ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II VỚI GIÁO HỘI VIỆT NAM

Căn cứ vào lịch sử, từ ngày khai sinh, qua nhiều triều đại giáo hoàng, Giáo HộI VN đã được Tòa Thánh quan tâm đặc biệt. Chính nhờ sự nâng đỡ này, mà Giáo Hội VN dù gặp nhiều khó khăn vẫn tiến bước vững chắc và trưởng thành. Trong thời đại chúng ta, có thể nói Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là người quan tâm nhiều hơn đối với Giáo Hội VN và cả đất nước dân tộc VN nữa. Bởi vì chính Ngài xuất thân từ một nước có nhiều nét lịch sử giống VN. Nỗi cảm thông về những đau khổ của Ngài đối với quê hương Ngài đã chia sẻ cho chúng ta.

ĐGH Gioan Phaolô II đã để lại trong tâm trí người tín hữu VN nhiều kỷ niệm tư riêng cũng như tập thể. Không kể hàng giáo sỹ, nhiều giáo dân hân hạnh được Ngài bắt tay, tiếp kiến, hay chụp hình kỷ niệm. Bài này được viết theo tin tức sách vở và báo chí, mà chúng tôi có. Dĩ nhiên không thể viết hết được. Một hồ sơ đầy đủ về ĐGH Gioan Phaolô II đối với VN cần đòi thời gian sưu tầm công phu và hệ thống hơn.

1. THÀNH LẬP HỘI ÐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Sau 1975, lần đầu tiên 33 Giám Mục đã họp tại Hà Nội trong một tuần, từ 24-4 đến 1-5-1980. Đại hội, đã duyệt lại nội qui và đặt lại cơ cấu của HĐGM VN’’. Nội qui dựa theo chỉ thị của công đồng Vatican II qui định trong sắc lệnh Christus Dominus, và theo giáo luật từ điều khoản 447-459. Trong thư chung kết thúc khóa họp, ngày 1-5-1980, có viết về quyết định thành lập HĐGM VN : ‘‘Chúng tôi cũng phải cùng nhau gánh vác trách nhiệm của chức vụ Giám mục trong tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm. Bởi thế việc thành lập HĐGM VN là để phục vụ anh em đắc lực hơn, vì như ý công đồng Vatican II, HĐGM là nơi qui tụ các vị lãnh đạo Giáo Hội trong một quốc gia hay một lãnh thổ để hợp nhất với nhau thi hành mục vụ theo thể cách và phong thức thích hợp với hoàn cảnh’’. (Trần Anh Dũng. Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam. 1960-1995. tr. 277)

Trong huấn từ gặp các GM VN thăm ad limina, ngày 24-11-1990, ĐGH đã nói : nhân tiện đây tôi xin lưu ý về sứ mạng HĐGM, hội đồng có nhiệm vụ giúp anh em củng cố tình đoàn kết của các giáo phận trong những miền khác nhau của đất nước. Cùng nhau anh em có thể nâng đỡ nhau một cách hữu hiệu, để có thể đảm đương hơn trách vụ mục tử của anh em và đối thoại xây dựng với những người lãnh đạo xã hội... Với những bộ phận khác nhau, sẽ giúp anh em định vị trí của GH trong quốc gia một cách rõ rệt hơn. Sự cộng tác tín nhiệm nhau sẽ giúp anh em tạo những điều kiện tốt đẹp hơn để phát triển đời sống nội bộ của GH. Đồng thời để thi hành những dịch vụ mà GH muốn dành cho dân tộc VN. (Sđd. tr. 319)

2. GỬI SỨ ÐIỆP HAY VĂN THƯ

Có thể nói, trong tất cả dịp kỷ niệm lớn nhỏ của Giáo Hội VN, ĐGH đều gửi thư, sứ điệp. Có khi muốn chứng tỏ sự gần gũi hơn, hay đề cử đại diện đem thư qua tận VN.

