Nhân phẩm con người và đặc tính của nền văn hóa Á Châu (Phần Cuối)

2.3.2. Một dòng chú thích cẩn trọng

Thật là khiêm tốn khi phải nhớ lại hết rằng hầu hết những chương trình được hoạch định kỹ càng bởi những nhà truyền giáo mới, thì chẳng có chương trình nào là hoạt động hữu hiệu như mong muốn cả. Hệ thống giáo dục chẳng mang lại kết quả “như đã hứa hẹn,” nhưng lại còn phân tán xã hội. Giáo dục, đối với Giáo Hội, là một yếu tố cơ bản, vì nó đặt trọng tâm vào việc truyền thông về các vấn đề theo quan điểm tổng quát chung của thế giới; cũng như các giá trị được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, những giá trị nền tảng được ghi khắc sâu trong nền văn hóa Kitô giáo như: đời sống, cái chết, và sự phục sinh của Chúa Giêsu Nazarét; cũng như cảm nghiệm về sự Hiện Thân-Phục Sinh-Lễ Gặt. Do đó, có một nhu cầu cấp thiết đối với các Giáo Hội để cùng trao đổi những kinh nghiệm đã lĩnh hội được qua việc giáo dục theo từng hoàn cảnh cụ thể riêng giữa các dân tộc bản xứ, và nhất là đối với những cộng đoàn tu dòng nào, đã từng đi tiên phong trong lãnh vực giáo dục, để nhận lãnh “sứ vụ không thể hoàn thành được” này.

Về khía cạnh mục vụ mà nói, chúng ta đã xây dựng nên những giáo xứ và các địa phận theo lối phong tục tập quán nơi các dân tộc bản xứ. Một thế kỷ sau, phần lớn những cấu trúc của Giáo Hội được ủng hộ về mặt tài chánh lẫn nhân sự đến từ bên ngoài. Glen Lewandowski, OSC đã đưa ra đề nghị rằng nên đặt một khẩu hiệu giống như kiểu Dante bên ngoài những cuộc họp của các dân tộc bản xứ như: “Hãy từ bỏ mọi hy vọng, hỡi những ai đến đây!” Và Thiên Chúa đã và đang dùng những con người phần nào thô lỗ, và thậm chí có lẽ là hung dữ này thành những ngôn ngữ văn hóa của thiên niên kỷ này; đó là một ngôn từ mà nững người Kitô giáo không phải gốc bản xứ ngày nay cần phải biết lắng nghe. Chúng ta cần phải phân biệt giữa đức tin và tôn giáo; giữa đức tin Kitô giáo và cách biểu hiện về tôn giáo theo kiểu Tây Phương. Tất cả mọi niềm tin đều được mạc khải lẫn bị xuyên tạc thông qua sự hoán chuyển của nền văn hóa, tuy nhiên “ánh sáng chiếu rọi tối tăm, và tối tăm không thể chế ngự được ánh sáng... ánh sáng thật để khai mở lòng trí mọi người, hướng họ vào thế giới.” (Sách Gioan, chương 1, từ câu 5 đến câu 9). Tất cả cuộc đối thoại thành thật và kiên nhẫn nào giữa đức tin vào Chúa Kitô và đức tin vào Thần Linh của các dân tộc bản xứ, bao gồm cả những ai đã được rửa tội, có lẽ là từ rất nhiều thế kỷ rồi; thì cuộc đối thoại như vậy sẽ giúp chúng ta ghi nhận lại những sai lầm, lệch lạc qua truyền thống của hai nền văn hóa. Việc đối thoại liên văn hóa không những giúp làm tinh hoa cho nền văn hóa bản xứ, mà còn cho cả nền văn hóa không phải là bản xứ.

Nói tóm lại, chúng ta cần phải lắng nghe một cách sâu sắc, nghiêm túc và có hệ thống về những vấn nạn, những khủng hoảng và những xung đột của các cộng đồng Kitô giáo gốc bản xứ; và để tiếp tục hiểu được truyền thống sống động về nền văn hóa của họ và về đức tin của họ nơi Chúa Giêsu Kitô. Tôi đề nghị rằng việc lắng nghe này có thể được quy hướng vào ba vấn đề chính đó là: cộng đồng, lòng trắc ẩn và việc tạo dựng.

