LONG THÀNH -- Một buổi chiều những ngày giáp Tết, nhóm Bông Hồng Xanh lại tạm rời xa Sài Gòn đang tất bật chuẩn bị đón Tết, để lên đường đến miền đông Nam bộ, nơi không có con đường đất đỏ như ở Long Khánh mà là vùng đất màu nâu của huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, và sẽ dừng chân ở một điểm có cái tên rất ngọt ngào: xã Cẩm Đường.

Những ngày này, thời giờ quí báu, xe cộ đắt đỏ; chúng tôi được một vị giám đốc cho đi nhờ xe hơi đến tận nơi. Vị này là một thành viên cũ của nhóm Bông Hồng Xanh: đẹp trai, con nhà nghèo, học giỏi. Vào năm 1994, chàng trai trẻ này, nhà theo đạo Phật, học năm I đại học Bách Khoa xin tham gia nhóm để tập tễnh làm công tác xã hội. Càng gặp gỡ người nghèo, cậu ta càng say mê công tác từ thiện. Bây giờ cậu đã trở thành giảng viên trường đại học và thành lập công ty, có dưới tay cả trăm công nhân, thế mà thỉnh thoảng vẫn bỏ công sức tham gia công tác từ thiện với chúng tôi, và vẫn răm rắp nghe theo chị trưởng nhóm.

Ngồi trên xe hơi mới, vừa êm vừa mát, các bạn cứ ngỡ được mình được đi du lịch nên cười nói rôm rả; còn chị trưởng nhóm lim dim đôi mắt chum chím cười vì không phải trả tiền xe.

Vùng Long Thành có nhiều nơi khá giả nhưng xã Cẩm Đường nằm trong vùng kinh tế mới nên còn nghèo. Cùng với năm xã khác có tên là Suối Trầu, Bầu Cạn, Bầu Tre, Suối Quýt, Suối Đục, người dân ở đây chỉ làm rẫy là trồng bắp khoai mì và làm nông trên diện tích đất hẹp. Khoai mì được xắt ra lát, phơi khô rồi đóng vào bao nilon trắng bán cho thương lái. Còn bắp thì cứ lớn là bẻ, chẳng có theo mùa gì cả. Nhưng đất đã bạc màu, cỏ dại thì xanh um còn hoa trái thì hiếm hoi, chỉ có không khí trong lành là đáng giá. Một số người khác thì đi làm mướn loanh quanh trong khu vực. (xã Suối Đục thì toàn là người dân tộc).

Chúng tôi được một người dân dẫn đi thăm và tặng quà Tết các hộ nghèo. Đường rừng nhỏ, gồ ghề khó đi nhưng vẫn cho người ta cảm giác thú vị khi được bao quanh bởi một màu xanh dịu mắt và mùi thơm của cây lá. Sâu tuốt bên trong có một con suối đá đẹp một cách tự nhiên. Có ai rải những cục đá to nhỏ không đều giữa lòng suối? Có ai làm cho tiếng suối bổng hơn hay trầm hơn có được không? Phải chăng thiên nhiên mãi mãi mang một lời nói hùng hồn minh chứng sự hiện diện của Đấng tạo hóa? Những người dân sống ở quanh Suối Đá nghèo và neo đơn quá! Nhờ có những cái ti vi nội địa cũ kỹ nên cuộc sống bớt buồn tẻ. Có gia đình chỉ có hai ông bà già, tháng nào cũng được trợ giúp độ chục ký gạo. Có gia đình kia không có đạo, nuôi cô con gái mười bốn tuổi vừa mù vừa tâm thần, khi kể chuyện chăm sóc con gái, ông bố cứ rơm rớm nước mắt. Đi được độ hai chục hộ thì chúng tôi đổi hướng.

