PHẦN II: SUY TƯ THẦN HỌC MỤC VỤ
A. Khuôn khổ và tiến trình suy tư
50. Mục đích của suy tư thần học mục vụ này nhằm giúp đưa ra các đáp ứng đức tin đối với những câu hỏi nêu trên. Điều này dựa trên dữ liệu Kinh Thánh và các Giáo Huấn của Giáo Hội, và luôn lưu ý đến các yếu tố chính yếu về tình hình mục vụ vốn đang thử thách sứ mệnh Rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Khuôn khổ suy tư sẽ là: Sự sống, Hiệp thông, Liên đới và Truyền Giáo. Nó đi theo tiến trình dưới đây:
(a) Nền văn hoá sự chết trong hoàn cảnh Á Châu, chúng tôi đáp trả bằng cách trình bày viễn tượng của một nền văn hoá sự sống toàn diện với một định hướng đặc biệt về hôn nhân và gia đình. Chúng tôi hình dung nền văn hoá sự sống toàn diện được đặt trọng tâm vào sự sống giao ước với Thiên Chúa, nơi mà các giá trị của Nước Thiên Chúa như tình yêu thương, sự hiệp thông, và tình liên đới trong các cá nhân, các gia đình và toàn xã hội.
(b) Chúng tôi trình bày nền văn hoá sự sống toàn diện này như là quà tặng và cũng là một nhiệm vụ được Chúa trao ban trong Chúa Giêsu và qua Chúa Giêsu, người đã nâng cao sự sống con người bằng cách tiết lộ và chia sẻ điều đó với chúng ta trong Giáo Hội qua Chúa Thánh Thần.
(c) Sau đó chúng tôi suy tư về bản thân Giáo Hội như là Gia đình của Thiên Chúa, để phục vụ như một dấu chỉ và như một lời hứa về sự sống toàn diện ở Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa mà Người công bố là sự đáp trả đức tin của chúng ta đối với nền văn hoá sự chết vốn đe doạ đến mỗi giá trị Tin Mừng mà gia đình được trao ban từ lúc khởi nguyên. Chúng tôi cho rằng nhận thức này thật là ý nghĩa trong ánh sáng của bản chất đa dạng đa dạng cũa nhiều gia đình Á Châu.
(d) Suy nghĩ sâu xa hơn về viễn tượng Kitô giáo, chúng tôi suy tư về bản chất mà Thiên Chúa trao ban cho hôn nhân và gia đình trong ánh sáng của những giá trị cơ bản về kết ước, tình yêu thương, hiệp thông và liên đới. Việc đẩy mạnh suy tư của chúng tôi liên quan đến gia đình không chỉ đơn thuần với mục tiêu được truyền mà quan trọng hơn khám phá căn tính của gia đình như là một đề tài sứ mạng nội tại (missio ad intra) tự trong chính gia đình là việc truyền giáo bên ngoài cho những người khác (missio ad extra) hướng về văn hoá sự sống toàn diện trong Nước Thiên Chúa.
(e) Để được chắc chắn rằng suy tư của chúng tôi không bị trừu tượng và khô khan, chúng tôi áp dụng vào đó một số thách đố chính liên quan đến xã hội, văn hoá và giáo hội ở Á Châu.
(f) Bước cuối cùng của suy tư của chúng tôi trong sứ mệnh gia đình hướng về văn hoá sự sống toàn diện hoà nhập vào tất cả các bước trên. Chính trên linh đạo này mà gia đình cần đến ở Á Châu để nhận thức được bản chất của gia đình và hoàn thành sứ mạng của gia đình.
