Viết Về Cộng Đoàn Công Giáo Của Tôi Trên Đất Hoa Kỳ



Tôi đã định viết bài này từ lâu, vì muốn nói lên những ‘may mắn’ mà vợ chồng tôi, cũng như toàn thể Cộng đoàn đã và đang được hưởng, nhưng cứ ngại bị cho rằng ‘nịnh quá’, hoặc ‘mèo khen mèo dài đuôi’. Đến nay thì thấy rằng không thể nấn ná được nữa vì thời gian cứ trôi qua và những dồn nén trong tôi cứ mỗi ngày một căng hơn, nên đành phải cho chúng bộc phát ra thôi, và cho chúng bộc phát trong dịp Xuân về này để gọi là những lời chúc Tết đến tất cả mọi người trong Cộng đoàn, cũng như trong mọi Cộng đoàn.

Vợ chồng tôi gia nhập Cộng đoàn này cách đây gần mười hai năm, vào một ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi chúng tôi đặt chân đến miền đất này. Đó là ngày Chúa nhật cuối Đông, với những bờ tường tuyết cao cả mét, lốm đốm trắng đen hai bên lề đường. Và chúng tôi chỉ được biết và được trông thấy sự lớn mạnh của Cộng đoàn kể từ ngày đó, cả về lượng và phẩm.

Trước hết, tôi xin được ghi nhận phần lớn mạnh về lượng. Cộng đoàn Công giáo Cincinnati nằm gần miền Bắc của quê hương thứ hai này, tuy khí hậu lạnh giá, nhưng vì đất lành nên vẫn có những con chim giáo dân mới về đây đậu, chứ không dồn hết về phương Nam ấm áp. Khi số giáo dân tăng đương nhiên tăng áp lực về cơ sở vật chất, hay chính xác hơn là cần có chỗ thờ phượng lớn hơn, một nhà thờ lớn hơn. Thực vậy, đó không những là áp lực mà còn là ước vọng của Linh mục Quản nhiệm và của toàn thể Cộng đoàn. Chắc chắn mọi người trong Cộng đoàn đã thật cảm động khi nhớ lại vào ngày nào đó, Linh mục Quản nhiệm đã ‘tâm sự’ với giáo dân chúng ta rằng trong giấc mơ, Ngài đã thấy Mẹ La Vang hiện ra với Ngài và thân thương nói rằng “Mẹ muốn có một ngôi nhà riêng”.

“Một ngôi nhà riêng” cho Mẹ. Ước vọng thật đơn giản như một ngôi nhà riêng cho mỗi giáo dân chúng ta vậy. Mỗi giáo dân trong Cộng đoàn chắc chưa quên được những ngày còn phải đi mướn nơi thờ phượng Chúa và Mẹ Maria. Cái cảnh đi mướn, dù đó là mướn nơi thờ phượng, vẫn có những khó khăn, nếu không muốn nói là gian nan. Rồi Giáng Sinh mỗi năm, rồi kiệu Đức Mẹ mỗi năm, lại phải mướn, hay ngược xuôi xin được sử dụng mặt bằng lớn hơn, vì con cái Chúa và Mẹ đến với Chúa và Mẹ đông hơn, đổ về từ nhiều nơi đông hơn trong những dịp này.

Thế rồi LM quản nhiệm phát động đóng góp để xây nhà thờ, hay mua nhà thờ. Rồi phong trào đóng góp đang lên cao thì tòa Tổng Giám Mục Cincinnati biết được ước vọng của Cộng đoàn giáo dân chúng ta, và đã cho Cộng đoàn ngôi nhà thờ thật nguy nga, mà kể từ đó chúng ta được vinh dự gọi là nhà thờ Đức Mẹ La Vang. Thực ra, chính nhờ cái công khó, cái nỗ lực của nhiều người, từ Cha quản nhiệm đến Hội đồng Mục vụ, kể cả những người tuy không phải là thành viên của HĐMV nhưng đã có những hy sinh âm thầm, khiến ‘đến tai’ tòa Tổng Giám Mục, và Đức Tổng Giám Mục đã có quyết định ưu ái như trên.

Nhận được nhà thờ rồi thì Cộng đoàn phải bắt tay ngay vào việc tu sửa, vì nhà thờ từ lâu đã bị để xuống cấp khá nhiều do một thành phần con cái Chúa (giáo dân Mỹ) vì lý do nào đó đã bỏ ra đi.

