SỐNG THÀNH CÔNG
(Bài nói chuyện của LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang với SVCGH dịp bế mạc niên học 2004-2005)
LM Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang đã được thụ phong LM năm 1959, sau đó đã từng giữ các chức vụ: giáo sư TCV Hoan Thiện, giáo sư Trường Thiên Hựu, Bí Thư Toà TGM Huế và quản nhiệm TTTM La Vang 21 năm. Ngài đã tốt nghiệp Đại Học Huế trong thập niên 1960 với văn bằng Cử Nhân Triết Học và Cử Nhân Anh văn. Các tác phẩm giáo dục và tu đức: NÂNG HỒN LÊN CAO (1964), ĐỜI SỐNG VÔ CÙNG QUÝ ĐẸP CỦA NGƯỜI CÓ ĐẠO (1964), GIÁ TRỊ BỤI ĐỜI (1967), VUI SỐNG ĐỂ PHỤNG SỰ (1968), TỰ ĐIỂN CÂU TRUYỆN (1969), TỰ ĐIỂN TƯ TƯỞNG (1969).

Các bạn sinh viên yêu quý,
Cuộc sống sinh viên chỉ là giai đoạn chuẩn bị. Dù rằng "đời sinh viên có nhiều kỉ niệm đẹp", chúng ta không thể nguyện "suốt đời" làm sinh viên! Được làm sinh viên nghĩa là có được cơ may để chuẩn bị cho mình trở thành một bác sĩ, một kỹ sư, một giáo sư, một giám đốc, một nhà khoa học, một nhà tu... Tuy nhiên, cơ may, dù là "tốt nhất", vẫn không đồng nghĩa với thành đạt, thành công. Nhân ngày Bế Giảng của Niên Khoá 04-05, tôi muốn cùng các bạn suy tư về sự thành công hay sự thành đạt của cuộc sống làm người theo quan điểm kitô-giáo, để mỗi chúng ta, ngay từ hôm nay, biết định hướng đúng đắn cho sự nghiệp đời mình.
Làm người, dĩ nhiên, ai cũng muốn sống thành công. Và chắc chắn, thành công nào cũng đòi hỏi phải có đủ tự tin, đủ nghị lực, phải kiên trì cố gắng, phải nỗ lực tìm kiếm, phải có óc sáng tạo, phải can đảm dấn thân, phải hy sinh chịu đựng và ngay cả, nếu cần, phải đạp lên "đầu người khác" để "cướp giựt thời cơ" hay phải kinh qua nhục kế "lòn trôn nếm phẩn" cho người... để chờ đợi thời cơ.

Thế nhưng, chúng ta cần phải tìm hiểu "sống thành công" trong thực chất là gì. Bởi vì, thành công có muôn khuôn mặt của nó và cũng có thể phát xuất từ nhiều động lực khác nhau. Nội dung bài nói chuyện này nằm trong khuôn khổ thần học luân lý đức tin, chứ không phải là một dạng "đắc nhân tâm" thuần nhân bản. Điều chúng ta cần phải nắm bắt là, trong ánh sáng đức tin, thành công là gì. Cụ thể hơn, sống Đức tin và sống thành công có gì mâu thuẩn không? Rất nhiều bạn sinh viên bảo với tôi rằng "hồi nhỏ con có đọc kinh lần hạt, nay làm sinh viên thì không biết kinh kệ và tràng hạt rơi đâu mất từ lúc nào!" Để các bạn có cái nhìn đúng đắn ngay từ đầu, tôi xin nhắc các bạn nhớ lại vài khuôn mặt những con người thành danh trong lãnh vực khoa học, nhưng vẫn trung thành sống Đức Tin như Ampère, Volta, Pasteur. (1)
Giờ đây, chúng ta hãy bắt đầu điểm mặt một số loại thành công giả tạo tiêu biểu và phân tích những động lực sâu xa của chúng, để rồi, từ đó, có thể rút kinh nghiệm và đưa ra một mẫu sống thành công thực sự, phù hợp với quan điểm Kitô-giáo.