B. Nền Văn Hoá của Sự Sống Toàn Diện
52. Trong khi nền văn hoá đang nổi lên rõ ràng đã có nhiều đóng góp tích cực cho thế giới chúng ta, thì một thách đố đối với các gia đình Á Châu là việc Rao giảng Tin Mừng và giải phóng nền văn hoá đó bằng cách chuyển hoá nó sang một nền văn hoá của sự sống toàn diện để nó không trở nên đối nghịch với sự sống con người toàn diện. Để hiểu nền văn hoá của sự sống và tính nghiêm trọng của những đe doạ chống lại nền văn hoá này, các truyền thống tôn giáo và triết học xa xưa của Á Châu chắc chắc sẽ trở nên hữu dụng. Và chắc chắc rằng sẽ có nhiều hội tụ trong việc thông hiểu. Tuy nhiên, suy tư mục vụ và thần học của chúng ta sẽ bắt đầu từ nhận thức về niềm tin tôn giáo của chính chúng ta (niềm tin Kitô giáo). Từ nhận thức này, chúng ta cần phải hiểu và đáng giá đúng sự sống con người trong ý nghĩa toàn diện, tức là sự sống trong bản chất nó và phẩm chất vốn có của nó, sự sống như là quà tặng của Thiên Chúa (x. St 2.7; Cv 17,25) và sự chia sẻ sự sống của Thiên Chúa (x. Rm 6,23; Ga 4,10,14; Kh 21,6), sự sống tồn tại cho đến hôm nay đấu tranh không ngừng để hướng đến sự tràn đầy, là vận mệnh vĩnh cữu của nó (Rm 6,22), sự sống trong sự tràn đầy của bản thân nó (Ga 10,10) trong Nước Thiên Chúa sẽ đến. Từ quan điểm này, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng tôi lên án mọi hành vi mất nhân tính, bóc lột và áp bức sự sống con người. Bất kỳ hoàn cảnh, mối tương quan, cấu trúc, tình huống, hành vi hoặc hành động nào đe doạ và làm giảm giá trị sự sống đều là thái độ của sự chết (xem GS, 27) là thành phần của văn hoá sự chết. Nó chống lại ý định của Thiên Chúa và Nước Thiên Chúa. Ngược lại, nền văn hoá hướng về sự sống toàn diện thì tôn trọng, khuyến khích, đề cao, nâng đỡ và phục vụ cho sự sống con người trong mọi chiều kích của nó, từ hành vi cứu cánh cho sự thụ thai đến lúc sinh ra, xuyên qua những cuộc đấu tranh trong đời sống ở thế gian để rồi trở về với sự sống tràn đầy của Thiên Chúa lúc cuối đời (2 Tm 1,10; 4,1; Hcb 9,27-28) nơi Nước Thiên Chúa. Nhận thức này về sự sống trọn vẹn mang hàm ý sâu sắc trong ý nghĩa “phò sự sống” và trong phạm vi của thừa tác vụ gia đình.
1. Giao ước Tình Yêu và Sự sống, Hiệp thông và Liên đới
53. Theo Kinh Thánh, nền tảng của nền văn hoá sự sống toàn diện là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Đấng Ban Sự Sống cho muôn loài đặc biệt là sự sống con người (xem St 1, 26-28; 2,7; Kn 15,11). Trong Sách Sáng Thế chúng ta có thể thấy được một thông đạt chắc chắn của Thiên Chúa Ba Ngôi sẻ chia sự hiệp thông với nhân loại: “Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta… Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ (St 1,26-27- NRSV). Như thế, sự sống con người bắt đầu chỉ vì Tình yêu của Thiên Chúa. Được tạo dựng từ hình ảnh của Thiên Chúa, sự sống chính là quà tặng của Thiên Chúa. Vì lý do này, sự sống của mỗi con người, cho dù nghèo khổ hay kém phẩm giá, vẫn luôn quý giá và thiêng liêng. Không con nghi ngờ gì nữa, các câu chuyện sáng tạo trong Kinh Thánh đã đưa việc sáng tạo loài người lên đỉnh điểm cao nhất. Nhưng chúng ta cần nhận thức rằng bởi do hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà toàn thể vũ trụ là một mạng lưới phức tạp có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó loài người thực hiện trách nhiệm quản lý, phản ánh quyền thống trị chăm sóc yêu thương của chính Thiên Chúa. Vì lý do này, trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, có sự liên đới trong tất cả loài thụ tạo được biểu trưng bởi sự hoà hợp và sự phụ thuộc lẫn nhau. Đối với con người, sự liên đới như thế luôn luôn được tự do lựa chọn, vì thế ngăn chặn sự thiết lập giả tạo tình liên đới bằng quyền lực hiển nhiên.