Dạt sang khu vực bên kia rừng, chúng tôi được một ông trưởng ấp dẫn đường lúc trời xẩm tối. Đã qua lâu rồi năm 2000, thế mà nơi đây vẫn còn đốt ngọn đèn dầu vì chưa có điện. Đến nhà một bà cụ, cô con gái kể rằng ba bà già đi đọc kinh tối, bị một xe gắn máy tông, một bà chết, một bà bị thương nhẹ còn mẹ của cô bị thương nặng xém chết. Khi nhận phong bì tiền, bà cảm động nói: “Đáng nhẽ hôm qua tôi được một trăm ngày rồi đấy!” Chúng tôi vừa hết hồn vừa đùa vui: “Vậy chúng con đếm lịch, đúng một năm sau chúng con đến thăm cụ nữa, có được không ạ?”

Ông trưởng ấp kể rằng: “Xây một căn nhà tình thương ở đây trọn gói chỉ có tám triệu đồng (500 USD) nhưng ai được chọn thì như trúng số. Có một bà chờ mãi không được xây, thì ra trong đơn xin bà tên là Trần Thị Hai, mà trong hộ khẩu lại là Đoàn Thị Hai thế là chờ mãi đến…mênh mông tuổi đời! Nhóm cô Loan có “ngon” thì xây cho chỗ này vài căn nhà coi!” Tôi cười đùa: “Dạ, mà xây mỗi cái mấy tầng ạ?” Tất cả chỉ cười.

Buổi tối, chúng tôi ăn cơm cùng với ông trưởng ấp, người dẫn đường và một anh làm việc ở trường khuyết tật. Anh chủ nhà hứng chí đi mua thêm món “nai đồng quê”(thịt chó), món dồi ăn ngon tuyệt, còn món lẩu nóng sốt làm chúng tôi tỉnh táo hẳn lên. Một bạn phát biểu cảm tưởng sau bữa cơm: “Quá đã!”

Sáng hôm sau, chúng tôi chưa ngủ dậy đã có mấy người đến xin quà vì nghe đồn có nhóm từ thiện đến,. Chủ nhà lắc đầu quầy quậy, thế là họ về hết. Tôi trách nhẹ chủ nhà sao lại nỡ làm như thế vì cho ít cho nhiều cũng được mà. Rồi chúng tôi sắp xếp để đến một ngôi nhà khang trang phát quà cho trẻ khuyết tật. Đã ở vùng sâu vùng xa mà còn khuyết tật nữa thì tội nghiệp biết bao! Cha mẹ các cháu có vẻ thích phong bì tiền còn ba cái quà cáp chỉ là phụ. Một người than thở: “Người ta nuôi con còn có hy vọng nhờ vả lúc tuổi già, còn chúng tôi nuôi con như trồng cây khô chẳng bao giờ có hoa có trái!”

Có câu chuyện thế này: Một vị thần xuống trần gian đi tìm hiểu xem những người bất hạnh ngoài việc cần tiền còn có những khát vọng gì. Sau nhiều ngày giả dạng rong ruỗi trên các nẻo đường, vị thần ấy có được kết quả như sau: Mấy cụ già nghèo khổ thì mong được sống lâu; người câm mong được ca hát cho đời vui; người điếc thì muốn nghe những lời chúc mừng tốt lành cho nhau; người mù thì mong nhìn thấy khuôn mặt những người có lòng nhân ái; người tàn tật tay chân thì mong đi nơi này nơi nọ thăm viếng người này, giúp đỡ việc người kia…Thế là vị thần trở về trời tâu với Thượng Đế về nỗi khát vọng của con người. Thượng Đế thương cảm liền ban cho loài người MÙA XUÂN.

Rời vùng rừng miền Đông trở về Sài Gòn khi trời còn nắng, tôi nói với mấy bạn trẻ: “Ai cũng có thể đem đến cho người khác mùa xuân nếu biết chú ý đến khát vọng của họ. Và không phải chỉ có cái Tết dân tộc đến người ta mới thấy bóng dáng xuân; mà mùa xuân lúc nào cũng có trong lòng người nếu biết thực thi đức ái” Một bạn đùa: “Chị đáp lại nỗi khát vọng của chúng em ngay bây giờ đi!” Tôi hỏi: “Khát vọng gì?” “Ăn bún thịt nướng!” Tôi cười: “ Thôi, hết tiền rồi, ăn bún riêu thì được!” Rồi chúng tôi chào nhau trong tiếng cười vì chuyến đi khá thành công, không có gì đáng tiếc.