2.3.3. Tái khám phá lại công đồng trong xã hội và trong Giáo Hội

Các dân tộc bản xứ, cũng giống như bất kỳ ai, cũng phải kinh qua những biến động chính của nền văn hóa. Việc phân tán xã hội sẽ dễ dẫn đến việc làm suy yếu đi đặc tính của nền văn hóa, dẫn đến sự phụ thuộc về vật chất và sự cuồng tín. Thì câu trả lời chính là cộng đồng. Chính vì thế, trước tiên là các cộng đồng Kitô giáo gốc bản xứ cùng với Giáo Hội hoàn vũ, cần phải dựng xây nên một đời sống công cộng, và có đặc tính theo như những giá trị của riêng họ.

Tự bản thân Giáo Hội không thôi chẳng là gì cả, nếu không biết hiệp thông. Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) đã đưa ra một viễn ảnh về “một Giáo Hội theo phương cách mới,” tức một Giáo Hội biết cởi mở, biết tham gia và hiệp thông với các cộng đồng nhỏ bé. Đối với các dân tộc bản xứ, thì điều này có nghĩa là Giáo Hội của họ phải cam kết theo những giá trị quân bình, đồng thời từ bỏ đi sự độc đoán, những tàn dư của thời nam hệ trong quá khứ. Họ cần phải có sự khích lệ và tự do để dựng xây một Giáo Hội đa văn hóa, biết nhạy cảm về giới tính và biết liên lũy lắng nghe. Bởi vì cộng đồng lớn hơn cả gia đình và dòng họ; do đó, việc cư xử với nhau, đặc biệt là với những người xa lạ và những trẻ em, như là anh chị em theo đúng như Phúc Âm, và chúng ta cũng cần lưu tâm một cách đặc biệt đối với việc giao kết giữa các cộng đồng Kitô giáo bản xứ và với Giáo Hội hoàn vũ. Theo kinh nghiệm cho thấy rằng khi các giá trị văn hóa của những người Kitô giáo bản xứ Á Châu được cổ võ và phát huy, thì họ biết đem ra áp dụng những gì của FABC vào trong chính các cộng đồng của họ, để qua đó họ thực thi vai trò lãnh đạo trong Giáo Hội. Khi đó ngôn ngữ và phụng vụ theo hình thức đa văn hóa; và con số thành viên trong Giáo Hội được cải thiện đáng kể về mặt nhân sự lẫn tự do xã hội.

Với tư cách là những người Kitô giáo không phải thuộc gốc bản xứ và các Giáo Hội, chúng ta cần phải học hỏi để truyền đạt đến không phải theo cách của những người đi xâm chiếm mà là theo cách của những người đồng hành, và kiếm tìm. Vai trò xã hội của chúng ta như là sứ giả của Chúa Thánh Thần. Các cộng đồng Kitô giáo bản xứ không mạnh mẽ uy quyền, mà là rất dễ suy yếu và trong sự suy yếu đó làm ánh lên sức mạnh của Chúa Kitô. Giáo Hội “theo lối thành viên công xã” này của các dân tộc bản xứ đưa chúng ta về lại một hình ảnh nguyên thủy trong Phúc Âm về Thiên Chúa Ba Ngôi: một Thiên Chúa của tình yêu và của đời sống vô biên, vô vị lợi, người đã trở nên một vị khách cùng hành hương với chúng ta trong Chúa Giêsu Nazarét, đã cho chúng ta nguồn cảm hứng thông qua Chúa Thánh Thần, và đưa chúng ta đến một tương lai của Vương Triều Thiên Chúa, thông qua hình tượng của Trời Mới và Đất Mới. Thì Thiên Chúa Ba Ngôi này chính là nguồn, là mẫu gương và là cùng đích của cuộc sống và sứ vụ đối thoại của chúng ta.