I - NHỮNG THÀNH CÔNG GIẢ TẠO

Chúng ta có thể tóm tắt những thành công giả tạo vào bảng liệt kê sau đây.
  • Thành công kiểu "chó ngáp phải ruồi", "chuột sa hũ nếp" như thành công nhờ "học trúng tủ", nhờ "cốp được bài của bạn bên cạnh", nhờ chuyển tài liệu, nhờ "giám thị dễ dãi"..., hay nhờ "người thi hộ"...! (2) Loại thành công này sẽ rất mong manh và tạm bợ, vì bạn sẽ không có đủ khả năng để giữ vững "sự nghiệp" của mình về lâu dài.
  • Thành công nhờ nịnh bợ hay nhờ ô dù, con ông cháu cha rồi cũng sẽ "tan xác pháo" cùng với số phận của thế lực đỡ đầu mình, nhất là khi thế lực đó mang tính vô luân, lừa đảo. Trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình đứng dậy cho ngang tầm với bạn bè quốc tế, chúng ta có quyền hy vọng rồi đây tham nhũng, hối lộ sẽ không còn đất sống!
  • Thành công giai đoạn: Thi đậu. Giựt được một giải quán quân. Được bầu làm hoa hậu của năm. Đó là những thành công. Nhưng nếu ngủ quên trên thành công mang tính giai đoạn này, không biết tự phấn đấu, bồi dưỡng, sửa sai và thăng tiến, những thành công này chắn chắn sẽ là con đường dẫn đến thất bại ê chề hơn.
  • Thành công không toàn diện: Học giỏi nhưng lại mặc cảm về địa vị xã hội; thành công về tiền bạc, sự nghiệp, nhưng thất bại về tình cảm sẽ dẫn đến một cuộc sống cô độc, bị bạn bè tẩy chay, thiếu hạnh phúc...
Như vậy, trong cuộc sống làm người, có thể gặp thấy nhiều dạng thành công giả tạo. Sống tới tuổi sinh viên, nhất là đối với các bạn sinh viên sắp ra trường, chắc ai cũng đã từng chứng kiến hay đã cảm nghiệm một số "dạng thành đạt" nào đó. Trong những năm vừa qua, nhiều đường dây buôn bán ma tuý, buôn lậu hay nhiều vụ tham nhũng hối lộ, lợi dụng chức quyền, thâm lạm công quỷ đã đưa nhiều nhân vật "lớn" vào chốn lao tù. Đầu tháng 7 năm 2003, đường dây thi thuê vào Đại Học của Trịnh Long Hoà đã bị phát hiện tại Tp HCM. VnExpress 22 tháng 06 2003 đưa tin về cô Kim D. sinh 1978, quê ở Thuỵ Khuê, Hà Nội, sinh viên du học năm 3 của một trường Đại Học ở Úc: buồn vì xa nhà và do bị bạn bè rủ rê, Kim D. đã đến với ma tuý và đã bị đuổi về nước trong nhục nhã ê chề. (3) Dư luận những ngày này cũng đang quan tâm đến những mẫu tin thời sự về hiện tượng Karaoke trá hình, thuốc lắc, ăn chơi nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng của một số thanh thiếu niên Hà Nội, trong đó có học sinh và sinh viên còn rất nhỏ tuổi.

Tại sao lại có những chọn lựa nghịch lý và đau đớn ấy? Đâu là những nguyên nhân hay động lực sâu xa đã đưa đẩy họ đi vào những con đường không lối thoát này? Đối với con người là con vật có lý trí, tư tưởng luôn hướng dẫn hành động. Do đó, có thể khẳng định rằng chính quan niệm về con người luôn quyết định hướng đi cho toàn bộ cuộc sống. Các nhà phân tích thường qui lại thành ba nhóm xu hướng chính:

Rõ nét nhất hiện nay là xu hướng duy tự do chỉ muốn nhìn nhận và đánh giá con người qua lăng kính tự do: Họ nhấn mạnh thái quá tính độc lập của cá nhân. Họ tán dương tự do của con người đến độ tuyệt đối hóa nó, xem nó như là chiều kích duy nhất làm nên mọi giá trị nhân bản. Họ coi thường hay chối bỏ mối tương quan giữa con người với vũ trụ, với tha nhân và với TC. Theo họ, điều duy nhất có giá trị là tự do và tự do trở thành quy luật tuyệt đối, không còn luật lệ nào ngoài luật của tự do. Theo Đức cố GH Gioan Phaolô II, điều nguy hại sâu xa là khi không còn công nhận và tôn trọng mối dây cấu thành giữa tự do và sự thật, con người sẽ chỉ còn chọn lấy quan điểm chủ quan, hay thay đổi hoặc thậm chí những lợi lộc ích kỷ, những ý thích thất thường của mình làm tiêu chuẩn duy nhất để hành động chứ không còn căn cứ trên sự thật để biện phân thiện ác nữa. (4) Đối với họ, "sống thành công" hay thành đạt là làm được tất cả những gì mình muốn với bất cứ giá nào và bằng mọi phương tiện. Và như các bạn đã thấy, đích cuối của con đường thành đạt ích kỷ này là khai thác, bóc lột, hưởng thụ tối đa dẫn đến sa đoạ, nghiện ngập, vô luân và ngay cả tù tội.
Tiếp đến là xu hướng duy khoa học. Có thể nói, ba cuộc cách mạng khoa học lớn trong lịch sử nhân loại đã góp phần khai sinh ra xu hướng đề cao khoa học như là chuẩn mực giá trị độc tôn: Cuộc cách mạng vũ trụ học của Copernic đã phá đổ quan niệm cho rằng con người là trung tâm vũ trụ, là hữu thể ưu việt có quyền thống trị toàn thể vũ trụ, khi chợt khám phá ra rằng trái đất, nơi con người sinh sống cũng chỉ là một trong những hành tinh xoay quanh mặt trời chứ không còn là trung tâm vũ trụ nữa. Tới lượt mình, thuyết tiến hoá của Darwin đã phá đổ hoàn toàn ảo tưởng dành cho hữu thể người tính ưu việt so với các sinh vật khác, khi ông chứng minh rằng giữa con người và thiên nhiên vạn vật thực sự có họ hàng huyết tộc thuộc quy trình tiến hóa chung của vũ trụ. Và khi làm sáng tỏ những tiềm thức ẩn dấu nơi tâm thức của con người và khi tìm cách chứng minh rằng, ngay cả trong những gì xem ra thuộc về riêng mình như lãnh vực tâm sinh lý, con người tự bản chất cũng không hơn gì thế giới loài vật, Sigmund FREUD - theo chân Darwin - đã thật sự muốn khai tử "con người có nguồn gốc thần linh" và kéo con người về với cội nguồn thiên nhiên trần trụi của nó. (5)

Chính cái nhìn tục hóa và duy vật này đang biến huyền nhiệm con người trở thành "một sự vật" mà các nhà nghiên cứu khoa học có thể tuỳ tiện "thủ biến" trên bàn mổ hay trong phòng thí nghiệm. Thực vậy, "khi mất ý thức về Thiên Chúa, - Đức Cố GH GP II khẳng định trong Tin Mừng về sự Sống, - thì ý thức về con người cũng bị đe doạ, bị hư hỏng...Con người không còn đạt tới chỗ hiểu được mình là huyền nhiệm khác hẵn những tạo vật khác trên mặt đất này nữa; con người coi mình chỉ là một trong những sinh vật, như một cơ thể cùng lắm là đã đạt được tới chặng hoàn hảo rất cao mà thôi. Bị nhốt trong một chân trời chật chội của thực tại thể chất, một cách nào đó con người sẽ trở nên một "sự vật", không thấu hiểu được tính cách "siêu việt" trong "cuộc sinh tồn của mình với tư cách là người". Con người đã không coi sự sống như hồng ân của TC, như một thực tại "thánh thiêng" được trao cho trách nhiệm của mình và do đó, để mình âu yếm bảo vệ, để mình trân trọng. Sự sống trở nên thuần tuý là "một sự vật" mà con người có thể hoàn toàn làm chủ và định đoạt." (6). Quan điểm duy khoa học này đã tất yếu dẫn đến xu hướng duy thực dụng.