54. Tân Ước cũng nói thêm về đỉnh điểm sự hoà nhập trong ý định này của Thiên Chúa. Đỉnh cao nhất cũng như trung tâm của mọi loài thọ tạo là Đức Kitô, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành… tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,15,16). Nhờ Người “mọi sự dù trên trời hay dưới đất” và mọi quan hệ đổ vỡ được hoà giải với Người, “đem lại bình an nhờ máu Người đổ ra trên thập giá” (Cl 1,20)
55. Giao ước giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn trong Cựu Ước là một thời khắc dứt khoát của nền văn hoá sự sống toàn diện. Gia Vê là Chúa quy định những gì được làm để đảm bảo sự sống; con người là chủ thể tán đồng, trong sự tự do phục tùng, đối với ý định của Thiên Chúa. Nhưng nó cũng rất có ý nghĩa khi quan hệ giao ước được mô tả rằng bằng những từ thân mật trong gia đình, trong tình vợ chồng và trong các mối quan hệ. Vì thế, Thiên Chúa chăm sóc và đem đến cho dân được tuyển chọn tình cảm dịu dàng nhất và không thể diễn tả được: “Ta đã đỡ cánh tay nó trong vòng tay ta… Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng... Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hs 11; 3-4); “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,13). Ngay cả ngôn ngữ hiệp thông giữa chàng rễ và cô dâu cũng được sử dụng (x. Hs 2,16.19-20). Những lời dưới đây minh hoạ cho sự dịu dàng trong tình yêu trao ban sự sống của Thiên Chúa đối với con người: “Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!… Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43,1.4). Mối quan hệ có tính gia đình trong giao ước của Thiên Chúa với dân được tuyển chọn được biểu trưng bởi lòng kiên nhẫn vô hạn, sự tốt lành, sự gọi mời đổi mới, lòng nhân từ và sự tha thứ.
56. Vì sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa trên họ, dân của giao ước được dạy bảo phải chủ động liên đới với mọi người. Điều này đòi hỏi sứ mệnh phục vụ người khác đặc biệc với người cần giúp đỡ, trẻ mồ côi, goá phụ và người xa lạ (Xh 22,22-23; Đnl 24,17-22; Is 1,17; Gr 22,3; Dcr 7,10). Cuối cùng, khi mối quan hệ giao ước dường như bị phá vỡ hoàn toàn vì sự bất trung bướng bỉnh, tình yêu thương ban sự sống của Thiên Chúa hứa một sự biến đổi hoàn toàn qua cụm từ “quả tim mới” để sự tái tạo hình dạng của Thiên Chúa dễ dàng uốn nắn (x Ed 11,19; 36,26)
57. Đối với Cựu Ước, nền văn hoá sự sống toàn diện rõ ràng bao gồm bốn điểm chính sau: 1. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa của tình yêu, 2. sự hiệp thông và liên đới với Thiên Chúa và với anh em, gồm sứ mệnh phục vụ nhất là đối với người nghèo và người cần giúp đỡ, 3. sự sống là đòi hỏi của giao ước, 4. và lời hứa của Thiên Chúa về sự sống tràn đầy. Nhận thức này sẽ giúp tìm thấy trọn vẹn chủ đề chủ đạo của Cựu Ước về Nước Thiên Chúa trong ngày tận thế, mà cuối cùng thì sự sống chính trực được giữ gìn và con người khao khác được tràn đầy (x. Tv 97, 11-12; 145,13.17-21; Kn 4, 7-14)
2. Chúa Giêsu chính là Sự sống: Tình yêu được chia sẽ, Hiệp thông và Liên đới