Ban bảo trì, cùng với những người tình nguyện (thực ra ban bảo trì cũng là những người tình nguyện), đã làm việc thật hết mình. Khi nhìn những người trẻ này trên những chiếc thang cao, trên mái nhà thờ, cũng như tưởng tượng họ đốn cây để mở rộng bãi đậu xe..., chân tôi muốn run lên, vì ở cái tuổi sắp về với Chúa của tôi, đi đứng còn không muốn vững, nói chi đến chuyện leo trèo. Những người tình nguyện này đã dùng thời giờ quý báu của họ để làm đẹp nhà Chúa, để phục vụ Cộng đoàn, và cụ thể là họ đã biết tính toán, biết dùng sáng kiến của mình, để tiết kiệm tiền bạc lên tới nhiều ngàn đô la cho Cộng đoàn. Thật là đáng quý.

Thế rồi khi chúng ta đi lễ, bước vào nhà thờ, nhìn lên cung thánh, trên các bàn thờ, chúng ta thấy thật trang trọng, thật đẹp, với cách bài trí, với những bông hoa được cắm thật đẹp mắt, sáng tạo, và nghệ thuật, thay đổi tùy theo ngày lễ, tùy theo mùa. Ôi! Những bàn tay khéo léo nào đây?

Rồi khi tiếng ca nhập lễ được cất lên, nhìn về phía ca đoàn, mọi người không khỏi cảm động khi thấy có ca viên đã lên tới chức ‘nội’, hay ‘ngoại’. Người nhạy cảm, người tình cảm dạt dào, có thể cảm thấy mắt mình ươn ướt khi nhìn thấy có ca viên vừa ẵm con, vừa cho bé bú bình sữa, vừa dâng lên Chúa và Mẹ La Vang những lời ca ngọt ngào, thánh thót. Mẹ La Vang, trong chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam, tay bồng Chúa Hài Đồng, đứng trên bàn thờ đối diện ca đoàn, đang nhận nơi các con cái Mẹ những lời ca vinh danh Thiên Chúa, ngợi khen Mẹ. Ôi! Thân thương quá!

Sau lễ, mọi người dồn xuống basement, nơi những thức ăn của mọi miền quê hương thơm phức, nóng hổi, đang chờ đợi. Tuy không có những thức ăn sang trọng, nhưng tô phở Bắc, tô bún bò Huế, tô hủ tiếu miền Nam đủ đem lại cho mọi người những hương vị ba miền quê hương, khiến ít nhất là một lần vào ngày Chúa nhật, chúng ta không những có thể làm ấm cái bao tử với những thức ăn quen thuộc, mà còn có thể cảm thấy bớt đi phần nào cái thiếu thốn tình cảm, cái buồn mênh mang của những kẻ tha phương. Các vị đầu bếp của chúng ta có lẽ không biết, chứ tôi thấy có những người không thuộc Cộng đoàn, không cùng tôn giáo, cũng đến đây vào những ngày Chúa nhật để thưởng thức cái tài nấu nướng của quý vị, vừa ngon vừa rẻ. Món nào cũng ngon, cũng rẻ. Có người đã mua bánh mì để ăn trong tuần. Chính vợ chồng tôi cũng đã mua cơm bì tấm để ăn trong vài ba ngày. Chúng ta phải cám ơn cái tài ‘nêm nếm’ của quý vị. Ngoài việc làm thỏa mãn cái bao tử, quý vị còn đóng góp đáng kể vào ngân quỹ Cộng đoàn. Thật là tiện lợi đôi ba đường!

Cũng chính cái basement này là nơi tổ chức những tiệc cưới, vừa tiện, vừa lợi cho những cặp vợ chồng mới toanh. Lại cũng chính nơi đây vào những dịp lễ tết, mọi người quây quần để làm sống lại phần nào những phong tục tập quán của người Việt chúng ta, và để vơi đi những nỗi nhớ quê hương da diết. Bất cứ ai đã từng coi phong trào ‘văn nghệ quần chúng’ của Cộng đoàn, vì trong những dịp này có nhiều người từ tôn giáo bạn cũng đến chia vui, chia sẻ cái tình cảm quê hương, chắc chắn phải thật cảm động khi thấy ngoài những ‘văn nghệ sĩ quần chúng’ nho nhỏ, còn có cả các vị xồn xồn, có vị đã lên chức nội, hay ngoại, ca múa thật thân thương, diễn xuất thật hay; có những màn cười đến bể bụng. Các vị này đâu phải ham vui; chính cái tinh thần dấn thân đóng góp vì mọi người của quý vị đã làm cho những buổi sinh hoạt thêm sinh động.