Thực vậy, khi đánh mất chiều kích siêu vượt của con người, xã hội hôm nay quan tâm đến cái "" hơn cái "la", đến chiếm hữu hơn là hiện hữu. Trọng tâm chú ý được chuyển từ giá trị tinh thần của con người đến sản phẩm kinh tế trong chủ trương thực dụng duy lợi nhuận và duy thành đạt. Một số người đã tin rằng sự phát triển kỹ thuật khoa học sẽ giúp giải quyết hết mọi vấn đề của nhân loại. Theo họ, cái có thể về mặt khoa học kỹ thuật đương nhiên là cái được phép trên bình diện luân lý. (7) Trong Tin Mừng về Sự Sống, Đức Cố GP II đã phân tích nguy cơ của quan điểm này như sau: "Sự thiếu vắng ý thức về TC và về con người không thể nào lại không đưa tới chủ nghĩa duy vật thực dụng, khiến cho chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy ích và chủ nghĩa khoái lạc lan rộng... Mục đích duy nhất đáng kể bây giờ chỉ còn là đi tìm tiện nghi vật chất cho riêng mình. Cái gọi là "phẩm chất cuộc sống" chỉ còn được hiểu thiết yếu là hiệu quả kinh tế, tiêu thụ, phóng túng, sắc đẹp, hưởng thụ đời sống thể lý, mà quên mất những chiều kích sâu xa của cuộc sinh tồn, của những lãnh vực tương giao, tinh thần và tôn giáo."(8)
Thành công hay thành đạt theo quan điểm thực dụng này là chiếm hữu thật nhiều, tích luỷ thật nhiều, hưởng thụ thật nhiều. Và lời quả quyết của Dante thật chí lý: "Kẻ nào tin rằng tiền bạc làm được mọi sự thì kẻ ấy dám làm mọi sự để có tiền bạc."

II - SỐNG THÀNH CÔNG THEO QUAN ĐIỂM KITÔ-GIÁO

1 - Sống thành công là hoàn thiện bản thân đúng thánh Ý TC

TC, Đấng Càn Khôn, đã dựng nên và cai quản, quan phòng mọi sự tốt đẹp cho mọi loài. Thánh ý Ngài, vì thế, chính là mẫu mực tuyệt hảo hướng dẫn mọi thụ tạo. Thành công hay thành đạt của mỗi thụ tạo là thể hiện cách đúng đắn và trọn vẹn chủ đích đã được Đấng Tạo Hoá đặt định trong bản tính của nó. Vì thế, theo quan điểm kitô-giáo, sống thành công thực sự đối với con người có nghĩa là hoàn thiện bản thân, là đạt đến cứu cánh tối hậu của mình. Sự định hướng này không là một áp đặt từ bên ngoài, nhưng đã được khắc ghi nơi bản tính con người như một năng động nội tại: Vì đã được dựng nên giống hình ảnh TC và đã được tái sinh thành thụ tạo mới trong ĐGK phục sinh, con người có khả năng sống -capax Dei- và phải sống đúng tư cách "con cái TC". Như vậy, đối với con người, luật luân lý xuất hiện như một định hướng nội tại và năng động, cao vượt trên các định luật vật lý hay sinh lý. Khác biệt sâu xa giữa các thụ tạo có lý trí và không có lý trí là tính cách tự do trong việc thi hành "luật": Nhờ bản năng, loài vật vô tri luôn tuân theo luật đã được ghi khắc nơi bản tính của chúng. Con người thì có thể tự do chọn thực thi hay chối từ thực thi các ràng buộc luân lý, dù chúng rất cần thiết cho con người đạt tới sự hoàn thiện và viên mãn. Vì thế, cái giá đắt phải trả cho sự chối từ không tuân giữ lề luật là sự thoái hoá của bản thân.

Công đồng Vat. II đã dành nguyên một chương của Hiến chế về Giáo Hội để nhắc nhở rằng "mọi người đều được kêu gọi nên thánh"(9) v quả quyết: "Một điều hiển nhiên đối với hết mọi người là mọi tín hữu của ĐK, bất luận thuộc hàng ngũ và bậc sống nào, đều được mời gọi đạt tới mức viên mãn của đời sống Kitô-hữu và đạt tới mức hoàn hảo của Đức ái" (GH 40). Như vậy, sống thành công thực sự, đối với người kitô-hữu, là "sống thánh". Nhưng đừng lầm tưởng "nên thánh" là một dạng "cầu toàn", chuyên lo tuân giữ đúng luật lệ hay tránh gây phiền hà cho người chung quanh. Nên thánh kiểu đó rất dễ trở thành "giả hình". Quan điểm sai lầm này cũng có thể phát sinh từ những chuyện thánh được viết theo xu hướng lý tưởng hoá theo kiểu bình dân, khiến có người nghĩ rằng nên thánh là sống rập khuôn theo mẫu vị thánh này hay vị thánh nọ. Trên thực tế, con đường nên thánh phải khởi phát từ chính thân phận chân thật của mỗi người. Theo đuổi sự thánh thiện là một tiến trình biện chứng giữa lý tưởng và thực tế: "Mỗi người phải nên hoàn thiện, không phải bằng cách thực hiện một tiêu chuẩn hoàn thiện như nhau trong đời sống của mình, mà bằng cách đáp lại tiếng gọi và tình yêu mà TC đã bày tỏ cho mỗi người trong giới hạn và hoàn cảnh của ơn gọi riêng của mình"(10) nhiên, ai cũng được kêu gọi phụng sự TC trong khuôn khổ định mệnh chung của nhân loại, nhưng mỗi người sẽ thực hiện sứ mạng ấy theo ơn gọi riêng và trong những điều kiện của riêng mình.