2.3.4. Đối phó lại với bạo động qua lòng trắc ẩn của trời đất

Mặc dầu bị khống chế bởi các lực lượng chính trị và thị trường từ bên ngoài, các cộng đồng bản xứ đã phải gánh chịu bạo lực gây ra bởi sự cuồng tín về chủng tộc và tôn giáo. Nhiều nền văn hóa bản xứ không theo thuyết cấm sát sinh, trong khi đó đức tin Kitô giáo của họ đã chưa hướng họ đến một quan điểm bất bạo động. Một lãnh vực chính yếu để những người Kitô giáo gốc bản xứ gìn giữ, cổ võ và phát huy các nền văn hóa của họ, chính là việc thông qua một nền văn hóa về lòng trắc ẩn của vũ trụ, trời đất. Trong một vài lãnh vực, điều này có lẽ phải qua nhiều thế hệ mới có thể phát triển được vì lẽ, phải mất rất nhiều thế kỷ để có thể cắm rễ nơi thế giới Tây Phương. Trong các xã hội về bộ tộc, phẩm giá của người nam được đánh gá qua sự dũng cảm của người chiến binh. Theo kinh nghiệm của tôi thì chúng ta cần phải điều phối nhiều cuộc đàm đạo liên lũy, lâu dài với những nạn nhân và những người còn sống sót qua các cuộc bạo động công khai. Thì những cuộc đàm đạo này nên được bắt đầu từ các nhóm phụ nữ, vì họ chính là những người bùng nổ ra bạo động.

Thì cuộc đàm đạo này có thể được thực hiện song song với việc chia sẽ về Kinh Thánh hằng ngày, để dần dà, những người bản xứ này lĩnh hội được ý nghĩa của sự bất bạo động, và Kinh Thánh trở nên nguồn cung cấp về sức mạnh nội tâm. Việc giúp hình thành về cách suy nghĩ, theo não trạng và tính lôgic hóa của các nền văn hóa bản xứ, cũng như về các ý nghĩa và giá trị, theo đặc tính thành viên công xã của nền văn hóa, ngày càng trở nên được chấp thuận hơn trong việc nhìn nhận những khác biệt, trong khi đó vẫn còn gìn giữ nhân dạng của họ. Đặc tính bản xứ trở nên một thành phần quan trọng của đặc tính đa dạng về chủng tộc, về tôn giáo trong vùng cũnh như toàn cầu.

Mặc dầu biết rằng, xã hội bên ngoài thì mạnh mẽ và hung hãn hơn, qua việc xâm lấn những vùng đất của người bản xứ, thì việc khám phá ra một trái tim trắc ẩn trong nền văn hóa bản xứ, cần phải được vạch ra và xem nó như là một phần hội nhập của cuộc tranh đấu về công bằng xã hội và sự nhìn nhận về nền văn hóa. Và dĩ nhiên ở đâu, thì Thánh Giá của Chúa Kitô thật sự trở nên nền tảng chính của niềm hy vọng.

2.3.5 Thần học sinh thái vì ích lợi mai sau của chúng ta

Đã từ rất lâu đời và qua nhiều thế kỷ, các nền văn hóa gốc bản xứ tiến triển theo nhịp điệu của tự nhiên. Việc gìn giữ, phát huy và cổ võ các nền văn hóa bản xứ sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả nếu như không có đất đai và rừng rậm, vốn là những người chăm sóc cho các dân tộc bản xứ. Các dân tộc bản xứ, đã từ rất lâu rồi, họ giúp bảo tồn sự phong phú của trái đất, thì nay sự phong phú đó đang gặp phải hiểm nguy, đang gặp phải sự khai thác cạn kiệt bởi những kẻ giàu có qua hai thế hệ. Kinh nghiệm cho thấy rằng sự nhạy cảm về mặt sinh thái và sự bình đẳng về giới tính cùng nhau phát triển tương đồng.

Bởi thế, những người Kitô giáo gốc bản xứ đang hướng chúng ta quay trở về học thuyết của nền sinh thái học trong Thánh Kinh, từ khi tạo dựng qua sách Sáng Thế, thông qua sự tiên báo của Isắc, đến việc giữ trọn lời hứa qua Bài Giảng Trên Núi, đến sự mạc khải về một Trời Mới, và Đất Mới trong sách Khải Huyền. Một Giáo Hội Theo Phương Cách Mới nơi các dân tộc bản xứ ám chỉ đến một cách thức mới trong điều hành cộng đồng và Giáo Hội qua việc tự túc, hợp tác địa phương và nền kinh tế sinh thái, cả về mặt xã hội lẫn Giáo Hội.

Nói tóm lại, trong ba lãnh vực chính như: cải thiện cộng đồng, đặt lòng trắc ẩn làm cội rể trong nền văn hóa và việc giúp làm tiến hóa một nền kinh tế sinh tháu cả về mặt xã hội lẫn Giáo Hội có thể hổ trợ và thúc đẩy cuộc tranh đầu của các dân tộc bản xứ trong việc dành được sự nhìn nhận về mặt văn hóa và sự cải thiện về phẩm giá con người của họ.