58. Khi xem xét đến cùng, thì trong ánh sáng của mầu nhiệm của Chúa Giêsu, sự sống mang ý nghĩa mạc khải trọn vẹn như là sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa không nơi đâu vượt hơn và sánh bằng khi Người sai Con một mang thân phận con người của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi - để chúng ta có được sự sống đời đời (Ga 3,16). Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Lời của Sự Sống (1 Ga 1,1). Do hoà toàn làm chủ sự sống, Người có thể hy sinh sự sống mình vì sự chối từ của kẻ khác và có thể “lấy lại” (Ga 10,17-18; Ga 5,26). Để tự mặc khải mình sau cùng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Sau đó Người dạy về lòng tin, việc tuân giữ lời Người, và sự hiệp thông mật thiết của tình yêu. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy (Ga 14,23). Người chính là sự sống, Người mô tả sứ mệnh của Người trên thế gian như là ban sự sống, là liên đới cứu độ người khác, “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhiều lần Người thuật lại sứ mệnh ban sự sống của Người trong Nước Thiên Chúa, Nước mà Người nói đến có đường lối khác hoàn toàn, tầm thường và hèn mọn (Các mối phúc thật trong Mt 5,3-10), ngay khi nói rằng không có “sự tái sinh” thì một người không thể thấy Nước Thiên Chúa (Ga 3, 3-8). “Sự Sống”, sự sống toàn diện, là những gì mà những quy tắc trước hết trải qua trong và thông qua Chúa Giêsu. Thánh Gioan diễn tả một cách sinh động những kinh nghiệm của họ. Những gì họ đã “nghe”, “thấy”, “xem như”, và “sờ tận tay” không chỉ là sự tồn tại về mặt thể lý mà còn có sự khác biệt hoàn toàn - sự siêu việt - chất lượng của sự sống. Đối với họ Chúa Giêsu là người đến để mang lại sự sống tràn đầy.
59. Tại chính nơi Bí Tích Thánh Tẩy mà sự sống mới này được trao ban. Qua Bí Tích Thánh Tẩy, người tín hữu vượt qua cái chết do tội lỗi để vào sự sống trong Đức Kitô (Rm 6,4; Cl 2,12). Từ Đức Kitô đến “Nước Hằng Sống” đã trở thành “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Hơn thế nữa, Người là “Bánh Hằng Sống” (Ga 6,34.48) là Bánh từ “trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6, 33). Ở đây, Chúa Giêsu nói đến Sự Hiệp Thông trong Bí Tích Thánh Thể, trong Mình và Máu của Người: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời “ (Ga 6,54). “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Đó là lý do để Tông Đồ Phaolô vui mừng hoan hỉ: “vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21). Còn Thánh Gioan công bố: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).
3. Đời sống giao ước trong Thánh Thần: Gia đình của Thiên Chúa, Giáo Hội
60. Tình yêu ban sự sống của Chúa Giê su có ý nghĩa lớn hơn, chứ không chỉ đơn thuần là mối quan hệ cá nhân giữa các tín hữu và Chúa Giêsu. Một lần nữa, giao ước tình yêu và sự sống, giờ “được in dấu bằng Máu” của Chúa Giêsu, đặt ở trung tâm của mối quan hệ mới giữa Thiên Chúa và dân mới của đức tin được trao ban một điều răn mới. Điều răn mới cũng là một sứ mệnh: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35). Không có sự hiệp thông tình yêu và sự sống nào sâu sắc hơn sự hiệp thông này - sự sẻ chia chính Mình và Máu của Chúa Giêsu, là toàn thể sự sống của Người, với những người tín hữu. Tình yêu hiến tế của Người đã làm nảy sinh một cộng đoàn mới, gia đình của đức tin sinh ra trong Thánh Thần. “Nhưng khi Chúa Giêsu chết và ‘trao Thần Khí của Người’ cho Thiên Chúa, Người cũng trao Thần Khí của Người cho Giáo Hội trong cùng một hành động” [Tự Điển Thần Học Kinh Thánh, Xavier Leon-Dufour cập nhật lần thứ hai, 1982; Ga 19:30] Vì thế Giáo Hội được sinh ra như một thọ tạo mới (2 Cr 5,17), như là “ngôi nhà” của Thiên Chúa, như chính gia đình của Thiên Chúa (Ep 2,19; 1 Tm 3,15) được sinh ra trong Thần Khí của Chúa Giêsu, Thần Khí của Sự Sống [Giáo Hội như là gia đình của Thiên Chúa đã là trung tâm điểm nổi bật của Nghị Hội đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám Mục Phi Châu. Xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Giáo Hội ở Phi Châu, 199]