Xác quyết thuộc lãnh vực đức tin này không đi ngược với quan điểm nhân bản về thành công thực sự. Chuẩn bị vào đời, nhiều người lầm tưởng rằng mình chỉ cần học giỏi, có chuyên môn cao, có tay nghề vững. Nhưng rồi, khi vào cuộc, họ sớm chuốc lấy thất bại, do họ không chuẩn bị cho mình đủ hành trang đạo đức: những người chung quanh không còn tin tưởng họ, khách hàng bỏ rơi họ, vì thấy họ tuy giỏi trong chuyên môn, nhưng bê trễ và thiếu đạo đức trong công việc, nhiều lần thất lời hứa, nói nhiều làm ít hay có một đời sống thiếu luân thường đạo lý. Một giám đốc kia, để chọn đưa một kỹ sư đáng tin cậy vào một vị trí then chốt trong hãng của mình, đã chỉ yêu cầu trả lời hai câu hỏi: "Trong hai năm gần đây, anh đã sống thế nào?" - "Trong hai năm gần đây, anh đã đọc những sách báo nào?" Ông giám đốc nầy không chỉ muốn tìm một người có chuyên môn kỹ thuật cao, nhưng còn muốn tìm được một con người có lương tâm, có tư cách đúng đắn, có đức tính tốt để phục vụ xã hội.

2 - Chúa Giêsu, mẫu gương thành công tuyệt đối

Chắc chắn, không ai hấp dẫn bằng Chúa Giêsu. Ngài là nhân vật lịch sử được nhiều người yêu mến nhất. Suốt hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn lôi cuốn đến với mình hằng triệu triệu người trên khắp mặt đất, thuộc đủ mọi quốc gia, dân tộc, văn hóa, hạng tuổi, điều kiện xã hội. Mặc dù đã không bao giờ thấy Ngài, nhưng nhiều người đã yêu Ngài và sẳn sàng tin theo Ngài đến chết cũng như sẳn sàng chết để đáp trả Tình Yêu cao cả của Ngài.

Chúa Giêsu là con người rất yêu đời. Đối với thiên nhiên, đối với thú vật, Chúa Giêsu nuôi một mối thiện cảm đậm đà. Ngài thích nghe tiếng chim hót, thích ngắm hoa đồng nội, thích trời cao biển rộng, thích cầu nguyện nơi rừng vắng, giữa đêm khuya...

Chúa Giêsu là một con người rất phong phú về tình cảm. Tình cảm của Ngài cao đẹp, nồng nàn và mãnh liệt. Ngài dành cho Mẹ Maria, cho Cha Giuse tất cả những tình cảm quý báu nhất. Ngài tận tâm săn sóc các môn đệ của mình, không bỏ rơi một ai. Điều nỗi bật trong Tin Mừng là Ngài yêu thương trân trọng mọi người và tin tưởng mọi người, dù họ là kẻ mù loà, phung hủi, Biệt phái hay thu thuế, tội lỗi. Ngài tặng rượu cho đôi tân hôn nơi tiệc cưới Cana. Ngài khóc với bà goá thành Naim và khóc thương Ladarô, người bạn yêu dấu.

Để thành đạt trong Sứ Vụ cứu độ, Chúa Giêsu đã phải nếm trãi mọi nổi đau của nhân loại. Ngài đón nhận mọi cực nhọc, túng thiếu trong thân xác và mọi đau khổ ê chề trong tâm hồn. Sống màn trời chiếu đất. Chết trần truồng trên thập giá, không có nấm mồ chôn. Thế nhưng, Ngài rất can đảm, có lập trường vững vàng, không lay chuyển, làm cho chúng ta phải cúi đầu khâm phục. Ngài luôn bênh vực kẻ yếu hèn, cô thế, sa đọa và thẳng thừng lên án những kẻ lạm dụng Đền Thờ, những kẻ làm gương xấu, những hạng đạo đức giả, những kẻ kiêu căng, dù họ là ai và dù họ ở địa vị nào. Ngài không phải là người của cơ hội: khi dân chúng muốn tôn vinh Ngài lên làm vua, Ngài đã lẫn tránh, không chụp giựt cơ hội, không mưu tìm thành công cho riêng mình, mà chỉ tìm vinh danh TC Cha.