Rồi những buổi văn nghệ của giới trẻ, với những bài ca, tiếng nhạc, những bước nhảy nhịp nhàng. Nhìn họ sinh hoạt, ở cái tuổi gần đất xa trời của tôi, tôi vẫn thấy ngứa ngáy cặp giò; nhưng ở cái buổi thiếu thời của tôi, trong hoàn cảnh đất nước quá vất vả, tôi đã phải vừa đi vừa chạy mệt quá rồi, còn hơi sức đâu mà dập dìu, đành ngồi nhìn mà tưởng tượng, mà thèm thuồng thôi.

Ngoài những đóng góp của các ban ngành có tên có tuổi trong Cộng đoàn, còn có những ban không chính thức, hay ‘vô danh’. Ban không chính thức thì phải kể đến ‘ban y tế’, với bác sĩ nhà, với tủ thuốc ‘cứu thương’, với chích ngừa cúm mỗi năm do bác sĩ nhà đảm nhiệm và cúng tiền vào quỹ Cộng đoàn.

Một ban không có tên tuổi chính thức khác là ban vệ sinh với các ‘ban viên’ làm những việc rất khiêm nhường như làm sạch nhà thờ, làm sạch hầu như mọi nơi, kể cả trong hai phòng vệ sinh nam, nữ. Xin ngả nón bái phục.

Ban thông tin báo chí tuy không có tên trong Hội đồng Mục vụ nhưng hoạt động rất đều đặn. Nhờ ban này mà Cộng đoàn có được tí ‘tiếng.. . khá lành, đồn.. . khá xa’ và... coi như không có ‘tiếng.. . không lành’ nên chẳng phải đồn đi đâu cả. Ban này biết tập họp những ngòi viết đủ mọi thành phần, nam có, nữ có, già có, trẻ có, choai choai có, tuy gọi là ‘cây nhà lá vườn’ mà viết lách cũng khá xôm tụ. Quả thực, khi cần thì Cộng đoàn cũng văn nghệ, văn gừng, văn chương, văn chiếc ngon lành, đâu kém thua ai.

Nói đến những đóng góp âm thầm, hy sinh âm thầm, ngoài những lần quyên góp công khai khi Cộng đoàn chúng ta được xin giúp đỡ, tôi nghe nói có những vị vẫn kín đáo đóng góp tiền bạc cho các hội từ thiện ở quê nhà, giúp làm nhẹ bớt phần nào những khổ đau của đồng bào ruột thịt. Cũng có những vị âm thầm giúp đỡ Giáo hội quê nhà, cũng như phụ giúp các chủng viện, hoặc cá nhân các chủng sinh, trong việc đào tạo ra các đấng chăn chiên cho Giáo hội Chúa. Trong những lần quyên góp công khai, có vị không công khai, nghĩa là không khai tên, nhưng đóng góp những số tiền lớn.Việc đóng góp âm thầm thì đương nhiên chúng ta không thể biết được nhưng tôi tin rằng có những vị đóng góp những số tiền không nhỏ. Lại có những vị đang sống chỉ bằng đồng lương hưu khiêm nhường, khi được liên hệ cá nhân, sẵn sàng đóng góp cả tháng lương, hay nửa tháng lương cho những việc liên quan đến Giáo hội quê nhà. Ôi! Thật là cao quý.

Viết về Cộng đoàn mà không viết về các em Thiếu Nhi Thánh Thể thì thật là thiếu sót. Tôi nhớ lại trong buổi lễ làm thủ tục nâng cấp bốn em TNTT, ba gái một trai, lên hàng Trưởng, Cha quản nhiệm đã ngỏ lời nhắn nhủ các em, khen tặng các em thay vì đi chơi, đi shóp pinh, ngay cả đi làm để kiếm tiền tiêu xài, các em đã hy sinh thời gian để hướng dẫn các em nhỏ hơn, những thiên thần nhỏ của chúng ta, của Giáo hội Chúa. Và Cha kết luận rằng: “Vẫn còn những tấm lòng”.