61. Sự Sống trong Đức Kitô là Sự Sống trong Thần Khí (x Rm 8,1.9-10). Chỉ có đức tin mới thấy được sự sống đó. Nhưng thật ra, chắc chắn có những dấu hiệu của sự sống của Thần Khí đang tồn tại. Những dấu hiệu này là “hoa quả của Thần Khí” - bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22). Thánh Phaolô mang ngôn ngữ của tình yêu để nhận thức về sự sống trong Nước Thiên Chúa khi ngài viết: “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Tương phản với sự sống theo Thần Khí là sự sống theo xác thịt biểu thị bằng “những việc do tính xác thịt” - “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-21). Xa lánh “những việc do tính xác thịt” này là một yêu cầu cơ bản của giao ước mới. Thánh Phaolô đã tóm kết mối quan hê giao ước bằng các từ ngữ của sứ mệnh tình yêu và phục vụ người lân cận:
Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’ (Gl 5, 13-14)
62. Vì thế, để sống trong Thần Khí, là hướng sự sống đến hiệp thông và liên đới với mọi người và vì mọi người. Sự hiệp thông và liên đới này trở nên đáng kính hơn khi Thánh Phaolô nói rằng Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô, là nơi mỗi thành phần đều quan trọng và bổ sung cho nhau. Có các chi thể khác nhau nhưng Thân thể thì chỉ một. Trong Thân Thể này có sự thống nhất trong sự đa dạng, bổ sung lẫn nhau trong sự khác biệt và đồng trách nhiệm để xây dựng nên toàn thể (Rm 12,4-5; 1 Cr 12,4-7.; 12,12; Ep 4,16).
63. Cũng như trong Cưụ Ước, những vấn đề chính nổi lên trong Tân Ước là quà tặng Sự Sống của Thiên Chúa, lời hứa của Thiên Chúa về Sự sống Tràn đầy, Tình yêu, Sự Hiệp thông, Tình Liên đới và Truyền giáo. Chúng là những chiều kích cơ bản của nền văn hoá sự sống toàn diện. Thiên Chúa là Sự Sống. Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu mà chúng ta được sống. Nếu chúng ta được sống, thì chúng ta có tình yêu. Nếu chúng ta yêu thương, chúng ta hoạt động hướng về sự hiệp thông và liên đới - và phục vụ tha nhân. Trong ánh sáng của suy tư trên, chúng ta có thể hiểu tại sao Tin Mừng của Chúa Giêsu được gọi là “Tin Mừng Sự Sống” và tại sao Nước Thiên Chúa được công bố qua Chúa Giêsu “đang hiện diện bây giờ và sẽ đến” là nước của sự sống tràn đầy.
A. Khuôn khổ và tiến trình suy tư
50. Mục đích của suy tư thần học mục vụ này nhằm giúp đưa ra các đáp ứng đức tin đối với những câu hỏi nêu trên. Điều này dựa trên dữ liệu Kinh Thánh và các Giáo Huấn của Giáo Hội, và luôn lưu ý đến các yếu tố chính yếu về tình hình mục vụ vốn đang thử thách sứ mệnh Rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Khuôn khổ suy tư sẽ là: Sự sống, Hiệp thông, Liên đới và Truyền Giáo. Nó đi theo tiến trình dưới đây:
(a) Nền văn hoá sự chết trong hoàn cảnh Á Châu, chúng tôi đáp trả bằng cách trình bày viễn tượng của một nền văn hoá sự sống toàn diện với một định hướng đặc biệt về hôn nhân và gia đình. Chúng tôi hình dung nền văn hoá sự sống toàn diện được đặt trọng tâm vào sự sống giao ước với Thiên Chúa, nơi mà các giá trị của Nước Thiên Chúa như tình yêu thương, sự hiệp thông, và tình liên đới trong các cá nhân, các gia đình và toàn xã hội.
(b) Chúng tôi trình bày nền văn hoá sự sống toàn diện này như là quà tặng và cũng là một nhiệm vụ được Chúa trao ban trong Chúa Giêsu và qua Chúa Giêsu, người đã nâng cao sự sống con người bằng cách tiết lộ và chia sẻ điều đó với chúng ta trong Giáo Hội qua Chúa Thánh Thần.
