã lặn lội sang tận Sư Phạm để đưa chúng tôi đi lễ. Ngày chủ nhật cũng là dịp duy nhất trong tuần để chúng tôi gặp nhau, để trò chuyện, chia sẻ những buồn vui một cách hết sức vô tư trong sáng.
Nhớ về những ngày ấy là nhớ về những chuyến đi về quê nhau. Chúng tôi không thễ nào quên những lần về Hải Phòng, Bắc Ninh, Phát Diệm...Chúng tôi không bao giờ quên những lời giáo huấn của các Đức Cha mà chúng tôi được gặp trong những lần về quê nhau. Ai cũng coi quyễn Kinh Thánh Tân Ứoc mà Đức Cha Nguyễn Tùng Cương tặng hồi đó là báu vật. Ai cũng nhớ bữa cơm thanh đạm mà Đức Cha Bùi Chu Tạo mời ăn cùng với Ngài là một bữa cơm đầy ắp tình thương yêu. Không ai có thễ quên được bài hát mà chúng tôi hát mừng Đức Cha Phạm Đình Tụng nhân ngày lễ thánh Phaolo (25/1/1981) và cũng là dip chuẩn bị đón năm mới :
« Đàn chim ríu rít bay về tổ ấm hưởng nguồn êm ấm
Dặt dìu đi khác chi máu chảy về tim hun nóng thêm tim
Đoàn con hân hoan vui mừng xuân mới cảnh vật phơi phới, chúc mừng năm mới
Cầu cùng Chúa ban cho Đức Cha khỏe hơn, dư đầy Ơn Thánh Thần. »
Ngày ấy một số người trong nhóm chúng tôi là cây văn nghệ của các trương đại học nên chúng tôi hát không kém gì một ca đoàn. Bài hát mà chúng tôi thích nhất thời đó là những bài Tình Yêu Thiên Chúa của Thế Thông - Đình Diễn và bài Con vẫn trông cậy Chúa của Nguyễn Duy. Đi đâu chúng tôi cũng hát những bài này.
Ngày ấy, chắc nhóm Sư Phạm còn nhớ, chúng ta đã chuyền tay nhau để đọc và thậm chí chép tay đễ tăng nhau những cuốn sách đạo đức như « Bánh Sống », « Đường Hy Vọng » của Đức Cha Fx. Nguyễn Văn Thuận, hoặc « Nói với chính mình », những suy niệm và giáo huấn của Đức Cha Bùi Tuần.... Ngày ấy chúng tôi khát đọc sách đạo mà không có. Trên thư viện có duy nhất một tờ báo có dính dáng đến công giáo, nhưng thực tình chúng tôi không thích cho lắm. Một lần tôi mượn tờ báo đó, chị thủ thư hỏi « Em đi đạo à ? », tôi trả lời « vâng ạ » và cho rằng chị ấy thật tò mò, nhưng từ đó chị rất quý tôi. Về sau, khi ra trường rồi tôi mới được biết chị có đạo và là con dâu của ông An, trưởng ca đoàn giáo xứ Nhà Thờ lớn Hà Nội.
Dù thời gian năm tháng lùi xa, nhưng chúng tôi không thể nào quên được những chuỗi « Mân Côi sống » giữa lòng thủ đô trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn như thế. Đó là chúng tôi cam kết với nhau mỗi ngày chúng tôi lần một chục hạt, mỗi người nhận một mầu nhiệm Mân Côi và cứ mỗi tháng lại thay đỗi. Chúng tôi nghĩ hết sức đơn sơ, mỗi ngày nhóm chúng tôi trở thành một chuỗi « Mân Côi sống » để dâng lên Mẹ. Sau nhiều năm ra trường, sau nhiều thăng trầm của cuộc đời mỗi người, một lần tôi gặp lại một anh bạn hiện nay là chuyên viên cao cấp trong một ngành công nghiệp, tôi thực sư xúc động và có phần xâu hỗ với chính mình khi bạn ấy nói với tôi : « Mình vẫn nhớ lần cuối cùng gặp nhau, cậu nhận ngắm thứ năm Năm Sự Vui, còn mình nhận thứ ba Năm Sự Thương. Mình vẫn ngắm hàng ngày và còn ngắm thay cả cho bạn nữa đấy ».
Tôi viết những dòng này khi chúng tôi không còn bên nhau nữa, nhưng khi nhớ về nhau là nhớ về một thời « vui, buồn thơ mộng ». Bây giờ, mỗi người chúng tôi có mỗi cuộc đời khác nhau, những ưu tư khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nhưng những kỉ niệm về nhau, ý thức và niềm tự hào mình là con Chúa, con Giáo Hội vẫn còn đó. Thời gian rồi sẽ qua đi, những buồn vui cũng sẽ qua đi, tất cả rồi cũng sẽ qua đi, phải chăng chỉ có tình yêu xuất phát từ nơi Chúa là mãi mãi còn ? Tự nhiên tôi thấy bài hát của nhac sĩ Xuân Phương thật đúng với tâm trạng của tôi lúc này : « Nếu có ước muốn trong cuộc đời này, hãy có ước muốn cho thời gian trở lại... ». Chúng tôi đã có một thời như thế và tiếc rằng thời đó không bao giờ trở lại.
Tùng Linh