2.4. Đề cập đến một chương trình hành động cho các Giáo Hội không phải là bản xứ

Trong suốt bài viết này, tôi luôn nhấn mạnh đến rằng những người Kitô giáo gốc bản xứ, để tự họ có thể gìn giữ, phát huy và cổ võ những nền văn hóa của riêng họ, họ cần phải có sự hợp tác của tất cả các thành viên thuộc Giáo Hội hoàn vũ. Việc Giáo Hội cùng hiệp kết với những khát vọng về văn hóa của các dân tộc bản xứ chắc chắn đã gây ra nhiều tranh cãi, vì lẽ, một số các dân tộc bản xứ đã được hoàn toàn nhìn nhận bởi các quốc gia của họ rồi. Tình đoàn kết của chúng ta với các dân tộc bản xứ chính là việc thật sự nhìn nhận tính phong phú về các nền văn hóa của họ vào trong chính Giáo Hội của riêng chúng ta, qua các trật tự và qua sự lãnh đạo của Giáo Hội, qua sứ vụ tông đồ về công lý, hòa bình và hòa giãi, qua thần học, qua việc tâm linh và thờ kính. Chính vì thế, chúng ta, những người Kitô giáo không phải là bản xứ, cũng còn có trách nhiệm để hành động trong những cộng đồng riêng của chúng ta, để biết nhìn nhận nhân dạng và giúp làm cải thiện nhân phẩm của những người gốc bản xứ. Để kết luận tội xin đưa ra 5 điểm vắn tắt như sau:

2.4.1. Sự thanh lọc trí nhớ

Trước tiên, chúng ta cần nhìn nhận vai trò huỷ diệt của chúng ta trong quá khứ, và vai trò huỷ diệt của toàn cầu hóa thị trường và truyền thông xã hội trong thời đại hiện nay. Một sự khởi đầu mới được dẫn tới bằng sự thú tội và ăn năn. Chúng ta đã cảm nghiệm được một ví dụ phi thường này khi vào ngày 12 tháng 3 năm 2000 vừa qua, vào đúng Chủ Nhật Thứ Nhất Mùa Chay, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị, ngồi trên chiếc ghế của vị Giáo Hoàng ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, long trọng thú tội và ăn năn về 7 tội lổi lớn mà Giáo Hội đã phạm phải trong suốt Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Đoạn thứ năm của lời thú tội được đọc như sau: “Việc thú tội về những tội lỗi đã phạm phải qua hành động chống lại tình yêu thương, hòa bình, quyền của các dân tộc và việc tôn trọng các nền văn hóa và tôn giáo.” Đức Tổng Giiám Mục Stephen Fumio Hamao ngâm lại như sau:

Chúng ta hãy cầu nguyện, cùng khẩn khoản với Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng ta và Thiên Chúa của hòa bình, cho tất cả những người Kitô giáo, để họ biết ăn năn về những ngôn từ hay những thái độ gây ra do sự kêu ngạo, hay thù ghét, hay ý tưởng muốn thống trị kẻ khác, hay bởi sự thù hằn đối với những thành viên của các tôn giáo khác, và đối với những nhóm người yếu thế trong xã hội như là những người di dân và những người du mục.”

Sau lời cầu nguyện trong thinh lặng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị tiếp lời:

Lạy Thiên Chúa, là Chúa Tể Thế Giới và Là Cha của Tất Cả Muôn Loài, qua Con Một của Người, Ngài đã yêu cầu chúng con hãy biết yêu thương kẻ thù, hãy làm những điều thiện đối với những ai ghét chúng con và hãy cầu nguyện cho những ai hành quyết chúng con. Tuy nhiên, những người Kitô giáo chúng con vẫn thường hay chối từ Phúc Âm, với não trạng ham muốn quyền lực, họ đã xâm phạm vào những quyền lợi của các nhóm chủng tộc và bản xứ, coi thường những nền văn hóa và các truyền thống tôn giáo của họ: Lạy Chúa, xin hãy kiên nhẫn và nhân từ đối với chung con, và xin Ngài hãy thứ tha chúng con! Chúng con khẩn khoản điều này của Chúa Kitô Chúa chúng con.”