Một trong những nét đặc thù của Kitô-giáo là giới răn "Hãy theo Thầy". Nhờ chiến thắng tội lỗi bằng cái chết thập giá và sự sống lại, ĐGK loan báo cho mọi người khả năng thực hiện vận mạng của mình cách hoàn hảo, trọn vẹn, tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Tin mừng ĐGK là một lời mời gọi khẩn thiết mang tính cách hiện sinh. Đây không phải là một lời mời gọi suông, nhưng đòi buộc mỗi người đáp lại bằng một cuộc biến đổi đời sống tận gốc rễ, bằng một sự hoán cải thường xuyên được thể hiện qua cố gắng từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những gì đi ngược lại với sự sống mới, từ bỏ những gắn bó hỗn loạn với của cải vật chất hay với chính bản thân, như lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tấm thân, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa, cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo (Rm 12, 2).

Những bài suy niệm trước đây về Ba Vua chắc hẳn đã giúp các bạn nuôi lớn niềm khao khát muốn tìm về "gặp gỡ Đức Kitô" để biến đổi và hoàn thiện cuộc đời mình.

LỜI KẾT
Trong một cuộc Bắt Đạo, trước khi ra lệnh tra khảo và xử tử một thanh niên công giáo, vị quan tòa dụ dỗ: - "Bỏ Đạo đi, ta sẽ cho một nén vàng!" - "Bẩm quan, ít quá!" - "Thế mấy nén vàng mới đủ?" - "Bẩm quan, hãy cho tôi đủ nén vàng để mua lại một cuộc đời tốt đẹp khác. Mà cuộc đời tốt đẹp của tôi theo Chúa, theo Đạo, là vô giá!”
Các bạn sinh viên yêu quý, các bạn hãy luôn ghi nhớ rằng đời sống của các bạn, đặc biệt, đời sống được Chúa thương cho nhận biết Chúa, yêu Chúa, phụng sự Chúa là vô giá, vì đây là hồng ân lớn lao nhất, tốt đẹp nhất, mà Chúa ban cho các bạn chỉ một lần duy nhất trên đời: mỗi người chúng ta chỉ được Chúa cho sống một lần mà thôi. Chúng ta không thể nào bán "nó" đi để mua lại một đời sống khác. Không ai trong chúng ta có thể sống lại, để lại sống một cuộc đời thứ hai trên mặt đất nầy. Có thể nói, ngày nào chúng ta không nỗ lực sống tốt hơn, ích lợi hơn, thanh cao hơn, thánh thiện hơn, ngày đó, chúng ta sống cũng như chết. Các bạn sinh viên yêu quí, xin các bạn đừng tự chôn sống bản thân!
Nhìn chung quanh, chúng ta thấy không thiếu những người đang sống một cuộc đời vô định, vất vưởng. Vì thiếu lý tưởng, thiếu lẽ sống bền vững, nên cuộc sống làm người đối với họ là một gánh nặng buồn thảm, chứ không phải là một niềm vui bất tận, một cuộc phiêu lưu đầy kỳ thú. Nếu chúng ta làm hư hỏng đời mình, chúng ta sẽ làm cho đời mình mãi mãi hư hỏng. Nếu hiện nay chúng ta làm đẹp đời mình, chúng ta sẽ làm đẹp nó đời đời. Bởi đó, điều cần phải quan tâm hết sức là làm sao cho cuộc sống chúng ta trở nên tốt đẹp như một bài ca hùng tráng, một bài thơ tuyệt diệu, một tác phẩm hấp dẫn. Chúng ta hãy nỗ lực làm cho cuộc đời chúng ta có đầy đủ ý nghĩa.
Xin các bạn đừng sợ, vì các bạn có mẫu gương thành công tuyệt đối là ĐGK và luôn có Mẹ Giáo Hội hằng yêu thương hướng dẫn. Các bạn hãy tự tin, hãy luôn hăng hái vươn tới, tiến lên.