Trước hết, ngày 10-5-1984, Đức Thánh Cha trong dịp thăm Á Châu (từ 2 đến 12-5-1984), khi bay từ Port Moresby (popouasie) đến Bankok, ĐGH đã gửi một tín thư đến toàn dân VN, với lờI khích lệ và cầu chúc thân tình, được phát triển và đủ điều kiện để tự do triển nở với tất cả những gì tốt đẹp nhất của con người, kể cả những khát vọng về tôn giáo thâm sâu, triển nở trong bầu khí hòa bình với các dân tộc khác, ra sức đạt cho được điều kiện sống thái bình và đúng với phẩm giá. Với người công giáo, ĐTC viết : « Hàng ngày, qua lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, tôi luôn cầu Chúa phù hộ cho anh chị em. Xin Ngài tiếp tục ban cho anh chị em được tràn đầy hy vọng và dồi dào an bình, cũng như được mạnh dạn can đảm trong đức tin. Ước chi trong tinh thần gắn bó với Chúa Kitô và với Giáo Hội của Ngài, mối hiệp nhất kết chặt anh chị em lại chung quanh các Giám mục của anh chị em luôn có được mãi vẹn toàn, không chút rạn nứt. Và tôi cầu xin cho anh chị em luôn có được những điều kiện cụ thể cần thiết đề tuyên xưng và sống lòng tin của mình.» (GXVN, số 05. 6-1984, tr.23 ).

Qua năm sau, ngày 13-12-1985, trong dịp viếng thăm ad limina, ĐHY Trịnh Văn Căn bày tỏ lòng biết ơn về sứ điệp ĐTC gửi qua không phận nói trên :« Nhân dân VN đã cảm động sâu xa vào ngày 10-5-1984, khi ĐTC viếng thăm mục vụ gần VN. Niềm an ủi của người công giáo VN thật lớn lao khi tiếp nhận sứ điệp khích lệ và an ủi của ĐTC.» Cùng triều yết ĐTC có ĐC Huỳnh Đông Các. ĐGH đã đọc diễn từ gửi hàng GM VN. ĐTC vui mừng đã đón tiếp hơn 20 GM đã đến Roma. Ngài kể tên và thăm hỏi từng GM của cả ba miền VN, không qua Roma được. (GXVN. số 22. 3-1985. ttr. 32-35).

. Ngày 24-11-1985, ĐGH đã gửi cho Hàng GMVN sứ điệp nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm VN. Phần đầu sứ điệp, ĐGH nói về công lao của ĐGH Gioan 23 đã có công xây dựng GH VN trưởng thành khi đặt cho hàng GM VN một nền tảng vững chắc với những quyền lợi như sắc chỉ Ad Gentes của Công Đồng Vatican 2 ấn định. Từ đó, « Giáo Hội VN minh chứng mình có bản chất thâm sâu dồi dào và sứ mệnh với toàn thể dân tộc VN. Tôi cảm thấy phấn khởi vì nói lên được những cảm nghĩ của tôi vẫn dành cho các vị chủ chăn và cho đoàn con thân yêu nam nữ VN.» Phần Ngài, Đức Gioan Phaolo 2 nói lên cảm nghĩ của Vị Chủ Chăn và đoàn con yêu dấu VN : «Thực ra, không một ngày nào mà tôi không tưởng nhớ tới quí vị trong lời cầu nguyện, trong tình thương mến và trong sự cảm quí sâu xa...Tôi biết rằng trung thành với Phúc Âm là phải hy sinh chịu khó, sống đời sống Phúc Âm thuần túy gia đình, trong môi trường lao động và trong xã hội là phải có nhiều nghị lực kiên cường... » Lòng quí mến của Ngài rõ nét hơn : «Tôi tận dụng nhiều hoàn cảnh khác nhau để gửi tới dân tộc VN nhiều sứ điệp thăm hỏi và minh chứng dân tộc này vẫn hiện diện trong trái tim tôi. Tôi mong ước chớ gì sẽ có một cơ hội nào được gặp gỡ và quen biết từng người trong giáo đoàn để nói lên lòng quí mến tôi dành cho họ » (DCÂC. Số 45, 1-1986.tr. 17).

. Trong sứ điệp mùa chay, năm 1990 có tựa đề: Một chỗ cho người tỵ nạn. Trước sự đe dọa người tỵ nạn khắp nơi, đặc biệt người VN tại Hong Kong, ĐTC lên tiếng : « Năm nay, tôi muốn đặc biệt đề nghị anh em suy tư về những người di cư tỵ nạn... Không còn tổ quốc, những người tỵ nạn tìm nơi trú ngụ tại những nước khác trên thế giới là căn nhà chung của chúng ta... Đứng trước mức độ rộng lớn và nghiêm trọng của vấn đề này, tất cả mọi thành phần GH phải cảm thấy có liên hệ, trong tư cách mình là môn đệ Chúa Kitô và chứng nhân Phúc Âm. Trong Phúc Âm đọc vào Mùa Chay, Chúa Kitô muốn đồng hóa với mỗi người tỵ nạn ‘‘Ta là kẻ ngoại kiều và các con là kẻ tiếp rước Ta.. Ta là một kẻ ngoại kiều, thế mà các ngươi đã không tiếp rước Ta’’. (x.Mt 25, 35-43). Những lời này của Chúa Kitô phải làm cho chúng ta nghiêm chỉnh xét mình xem chúng ta có thái độ nào đối với ngườI tỵ nạn... Anh chị em hãy dành cho họ một cuộc tiếp đón, giúp đỡ họ được nhập vào trong xã hội dân sự. Hãy tỏ ra có tinh thần quảng đại, cởi mở và niềm nở với họ... (GXVN. Số 63. 4-1990, tr. 12- 13)