Khi chúng ta nói ‘vẫn còn’ có nghĩa là ‘còn ít’, hoặc ‘chưa hết’. Vậy thì cái vần đề này có thực trong các em dễ thương của chúng ta sao? Tôi nghĩ rằng Cha QN muốn gợi ý với cả người lớn chúng ta chứ không phải chỉ nói riêng với các em thiếu nhi, bởi vì chúng ta chắc đều đồng ý với nhau rằng thiếu nhi như những chiếc măng non, ngây thơ, với tính toàn thiện của con người khi mới sinh ra, và ‘lòng’ của các em vẫn còn đó, vẫn trong sáng. Vậy thì những chiếc măng non này chỉ cần được chăm bón, uốn nắn để chúng trở thành những cây tre mạnh mẽ, đẹp đẽ, có ích cho chính bản thân các em, cho gia đình các em, và góp phần làm đẹp xã hội, làm đẹp Giáo hội Chúa. Các em thiếu nhi cũng vậy, nếu không được săn sóc, hướng dẫn, cái tính toàn thiện của các em có thể bị mất dần đi, cái ‘lòng’ của các em có thể sẽ bị vẩn đục vì những gương không mấy đẹp của xã hội người lớn chung quanh, thậm chí ngay trong gia đình các em.

Trong cuộc sống vội vã của xã hội vật chất hôm nay, vai trò của các anh chị Trưởng thật là cần thiết, quan trọng, và quý hóa. Các anh chị Trưởng đã và đang cho các em sự hướng dẫn mà các em không thể tìm thấy được ở những nơi khác, ngay cả ở trong gia đình và ở học đường. Chúng ta cũng dễ nhận thấy rằng có những anh chị Trưởng đã có gia đình, đã có baby riêng, vậy mà các anh chị vẫn tận tình, thương yêu các em, hướng dẫn các em. Thật là cảm động và sung sướng khi nhìn thấy những chiếc khăn quàng, màu sắc và vằn vạch thay đổi tùy theo cấp bậc, tung tăng nhưng trật tự, sinh hoạt trong nhà thờ chúng ta, cũng như vui tươi sinh hoạt ở sân nhà thờ, ở nhà xứ. Chúng ta chắc chỉ còn biết cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta những anh chị Trưởng biết hy sinh trong việc uốn nắn những ‘thiên thần’ nhỏ này. Và chính các em đã đem lại cho chúng ta một không khí thoải mái hơn, tươi vui hơn.

Còn những hoạt động của các hội đoàn như hội Cao niên, hội Đền tạ, Phong trào Cútsilô, Phong trào Thăng tiến Hôn nhân…. Viết hết thì nhiều lắm nhưng tóm gọn thì tất cả đều hăng say, nhiệt tình. Tất cả đều hướng lên một Cha chung trên Trời. Tất cả đều hướng về một Mẹ La Vang ở miền đất Quảng Trị khô cằn. Mỗi Hội, mỗi Phong trào mỗi vẻ, tuy sinh hoạt riêng nhưng quả thực mười phân vẹn mười.

Có thể còn những việc mà tôi không biết để viết ra đây nhưng tóm lại, chính nhờ ơn Chúa và Mẹ La Vang mà Cộng đoàn này đã duy trì và phát triển được những gì Cộng đoàn đã có trên đây. Tôi tin rằng Cộng đoàn này đã cố gắng sống theo lời Chúa, gắn bó, yêu thương, và quan trọng là nhường nhịn. Tôi cũng tin rằng ‘sống theo lời Chúa, thương yêu nhau, nhường nhịn nhau, bao bọc nhau, giúp đỡ nhau...’ chính là sự đóng góp cao quý nhất vào việc giữ gìn và phát triển Giáo hội Chúa.

Giờ đây tôi cảm thấy nhẹ nhõm vì tâm tư, tình cảm không còn bị dồn nén nữa. Xin Thánh Phêrô nhậm lời báo cáo chân thành của tôi và ghi công cho tất cả mọi người trong Cộng đoàn này. Cũng xin Thánh ‘kiểm tra’ xem dường như Cộng đoàn nào cũng hoạt động tương tự như vậy thôi; điều đó có nghĩa là niềm tin nơi con cái Chúa vẫn không sứt mẻ, dù cho những phong ba bão táp đang dồn dập, đang rình nhận chìm niềm tin ấy xuống đáy biển khơi.

Lạy Chúa! Xin Chúa ban tràn đầy ơn quan phòng cho tất cả chúng con để một ngày nào đó, thánh Phêrô sẽ chờ đón chúng con với chiếc chìa khóa trong tay, vui vẻ mở cửa Thiên đàng cho chúng con bước vào.