Nhân phẩm con người và đặc tính của nền văn hóa Á Châu
2.1.4. Sự chậm chạp (thiếu tính tức thời) về việc áp dụng những giảng dạy của người kế vị Thánh Phêrô nơi các dân tộc bản xứ
Sự “thờ ơ, bỏ mặc” về các dân tộc bản xứ tại Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) trước năm 1995, cũng từ đó khiến họ chẳng hề được chú ý hay được đề cập gì cả trong hầu hết các văn kiện chính thức của người kế vị Thánh Phêrô, ngay cả với những văn kiện mới đây nhất. Các dân tộc bản xứ dường như chẳng có một tác động mạnh mẽ gì cả đối với những văn kiện về sứ vụ của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục (văn kiện Evangelii nuntiandi vào năm 1975), và của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị (trong văn kiện về Sứ Vụ Cứu Chuộc (Redemptoris missio) vào năm 1990); cũng như các hiến chế chính về xã hội (như hiến chế Sollicitudo rei socialis, 1987). Thậm chí với bức thông điệp tiên phong của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị về sinh thái (có nhan đề: Hòa Bình với Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng Vũ Trụ, và Hòa Bình Với Tất Cả Các Tạo Vật, vào năm 1989) cũng chẳng đề câp gì cả đến các dân tộc bản xứ, về khía cạnh tâm linh của họ có liên quan đến mặt sinh thái cũng sự sinh tồn.
Thế nhưng, trái hẳn với các vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã tích cực cổ võ và đào sâu về một cuộc đối thoại sống động giữa Phúc Âm và nền văn hóa bản xứ trong những lần viếng thăm mục vụ của Ngài. Hầu hết mỗi lần thăm viếng các Giáo Hội tại Á Châu, Phi Châu và Mỹ Châu La Tinh, Ngài đều có cuộc gặp gỡ với những nhóm dân tộc gốc bản xứ và tự Ngài trình bày cho họ về Giáo Hội. Để minh họa cho điều này, tôi xin được phép trích dẫn lại một trong những bài giảng thuyết mới đây nhất của Ngài. Tôi chỉ trích dẫn những đoạn có liên quan trực tiếp đến khía cạnh nhân phẩm và đặc tính của các dân tộc bản xứ mà thôi.
“Các con, hỡi những người dân bản xứ của vùng đất đẹp đẽ ở vùng Đông Bắc của rặng núi Luzon này, cũng như tất cả các bộ lạc người Phi Luật Tân khác, các con chính là một sự đa dạng hết sức phong phú của các nền văn hóa vốn đã được lưu truyền lại xuống cho các con từ cha ông các con, và cũng để từ đó, nó được truyền lại cho vô số các thế hệ đời sau. Cha cầu mong cho các con hãy luôn ý thức và biết ơn một cách sâu sa về những di sản văn hóa này mà chính Thiên Chúa đã ủy thác xuống nơi chúng con, để chúng con được kế thừa. Hơn thế nữa, Cha mong là những di sản mà các con đang kế thừa này cũng luôn nhận được sự kính trọng từ phía những người khác: nguyện cầu cho đất đai và các cấu trúc xã hội của các con được bảo vệ, gìn giữ và được hoàn thiện hơn... các con đã khám phá ra được rằng Phúc Âm chẳng có đe dọa gì đến sự sống còn của các nền văn hóa của các con hay tiêu hủy đi những tập tục truyền thống đích thực. .. khi các con phải diện đối với vấn nạn hiện tại vốn có liên quan đến sự phát triển về kinh tế lẫn xã hội tại đất nước của các con. Cha xin đoan chắc với các con rằng Giáo Hội sẽ hiệp cùng với những nổi niềm khát khao mãnh liệt của các con trong việc gìn giữ những nền văn hóa rất riêng biệt của các con, Giáo Hội sẽ hiệp cùng với những mong muốn của các con trong việc đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của các con cũng như của các con cháu các con.” (Bài giảng nhân dịp Ngài đến thăm nước Phi Luật Tân vào tháng Hai năm 1981.)
“Cha muốn tõ bày lòng biết ơn sâu sắc và sự gần gũi thân tình của Cha đến cho các dân tộc bản xứ. Vị Giáo Hoàng này sẽ không quên các con đâu! Các con xứng đáng để nhận được sự kính trọng và các con có mọi quyền về công lý, hội nhập phát triển và hòa bình....” (Bài giảng nhân Ngài đến thăm nước Guatamala vào tháng Bảy năm 2002.)