Một vị tướng thắng trận kia kể rằng: "Cánh quân bên hữu tôi đã bị đánh bật rồi. Cánh quân bên tả của tôi đã phải rút lui. Tôi chỉ còn lại cánh quân ở giữa. Tôi dùng cánh quân ở giữa nầy để tấn công. Tôi tấn công, và tôi thắng trận."

Các bạn cũng vậy. Đừng bao giờ thất vọng. Đừng bao giờ rút lui. Đừng bao giờ đầu hàng. Các bạn hãy tấn công tội lỗi, tấn công trụy lạc, tấn công biếng nhác, tấn công sự sợ dư luận, tấn công các cơn cám dỗ, tấn công các nghiêng chiều tình dục, tấn công các bạn bè xấu, các hoàn cảnh xấu,. ... Cánh quân bên hữu của các bạn có thể đã bị tan rã. Cánh quân bên tả của các bạn đã có thể bị hỗn loạn. Nhưng các bạn vẫn còn cánh quân chủ lực ở giữa: đó là tuổi trẻ, lòng tự tin của các bạn; đó là đức tin mạnh mẽ, lòng đạo đức sốt sắng; đó là lòng yêu mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria; đó là sự nâng đỡ của ân sủng và của Mẹ Giáo-Hội. Hãy tin vào sức mạnh của cánh quân chủ lực này để chiến đấu, để sống, để làm đẹp đời mình, để vươn lên và các bạn sẽ thắng trận, sẽ thành công tốt đẹp.

Để kết thúc, tôi xin tặng các bạn một bài thơ và một bài hát mà tôi đã sáng tác những năm đầu của thập niên 1960 để thúc giục các bạn trẻ vươn tới thành công chính đáng.

Bài Ta Ca
Cười lên! Hát lên!
Bạn và tôi trên đường dài nhân loại,
Tay nắm tay cùng ca!
Bài ta ca, ta ca lúc trời mai êm dịu,
khi vừng đông vừa chiếu.
Bài ta ca, ta ca khi đêm về lặng lẽ khiến ta buồn
Nhưng giọng ta vẫn vang lên lanh lãnh.
Bài ta ca, Ta ca khi đời ta xuôi đẹp,
Ta ca khi cố gắng đè vai làm thân ta ngã quỵ,
Và khi những đau xót của cuộc đời làm lời ta nghẹn ứa.
Nhưng miệng vẫn cười, môi vẫn hát
Và lòng vẫn mở ra để dâng lên Chúa bài ca:
Bài ca của chính cuộc đời ta.

(Mỹ Á, Thừa Thiên - Huế, Sinh Nhựt 1963)

Bài hát

Người Anh Hào của Thiên Chúa
Đường trường mờ xa, chân trời còn đen tối bao la.
Ra đi cùng nhau hát vang cho lòng tươi thắm, đắm say,
Cho mối tình ta thiết tha chan hoà trong tiếng vui ca.
Đời người vui khi luôn hy sinh quên mình.
Phụng sự cho TC uy quyền chí linh.
Trời lòng ta, xinh đẹp như vầng trăng tròn xinh,
Vì đời ta lao mình trên ngàn muôn vì sao
Mà cùng đi gieo rắc Tình Yêu.
Dù ngàn nguy sẳn chờ đón đoàn ta đường xa
Nào ngại chi khi đoàn ta cùng chung tình yêu
Một tình yêu Thiên Chúa muôn đời.
Mau lên đường, vui đi xông pha, xông pha.
Mau lên đường, vang lên câu ca, câu ca.
Nguyện thề chiến đấu cho khắp trời Việt Nam
Biết tin yêu thờ Chúa, Vua Trời đáng yêu.
Hôm nao đoàn ta đi xôn xao, xôn xao.
Luôn tươi cười trên bao gian lao gian lao.
Một lòng quyết tiến, luôn trung thành Tình Yêu.
Ánh sao trời đẹp chiếu Người Anh Hào.