2.4.2. Đoàn kết và giao tiếp

Thứ hai, chúng ta phải tham gia vào các mạng lưới của người bản xứ ở cấp cội rễ và quốc tế để giúp gìn giữ nhân dạng và cải thiện phẩm giá của các dân tộc bản xứ. Rất nhiều nơi đã lập ra những nhà truyền giáo đa văn hóa, bao gồm các nữ tu, các linh mục, các thầy và giáo dân cùng làm việc với nhau để giúp thâu ngắn lại những cách biệt từ bên trong khỏi sự bành trướng đô thị, song song với việc có những đại diện tại trụ sở của Liên Hiệp Quốc tại Nữu Ước. Bằng cách này chúng ta thi hành sứ vụ ở ngoài vùng ngoại vi lẫn trung tâm, để gây được sự ảnh hưởng đáng kể.

2.4.3. Biết nhận thức

Thứ ba là, thông qua việc giảng dạy giáo lý và giáo dục, chúng ta đảm bảo phải nhận thức được sự thống trị của nền chính trị, kinh tế và văn hóa của xã hội đối với các dân tộc gốc bản xứ, được biết đến như là các cộng đồng Kitô giáo, đặc biệt là tại các trung tâm giáo dục và đào tạo.

2.4.4. Hội nhập qua mỗi lần đối thoại

Thứ tư là chúng ta cần phải chắc chắn rằng cả cuộc tranh đấu về nhân quyền và sự đóng góp về văn hóa của các dân tộc bản xứ được nhìn nhận thông uqa cuộc đối thoại đang diễn ra với những nền văn hóa tôn giáo chiếm đa số tại Á Châu như Phật Giáo, Hindu và Hồi Giáo. Mỗi một tôn giáo chính yếu này đều khắc ghi cả về mặt cá nhân lẫn văn hóa thông qua sự phổ biến của tôn giáo; và mỗi một sự phổ biến về tôn giáo cũng đều giúp làm phát sinh ra những cội rễ bản xứ của nền văn hóa tôn giáo; mỗi một “nền văn hóa tôn giáo vĩ đại này” đều được dưỡng nuôi từ “nền văn hóa tôn giáo nhỏ bé” qua mối quan hệ cộng sinh.

2.4.5. Tổ chức

Cuối cùng, thật là thích hợp và có lý chúng ta tổ chức ra Ngày Quốc Tế của Người Bản Xứ Thế Giới vào ngày 9 tháng 8 mỗi năm, như là một dịp để nhắc lại món nợ của chúng ta đối với những người bản xứ, để nhớ lại cả những hoàn cảnh khó khăn tuyệt vọng và các giá trị của họ. Ngày đó cũng là dịp để chúng ta khắc sâu hơn nữa cam kết của chúng ta vào sứ vụ tông đồ, và để đẩy mạnh mọi nổ lực của chúng ta gìn giữ, phát huy và cổ võ tất cả các nền văn hóa nhân loại dưới ánh sáng của nền văn hóa bản xứ. Các Hội Nghị của các Đức Giám Mục chẳng hạn, thông qua các Ủy Ban về Công Lý và Hòa Bình, Giáo Lý, Giáo Dục và Phụng Vụ, có thể là nguồn cung cấp các ý tưởng và những ví dụ điển hình về đời sống cầu nguyện, về cuộc đối thoại liên văn hóa, làm chứng nhân cho sự công bằng, thì đó chính là những phương cách thực tiễn để cùng đoàn kết với những người bản xứ, thậm chí ngay cả những ý tưởng truyền thống tốt đẹp của người Công Giáo như ăn chay và hãm mình. Ngày 9 tháng 8 cũng có thể được tổ chức như là ngày của các gia đình, các cộng đồng cơ bản, các trường học, các giáo xứ và các địa phận.