“Sứ vụ cao cả để dựng xây lại một nước Mêhicô tốt đẹp hơn với nền công lý và đoàn kết vĩ đại đòi hỏi sự cộng tác của tất cả mọi người. Cụ thể, là vào thời nay, việc hổ trợ những dân tộc gốc bản xứ là cần thiết với những khát vọng chính đáng của họ, tôn trọng và bảo vệ tất cả các giá trị của từng nhóm chủng tộc...” (Bài giàng nhân Ngài đến thăm nước Mêhicô vào tháng Bảy năm 2002.)
Và đây không chỉ là những lời nói sáo rỗng đơn thuần, và thật đáng ngạc nhiên là, các nền văn hóa bản xứ đã được “gìn giữ, phát huy và cỗ võ” khi họ được đoàn viên trùng phùng với Chúa Kitô qua mầu nhiệm Phục Sinh với những vũ công của Aztec, với những con sò ốc xà cừ và những cái trống cổ truyền qua kỳ phong Thánh cho Juan Diego vào ngày 31 tháng 7 vừa qua.
Thì những lời giảng trên cùng với vô số những lời phát biểu tương tự đó đây đã đặt Giáo Hội đứng cùng chung hàng ngũ với các dân tộc bản xứ qua cuộc vật lộn của họ ở khắp mọi nơi (như đã được trình bày trong Phần I ở trên). Qua việc nhìn nhận phẩm giá của các dân tộc bản xứ và việc mạnh mẽ tuyên bố rằng Giáo Hội hoàn vũ cùng hiệp kết và đồng hành với họ qua việc họ tranh đấu để có được một tiếng nói và cuộc vật lộn để bảo vệ đất đai và các nguồn tài nguyên của họ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã chủ động dành một thế đứng về cả hai khía cạnh thần học (chính là nhân phẩm con người) lẫn luân lý (chính là các quyền về văn hóa, kinh tế và chính trị).
Thì những bài giảng trên cũng như những hành động công khai về phụng vụ đã ra dấu cho một sự đổi thay toàn diện về quan điểm của Giáo Hội: các dân tộc đó trước đây chỉ được coi là “kẻ ngoại giáo” hay “người nguyên thủy”, thì nay họ được đón chào như là “những cộng tác viên” và “những người báo hiệu về tương lai.” Tuy nhiên, chúng ta cũng vẫn còn làm việc dưới sự nhìn nhận mâu thuẫn, trái ngược về họ, như là trong lịch sử quá khứ vậy.
(Còn tiếp …..)
2.1.4. Sự chậm chạp (thiếu tính tức thời) về việc áp dụng những giảng dạy của người kế vị Thánh Phêrô nơi các dân tộc bản xứ
Sự “thờ ơ, bỏ mặc” về các dân tộc bản xứ tại Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) trước năm 1995, cũng từ đó khiến họ chẳng hề được chú ý hay được đề cập gì cả trong hầu hết các văn kiện chính thức của người kế vị Thánh Phêrô, ngay cả với những văn kiện mới đây nhất. Các dân tộc bản xứ dường như chẳng có một tác động mạnh mẽ gì cả đối với những văn kiện về sứ vụ của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục (văn kiện Evangelii nuntiandi vào năm 1975), và của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị (trong văn kiện về Sứ Vụ Cứu Chuộc (Redemptoris missio) vào năm 1990); cũng như các hiến chế chính về xã hội (như hiến chế Sollicitudo rei socialis, 1987). Thậm chí với bức thông điệp tiên phong của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị về sinh thái (có nhan đề: Hòa Bình với Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng Vũ Trụ, và Hòa Bình Với Tất Cả Các Tạo Vật, vào năm 1989) cũng chẳng đề câp gì cả đến các dân tộc bản xứ, về khía cạnh tâm linh của họ có liên quan đến mặt sinh thái cũng sự sinh tồn.
Thế nhưng, trái hẳn với các vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã tích cực cổ võ và đào sâu về một cuộc đối thoại sống động giữa Phúc Âm và nền văn hóa bản xứ trong những lần viếng thăm mục vụ của Ngài. Hầu hết mỗi lần thăm viếng các Giáo Hội tại Á Châu, Phi Châu và Mỹ Châu La Tinh, Ngài đều có cuộc gặp gỡ với những nhóm dân tộc gốc bản xứ và tự Ngài trình bày cho họ về Giáo Hội. Để minh họa cho điều này, tôi xin được phép trích dẫn lại một trong những bài giảng thuyết mới đây nhất của Ngài. Tôi chỉ trích dẫn những đoạn có liên quan trực tiếp đến khía cạnh nhân phẩm và đặc tính của các dân tộc bản xứ mà thôi.