. Ngày 25-11-1992, trong triều yết chung thứ Tư hàng tuần, Ngài nói : Cha nhớ đến ĐM La Vang, thuộc giáo phận Huế, ở miền trung VN. Cha phó dâng cộng đồng dân Chúa VN cho thánh Nữ Đồng Trinh, Nữ vương Các Thánh Tử Đạo VN, đã được sùng kính gần 200 năm nay ở nơi này, với niềm mong ước cộng đồng dân Chúa nơi đây sống và lớn lên trong tự do và an bình, để có thể góp phần vào việc xây dựng phồn vinh xã hội và phát triển đất nước (Đức Mẹ La Vang. Lm. Hồng Phúc. tr. 132)

. Ngày 15-8-1993, tại Denver, sau khi bế mạc JMJ lần thứ 8, ĐTC đã gặp gỡ hơn 10.000 giáo dân VN tại hội trường thể thao Mc Nichols. Giới báo chí ghi nhận rằng cộng đồng người Việt là sắc tộc duy nhất được ĐGH tiếp kiến riêng, trong dịp ngài viếng thăm Hoa Kỳ, mặc dầu có 107 nước gửi đại biểu về Denver dự ngày giới trẻ. Điểm này chứng tỏ mối quan tâm đặc biệt của ĐTC đối với cộng đoàn công giáo VN vẫn còn ở trong hoàn cảnh khó khăn, bị hạn chế tự do tại quê nhà. Đoàn người VN đã vỗ tay nhiệt liệt lời chào mở đầu và kết thúc bài diễn văn của ĐTC bằng tiếng Việt. Trong diễn văn chào mừng ĐTC, vị đại diện VN đã nhắc lại ngày tôn phong 117 Thánh Tử Đạo VN đã « làm vang dội niềm hạnh phúc lớn lao và khơi dậy ngọn lửa đức tin và cuộc sống công giáo nồng nhiệt. Cuộc tiếp kiến này cũng nói lên tình yêu vô biên của ĐTC đối với đoàn chiên VN đang ở hoàn cảnh khó khăn... Chúng con tiếp tục cầu nguyện để một ngày kia chúng con được vui mừng theo ĐTC đến thăm quê hương VN yêu quí của chúng con. »

Đáp từ, ĐTC nói đầy thân tình :« Tôi xin biểu lộ tâm tình quí mến chân thành đối với toàn thể dân tộc VN. Tôi ngưỡng mộ lòng can đảm và kiên trì nhờ đó họ đang cố gắng vượt thắng những trở ngại lớn lao do những kinh nghiệm đau thương gây ra. Có lẽ thách đố lớn nhất hiện nay là hàn gắn mọi tâm tình khó chịu hoặc chia rẽ nẩy sinh và lớn lên giữa các công dân của cùng một quốc gia. Quá nhiều đau khổ đã để lại những vết thương sâu đậm. Công trình tái thiết chỉ có thể thực hiện được với sự cộng tác của mỗi người, và đối lại, điều này kêu gọi mọi người phải tôn trọng, tha thứ và đồng ý hướng với nhau. » (GXVN. 97.10-1993, tr. 18)

Cùng dịp này, ĐHY Angelo Sadano, Quốc vụ Khanh Tòa Thánh đang có mặt đã trả lời báo chí về lập trường Tòa Thánh về tự do tôn giáo, như sau : « Khi ĐGH nhắc nhở tự do tôn giáo, ngài không đòi hỏi một đặc ân cho GH CG, nhưng chỉ yêu cầu một điều sơ đẳng mà chính VN đã ký kết trong tất cả các hiệp định quốc tế. Quyền tự do tôn giáo là điều căn bản, nhất là hiến chương LHQ về nhân quyền, và ngày nay là một điều đang tăng trưởng trong ý thức của các dân tộc.» (GXVN. 97, 10-1993, tr. 20).