(c) Sau đó chúng tôi suy tư về bản thân Giáo Hội như là Gia đình của Thiên Chúa, để phục vụ như một dấu chỉ và như một lời hứa về sự sống toàn diện ở Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa mà Người công bố là sự đáp trả đức tin của chúng ta đối với nền văn hoá sự chết vốn đe doạ đến mỗi giá trị Tin Mừng mà gia đình được trao ban từ lúc khởi nguyên. Chúng tôi cho rằng nhận thức này thật là ý nghĩa trong ánh sáng của bản chất đa dạng đa dạng cũa nhiều gia đình Á Châu.
(d) Suy nghĩ sâu xa hơn về viễn tượng Kitô giáo, chúng tôi suy tư về bản chất mà Thiên Chúa trao ban cho hôn nhân và gia đình trong ánh sáng của những giá trị cơ bản về kết ước, tình yêu thương, hiệp thông và liên đới. Việc đẩy mạnh suy tư của chúng tôi liên quan đến gia đình không chỉ đơn thuần với mục tiêu được truyền mà quan trọng hơn khám phá căn tính của gia đình như là một đề tài sứ mạng nội tại (missio ad intra) tự trong chính gia đình là việc truyền giáo bên ngoài cho những người khác (missio ad extra) hướng về văn hoá sự sống toàn diện trong Nước Thiên Chúa.
(e) Để được chắc chắn rằng suy tư của chúng tôi không bị trừu tượng và khô khan, chúng tôi áp dụng vào đó một số thách đố chính liên quan đến xã hội, văn hoá và giáo hội ở Á Châu.
(f) Bước cuối cùng của suy tư của chúng tôi trong sứ mệnh gia đình hướng về văn hoá sự sống toàn diện hoà nhập vào tất cả các bước trên. Chính trên linh đạo này mà gia đình cần đến ở Á Châu để nhận thức được bản chất của gia đình và hoàn thành sứ mạng của gia đình.
B. Nền Văn Hoá của Sự Sống Toàn Diện
52. Trong khi nền văn hoá đang nổi lên rõ ràng đã có nhiều đóng góp tích cực cho thế giới chúng ta, thì một thách đố đối với các gia đình Á Châu là việc Rao giảng Tin Mừng và giải phóng nền văn hoá đó bằng cách chuyển hoá nó sang một nền văn hoá của sự sống toàn diện để nó không trở nên đối nghịch với sự sống con người toàn diện. Để hiểu nền văn hoá của sự sống và tính nghiêm trọng của những đe doạ chống lại nền văn hoá này, các truyền thống tôn giáo và triết học xa xưa của Á Châu chắc chắc sẽ trở nên hữu dụng. Và chắc chắc rằng sẽ có nhiều hội tụ trong việc thông hiểu. Tuy nhiên, suy tư mục vụ và thần học của chúng ta sẽ bắt đầu từ nhận thức về niềm tin tôn giáo của chính chúng ta (niềm tin Kitô giáo). Từ nhận thức này, chúng ta cần phải hiểu và đáng giá đúng sự sống con người trong ý nghĩa toàn diện, tức là sự sống trong bản chất nó và phẩm chất vốn có của nó, sự sống như là quà tặng của Thiên Chúa (x. St 2.7; Cv 17,25) và sự chia sẻ sự sống của Thiên Chúa (x. Rm 6,23; Ga 4,10,14; Kh 21,6), sự sống tồn tại cho đến hôm nay đấu tranh không ngừng để hướng đến sự tràn đầy, là vận mệnh vĩnh cữu của nó (Rm 6,22), sự sống trong sự tràn đầy của bản thân nó (Ga 10,10) trong Nước Thiên Chúa sẽ đến. Từ quan điểm này, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng tôi lên án mọi hành vi mất nhân tính, bóc lột và áp bức sự sống con người. Bất kỳ hoàn cảnh, mối tương quan, cấu trúc, tình huống, hành vi hoặc hành động nào đe doạ và làm giảm giá trị sự sống đều là thái độ của sự chết (xem GS, 27) là thành phần của văn hoá sự chết. Nó chống lại ý định của Thiên Chúa và Nước Thiên Chúa. Ngược lại, nền văn hoá hướng về sự sống toàn diện thì tôn trọng, khuyến khích, đề cao, nâng đỡ và phục vụ cho sự sống con người trong mọi chiều kích của nó, từ hành vi cứu cánh cho sự thụ thai đến lúc sinh ra, xuyên qua những cuộc đấu tranh trong đời sống ở thế gian để rồi trở về với sự sống tràn đầy của Thiên Chúa lúc cuối đời (2 Tm 1,10; 4,1; Hcb 9,27-28) nơi Nước Thiên Chúa. Nhận thức này về sự sống trọn vẹn mang hàm ý sâu sắc trong ý nghĩa “phò sự sống” và trong phạm vi của thừa tác vụ gia đình.