Lời Kết

Trong suốt 40 năm qua, Hiến Chế về Tin Mừng và Hy Vọng, đã chứng tỏ được một sự thành công vĩ đại của Công Đồng Chung Vaticăn Hai, trong việc hướng dẫn Giáo Hội qua việc đối thoại với nền văn hóa đương đại, cả về mặt tôn giáo lẫn trần tục. Tuy nhiên, thế giới của Tin Mừng và Hy Vọng, chính là thế giới của những năm 1960, một thế giới hoàn toàn độc lập với các nước tại Phi Châu; và Liên Hiệp Quốc qua các thập kỷ phát triển, đã biến mất đi. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới sau thời kỳ hiện đại hóa, là nơi mà các nền văn hóa đang phải trải qua những cuộc khủng hoảng; là nơi mà nền kinh tế toàn cầu hóa theo kiểu thị trường và một nền truyền thông theo hướng lợi nhuận, thương mại, tất cả đã biến thế giới này thành một thế giới rất bất ổn và là một thế giới không có công lý. Tài khéo léo của con người chưa bao giờ được sắc sảo đem ra áp dụng vào các thành tựu về khoa học và kỷ thuật; thế nhưng nền sinh thái của Thiên Chúa nơi thế giới này đang bị phá hủy đi. Những cuộc chiến quy ước giữa các quốc gia phần lớn được thay thế bằng những cuộc bùng nổ liên tục về bạo động chủng tộc lẫn tôn giáo; trong khi đó thế giới “siêu cường” lại dùng những thứ vũ khí tốn khoảng hàng chục triệu đôla (và ngày nay đang có cuộc xung chiến về không gian) để áp đặt những mong muốn của họ trên toàn cả địa cầu.

Điều này dẫn tôi đến một kết luận cuối cùng. Trông có vẽ như là không chóng thì chày, chúng ta rồi cũng sẽ phải có một Hội Đồng Truyền Giáo Thế Giới (Ecumenical Council) trước khi kết thúc thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ ba này. Một thế giới mới kêu gọi một sự đáp trả canh tân mới, một viễn ảnh tái sinh mới và những chỉ dẫn rõ ràng hơn. Hiến Chế về Tin Mừng và Hy Vọng đã xác lập ra đường hướng và tiếng nói chung cho cuộc đối thoại đa dạng giữa đức tin và văn hóa trong gần 40 năm qua; thì Hội Đồng sắp tới chắc chắn sẽ hướng dẫn chúng ta tiến về một cuộc hành hương về đối thoại trong suốt nữa thế kỷ sắp tới. Chúng ta sẽ mang đến cho Hội Đồng bốn mươi năm kinh nghiệm về cuộc đối thoại sống động, liên lũy giữa đức tin và văn hóa. Chúng ta sẽ có thể rút ra được những kinh nghiệm từ cuộc nghiên cứu cầu cù, những suy niệm đa văn hóa và những quan điểm về mục vụ của Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa trong suốt hơn 20 năm qua. Lần này, tôi tin chắc là niềm vui và hy vọng, nổi buồn và sự thống khổ của các dân tộc bản xứ sẽ được lắng nghe. Thật sự ra, những giá trị bản xứ sẽ giúp tất cả chúng ta trong Giáo Hội trong việc dành lại thế cân bằng, khi chúng ta biết nhìn nhận những đặc tính của nền văn hóa, biết làm tinh hoa bất kỳ những gì làm hủy đi ơn gọi làm người và cổ võ những gì là nhân bản nhất. Thì theo ngôn từ của Thánh Phaolô như sau:

Giờ đây trong Chúa Giêsu Kitô, những ai đã bị tách xa, thì giờ đây lại được đưa gần lại đến máu của Chúa Kitô. Vì Ngài chính là nền hòa bình của chúng ta; Ngài đã đoàn kết hai nhóm thành một và phá đổ bức tường ngăn cách, chính là sự thù hận giữa chúng ta. Ngài đã bãi bỏ luật lệ cùng với những điều răn và những sắc lệnh, để qua đó Ngài sẽ tạo dựng nên một nhân loại mới, đem lại bình an và giảng hòa giữa hai hai dân trong một Thân mình, với Thiên Chúa, nhờ Thập Giá, giết chết hằn thù-nơi mình Ngài. Và Ngài đến để loan báo Tin Mừng bình an cho anh em những người ở xa và bình an cho những kẻ ở gần. Vì chính nhờ Ngài, chúng ta đôi bên, trong một Thần Khí, được đến cùng Cha. Ấy vậy, anh em không còn là người xa lạ, là khách ngụ cư mà là những người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa được xây cao trên nền móng là các tông đồ và tiên tri, mà góc đỉnh chính là Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, tất cả tòa nhà mộng khớp ăn nhau, sẽ cứ mọc lên làm thánh điện trong Chúa; trong Ngài, anh em cùng được dựng xây, để cùng nhau làm ngôi nhà của Thiên Chúa, nhờ Thần Khí.” (Thư Gởi Tín Hữu Êphêsô, chương 2, từ câu 13 đến câu 22.)

Và để ngắn gọn và cô đọng hơn, qua những chữ của Ireneus chính là: Gloria Dei, homo vivens.

(Hết)