(Phủ Cam, 1961)
___________
Chú thích :
(1) Ampère, nhà vật lý điện học danh tiếng vang lừng klhắp thế giới, chiều nào cũng đến Nhà Thờ Đức Bà ở Paris để quỳ lần hột trước Mình Thánh Chúa. Một sinh viên kia chống đối đức tin, tuyên bố những điều nghịch đạo. Khi nhìn thấy nhà khoa học danh tiếng Ampère nầy quỳ cầu nguyện và lần hột trong nhà thờ, anh ta cứng họng, khiếp đảm và không còn dám tuyên bố điều gì nghịch đạo nữa. Khi nằm trên giường bệnh gần chết, Ampère được một nữ tu đọc cho nghe một đoạn sách Gương-Phước. Ông thú thật với nữ tu nầy : " Thưa chị, tôi đã thuộc lòng cả cuốn sách Gương-Phước nầy rồi”. Alessandro Volta là nhà vật lý danh tiếng phát minh ra " pin ”. Khi nghe có bạn khoa-học-gia của mình hổ nghi về sự " có Chúa ”, ông liền mạnh mẽ nói : " Khoa học chỉ làm cho tôi thấy Chúa hiện diện khắp nơi. Nguyên Nhân tiên khởi, Đấng Ra Luật không sai lầm, Đấng Tạo Hóa, Lý Do cuối cùng của tất cả : đó là CHÚA. ” Ông rất thích dạy giáo lý cho trẻ em. Tại nhà thờ Cômô, ở bắc nuớc Itali-a, nơi sinh quán của ông, có bia ghi : " Nơi đây, Alessandro Volta đã được rửa tội và đã từng đứng đây để dạy giáo lý ”. Louis Pasteur: Trên tuyến xe lửa tiến về Paris, người thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ lần hạt,chìm đắm trong sự cầu nguyện. Ngưòi sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không còn đủ kiên nhẫn, anh ta mới lên tiếng: “Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?” Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?”. Người sinh viên cười ngạo mạn quả quyết: “Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao mà tôi có thể tin vào những chuyện ấy được. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đền giờ đều là mê tín dị đoan.” Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên: “Cậu vừa nói về những khám phá mơí của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều này không?” Người thanh niên hăng hái đề nghị: “Ông cứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi đến cho ông các cuốn sách. Ông sẽ mê say đi vào thế giới phong phú của khoa học.” Cụ già từ từ lấy trong túi áo ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy, có ghi: “Louis Pasteur, Viện nghiên cứu khoa học Paris.”

(2) 30 tri?u d?ng d? thu ngu?i thi vo d?i h?c (vnExpress 01-07-2003) ? TP HCM dang xu?t hi?n du?ng dy thu ngu?i thi vo d?i h?c. Ngu?i thi thu (g) thu?ng l sinh vin, h?c sinh, du?c tuy?n ch?n k? cng. Ti?n cơng m?i d?t l 10-15 tri?u d?ng, tru?ng no khĩ thì du?c tr? t?i 30 tri?u. M?i th? t?c s? du?c lm gi? hồn tồn, t? b?ng t?t nghi?p THPT d?n gi?y ch?ng minh nhn dn. T? vi?c san "g" d?n lin h? tìm khch d?u ph?i qua tay "trm" Tr?nh Long Hồ. Nhn v?t ny kho?ng 30 tu?i, nĩi gi?ng mi?n Trung, nu?c da ngam den, d?m ngu?i v t? xung d t?t nghi?p ngnh hố ÐH Bch Khoa (ÐH QG TP HCM), nh ? Bình Hung Hồ, Bình Chnh, TP HCM... Khi cĩ k?t qu? d?u, ti?n s? du?c dua tru?c m?t n?a, v khi “d?a nh?” nh?p h?c, ngu?i thi thu s? du?c nh?n n?t s? ti?n cịn l?i...Sau m?i k? thi, doanh thu c?a "tay trm" cĩ th? ln d?n hon 1 t? d?ng.

(3) Nh?ng cơ gi '3 trong 1' (H?ng Khnh - vnExpress 22-06-2003).

(4) Xem GIOAN PHAOLÔ, Tin Mừng về Sự Sống, số 19-20

(5) Xem S. FREUD, Eine Schwierrigkeit der Psychoanalyse (1917), in Gesamelte Werke, vol. 12, London 1947, tr. 410.

(6) P II, TMSS 22.

(7)Xem H. D. AIKEN, Life and the right to life, trong B. HOLTON and AL. EDS., Ethical Issues in human Genetics, New York 1973, tr. 183.

(8) P II, TMSS 23.

(9) xem GH, các số 39-42

(10)THOMAS MERTON, Life and Holiness, New York, Herder and Herder, 1963, p. 13.