1. Giao ước Tình Yêu và Sự sống, Hiệp thông và Liên đới
53. Theo Kinh Thánh, nền tảng của nền văn hoá sự sống toàn diện là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Đấng Ban Sự Sống cho muôn loài đặc biệt là sự sống con người (xem St 1, 26-28; 2,7; Kn 15,11). Trong Sách Sáng Thế chúng ta có thể thấy được một thông đạt chắc chắn của Thiên Chúa Ba Ngôi sẻ chia sự hiệp thông với nhân loại: “Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta… Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ (St 1,26-27- NRSV). Như thế, sự sống con người bắt đầu chỉ vì Tình yêu của Thiên Chúa. Được tạo dựng từ hình ảnh của Thiên Chúa, sự sống chính là quà tặng của Thiên Chúa. Vì lý do này, sự sống của mỗi con người, cho dù nghèo khổ hay kém phẩm giá, vẫn luôn quý giá và thiêng liêng. Không con nghi ngờ gì nữa, các câu chuyện sáng tạo trong Kinh Thánh đã đưa việc sáng tạo loài người lên đỉnh điểm cao nhất. Nhưng chúng ta cần nhận thức rằng bởi do hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà toàn thể vũ trụ là một mạng lưới phức tạp có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó loài người thực hiện trách nhiệm quản lý, phản ánh quyền thống trị chăm sóc yêu thương của chính Thiên Chúa. Vì lý do này, trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, có sự liên đới trong tất cả loài thụ tạo được biểu trưng bởi sự hoà hợp và sự phụ thuộc lẫn nhau. Đối với con người, sự liên đới như thế luôn luôn được tự do lựa chọn, vì thế ngăn chặn sự thiết lập giả tạo tình liên đới bằng quyền lực hiển nhiên.
54. Tân Ước cũng nói thêm về đỉnh điểm sự hoà nhập trong ý định này của Thiên Chúa. Đỉnh cao nhất cũng như trung tâm của mọi loài thọ tạo là Đức Kitô, “là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành… tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,15,16). Nhờ Người “mọi sự dù trên trời hay dưới đất” và mọi quan hệ đổ vỡ được hoà giải với Người, “đem lại bình an nhờ máu Người đổ ra trên thập giá” (Cl 1,20)
55. Giao ước giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn trong Cựu Ước là một thời khắc dứt khoát của nền văn hoá sự sống toàn diện. Gia Vê là Chúa quy định những gì được làm để đảm bảo sự sống; con người là chủ thể tán đồng, trong sự tự do phục tùng, đối với ý định của Thiên Chúa. Nhưng nó cũng rất có ý nghĩa khi quan hệ giao ước được mô tả rằng bằng những từ thân mật trong gia đình, trong tình vợ chồng và trong các mối quan hệ. Vì thế, Thiên Chúa chăm sóc và đem đến cho dân được tuyển chọn tình cảm dịu dàng nhất và không thể diễn tả được: “Ta đã đỡ cánh tay nó trong vòng tay ta… Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng... Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hs 11; 3-4); “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” (Is 66,13). Ngay cả ngôn ngữ hiệp thông giữa chàng rễ và cô dâu cũng được sử dụng (x. Hs 2,16.19-20). Những lời dưới đây minh hoạ cho sự dịu dàng trong tình yêu trao ban sự sống của Thiên Chúa đối với con người: “Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!… Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43,1.4). Mối quan hệ có tính gia đình trong giao ước của Thiên Chúa với dân được tuyển chọn được biểu trưng bởi lòng kiên nhẫn vô hạn, sự tốt lành, sự gọi mời đổi mới, lòng nhân từ và sự tha thứ.