. Ngày 26-10-1994, tại quảng trường Thánh Phêrô, ĐGH đi qua phái đoàn VN do ĐTGM Nguyễn Văn Thuận hướng dẫn và làm phép pho tượng ĐM La Vang. Trong phần huấn dụ, Ngài âu yếm và nói : « Anh chị em thân mến, tôi cầu nguyện cho GH và cho giang sơn VN thân yêu. Cách đặc biệt, tôi gửi lời chào các linh mục nam nữ tu sỹ và giáo dân đã về Roma để hộI thảo và suy tư về Thần Học và Mục Vụ. Các bạn thân mến, đang khi GH tại VN chuẩn bị mừng 200 năm ĐM hiện ra tại La Vang, tôi kêu mời anh chị em hãy kiên trì đào sâu đức tin, để cùng với các tín hữu công giáo tại quê hương, chuẩn bị một tương lai tươi sáng hơn cho kỷ nguyên các con cháu VN mai sau. Xin ĐM La Vang thương giúp anh chị em và trong cuộc hành trình thiêng liêng qua đức tin, Ngài hướng dẫn toàn dân công giáo đã được cung hiến cho năm 1960 cho Trái Tim Vẹn Sạch của Mẹ.» (Đức Mẹ La Vang. Lm Hồng Phúc, tr. 80)

. Ngày 10-61-1996, ĐHY Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh nhân danh ĐTC gửi điện văn cho đại hội La Vang, có câu : « Nhân dịp đại hội hành hương ba năm một lần tại đền ĐM La Vang, ĐTC chia sẻ niềm vui, hiệp thông lời cầu nguyện của cộng đồng dân chúa tại giáo phận Huế và cả nước VN, chia sẻ niềm vui của các vị chủ chăn, cùng đi với họ tới La Vang tôn kính và ngợi khen Đức Trinh Nữ Mẹ Rất Thánh, Đấng an ủi và nâng đỡ họ trong thờI kỳ gian nan thử thách. ĐTC cũng khuyến khích các tín hữu sống đức tin cách kiên cường và can đảm, trong tinh thần hiệp thông sâu đậm với Giáo Hội. Như thế, các tín hữu sẽ xây dựng GH là thân thể sống động của Chúa Kitô. ĐTC kêu xin sự chuyển cầu của ĐM La Vang, Đấng Bảo Trợ GH VN, đồng thời Ngài mở rộng tay ban phép Lành Tòa Thánh cho các GM, linh mục, nam nữ tu sỹ và toàn thể giáo dân có mặt trong dịp trọng đại này.» (Sđd. tr. 132)

. Ngày 16-12-1997, ĐGH đã gửi sứ điệp nhân dịp kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Vang (1798-1998). ĐTC nhớ đến mọi người VN trong và ngoài nước, khi viết : « Tôi đồng tâm hiệp ý trong lời cầu nguyện với đông đảo khách hành hương về La Vang, và tha thiết khẩn cầu Mẹ Chúa Kitô, Mẹ nhân loại cho toàn thể dân tộc VN, cũng như cho các cộng đoàn kitô hữu người Việt sống ở nước ngoài. Dù sống bất cứ nơi đâu, ước gì họ là những môn đệ của Chúa Kitô, trung thành và quảng đại làm chứng nhân cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa ở giữa anh chị em mình.» (GXVN. số 143, 4-1998, tr. 16)

Được biết, trong cuộc tiếp kiến chung 1-7-1998, ĐGH đã làm phép hai pho tượng ĐM La Vang mới do họa sỹ Văn Nhân thực hiện. Một cho linh đài ĐM La Vang ở Huế, Việt Nam. Một cho đại hội Thánh Mẫu La Vang được tổ chức tại Hoa Kỳ vào 22-8-1998. Ngày 24-2-1998, Thánh tượng ĐM La Vang mới đã được HĐ GM VN chọn và chấp thuận làm mẫu chính thức chung cho các pho tượng ĐM La Vang, và long trọng đặt lên linh đài La Vang kể từ 1-8-1998. (Sđd. tr. 134)

. Ngày 9-8-1999, dịp bế mạc Năm Thánh ĐM và Đại hội hành hương La Vang lần thứ 25, ĐTC gửi thông điệp hiệp thông cầu nguyện và ban phép lành. ĐTC khuyên nhủ : « Khi đến với đền thánh La Vang, trong tâm trí, người hành hương đến để phó thác cho niềm vui, nỗi gian truân, niềm hy vọng và sự đau khổ.» (DCÂC. Số 203. 9-1999, tr. 11) (giaoxuvnparis.org)

(còn tiếp)