“Các con, hỡi những người dân bản xứ của vùng đất đẹp đẽ ở vùng Đông Bắc của rặng núi Luzon này, cũng như tất cả các bộ lạc người Phi Luật Tân khác, các con chính là một sự đa dạng hết sức phong phú của các nền văn hóa vốn đã được lưu truyền lại xuống cho các con từ cha ông các con, và cũng để từ đó, nó được truyền lại cho vô số các thế hệ đời sau. Cha cầu mong cho các con hãy luôn ý thức và biết ơn một cách sâu sa về những di sản văn hóa này mà chính Thiên Chúa đã ủy thác xuống nơi chúng con, để chúng con được kế thừa. Hơn thế nữa, Cha mong là những di sản mà các con đang kế thừa này cũng luôn nhận được sự kính trọng từ phía những người khác: nguyện cầu cho đất đai và các cấu trúc xã hội của các con được bảo vệ, gìn giữ và được hoàn thiện hơn... các con đã khám phá ra được rằng Phúc Âm chẳng có đe dọa gì đến sự sống còn của các nền văn hóa của các con hay tiêu hủy đi những tập tục truyền thống đích thực. .. khi các con phải diện đối với vấn nạn hiện tại vốn có liên quan đến sự phát triển về kinh tế lẫn xã hội tại đất nước của các con. Cha xin đoan chắc với các con rằng Giáo Hội sẽ hiệp cùng với những nổi niềm khát khao mãnh liệt của các con trong việc gìn giữ những nền văn hóa rất riêng biệt của các con, Giáo Hội sẽ hiệp cùng với những mong muốn của các con trong việc đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của các con cũng như của các con cháu các con.” (Bài giảng nhân dịp Ngài đến thăm nước Phi Luật Tân vào tháng Hai năm 1981.)
“Cha muốn tõ bày lòng biết ơn sâu sắc và sự gần gũi thân tình của Cha đến cho các dân tộc bản xứ. Vị Giáo Hoàng này sẽ không quên các con đâu! Các con xứng đáng để nhận được sự kính trọng và các con có mọi quyền về công lý, hội nhập phát triển và hòa bình....” (Bài giảng nhân Ngài đến thăm nước Guatamala vào tháng Bảy năm 2002.)
“Sứ vụ cao cả để dựng xây lại một nước Mêhicô tốt đẹp hơn với nền công lý và đoàn kết vĩ đại đòi hỏi sự cộng tác của tất cả mọi người. Cụ thể, là vào thời nay, việc hổ trợ những dân tộc gốc bản xứ là cần thiết với những khát vọng chính đáng của họ, tôn trọng và bảo vệ tất cả các giá trị của từng nhóm chủng tộc...” (Bài giàng nhân Ngài đến thăm nước Mêhicô vào tháng Bảy năm 2002.)
Và đây không chỉ là những lời nói sáo rỗng đơn thuần, và thật đáng ngạc nhiên là, các nền văn hóa bản xứ đã được “gìn giữ, phát huy và cỗ võ” khi họ được đoàn viên trùng phùng với Chúa Kitô qua mầu nhiệm Phục Sinh với những vũ công của Aztec, với những con sò ốc xà cừ và những cái trống cổ truyền qua kỳ phong Thánh cho Juan Diego vào ngày 31 tháng 7 vừa qua.
Thì những lời giảng trên cùng với vô số những lời phát biểu tương tự đó đây đã đặt Giáo Hội đứng cùng chung hàng ngũ với các dân tộc bản xứ qua cuộc vật lộn của họ ở khắp mọi nơi (như đã được trình bày trong Phần I ở trên). Qua việc nhìn nhận phẩm giá của các dân tộc bản xứ và việc mạnh mẽ tuyên bố rằng Giáo Hội hoàn vũ cùng hiệp kết và đồng hành với họ qua việc họ tranh đấu để có được một tiếng nói và cuộc vật lộn để bảo vệ đất đai và các nguồn tài nguyên của họ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã chủ động dành một thế đứng về cả hai khía cạnh thần học (chính là nhân phẩm con người) lẫn luân lý (chính là các quyền về văn hóa, kinh tế và chính trị).
Thì những bài giảng trên cũng như những hành động công khai về phụng vụ đã ra dấu cho một sự đổi thay toàn diện về quan điểm của Giáo Hội: các dân tộc đó trước đây chỉ được coi là “kẻ ngoại giáo” hay “người nguyên thủy”, thì nay họ được đón chào như là “những cộng tác viên” và “những người báo hiệu về tương lai.” Tuy nhiên, chúng ta cũng vẫn còn làm việc dưới sự nhìn nhận mâu thuẫn, trái ngược về họ, như là trong lịch sử quá khứ vậy.
(Còn tiếp …..)