56. Vì sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa trên họ, dân của giao ước được dạy bảo phải chủ động liên đới với mọi người. Điều này đòi hỏi sứ mệnh phục vụ người khác đặc biệc với người cần giúp đỡ, trẻ mồ côi, goá phụ và người xa lạ (Xh 22,22-23; Đnl 24,17-22; Is 1,17; Gr 22,3; Dcr 7,10). Cuối cùng, khi mối quan hệ giao ước dường như bị phá vỡ hoàn toàn vì sự bất trung bướng bỉnh, tình yêu thương ban sự sống của Thiên Chúa hứa một sự biến đổi hoàn toàn qua cụm từ “quả tim mới” để sự tái tạo hình dạng của Thiên Chúa dễ dàng uốn nắn (x Ed 11,19; 36,26)
57. Đối với Cựu Ước, nền văn hoá sự sống toàn diện rõ ràng bao gồm bốn điểm chính sau: 1. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa của tình yêu, 2. sự hiệp thông và liên đới với Thiên Chúa và với anh em, gồm sứ mệnh phục vụ nhất là đối với người nghèo và người cần giúp đỡ, 3. sự sống là đòi hỏi của giao ước, 4. và lời hứa của Thiên Chúa về sự sống tràn đầy. Nhận thức này sẽ giúp tìm thấy trọn vẹn chủ đề chủ đạo của Cựu Ước về Nước Thiên Chúa trong ngày tận thế, mà cuối cùng thì sự sống chính trực được giữ gìn và con người khao khác được tràn đầy (x. Tv 97, 11-12; 145,13.17-21; Kn 4, 7-14)
2. Chúa Giêsu chính là Sự sống: Tình yêu được chia sẽ, Hiệp thông và Liên đới
58. Khi xem xét đến cùng, thì trong ánh sáng của mầu nhiệm của Chúa Giêsu, sự sống mang ý nghĩa mạc khải trọn vẹn như là sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa không nơi đâu vượt hơn và sánh bằng khi Người sai Con một mang thân phận con người của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi - để chúng ta có được sự sống đời đời (Ga 3,16). Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Lời của Sự Sống (1 Ga 1,1). Do hoà toàn làm chủ sự sống, Người có thể hy sinh sự sống mình vì sự chối từ của kẻ khác và có thể “lấy lại” (Ga 10,17-18; Ga 5,26). Để tự mặc khải mình sau cùng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Sau đó Người dạy về lòng tin, việc tuân giữ lời Người, và sự hiệp thông mật thiết của tình yêu. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy (Ga 14,23). Người chính là sự sống, Người mô tả sứ mệnh của Người trên thế gian như là ban sự sống, là liên đới cứu độ người khác, “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhiều lần Người thuật lại sứ mệnh ban sự sống của Người trong Nước Thiên Chúa, Nước mà Người nói đến có đường lối khác hoàn toàn, tầm thường và hèn mọn (Các mối phúc thật trong Mt 5,3-10), ngay khi nói rằng không có “sự tái sinh” thì một người không thể thấy Nước Thiên Chúa (Ga 3, 3-8). “Sự Sống”, sự sống toàn diện, là những gì mà những quy tắc trước hết trải qua trong và thông qua Chúa Giêsu. Thánh Gioan diễn tả một cách sinh động những kinh nghiệm của họ. Những gì họ đã “nghe”, “thấy”, “xem như”, và “sờ tận tay” không chỉ là sự tồn tại về mặt thể lý mà còn có sự khác biệt hoàn toàn - sự siêu việt - chất lượng của sự sống. Đối với họ Chúa Giêsu là người đến để mang lại sự sống tràn đầy.
59. Tại chính nơi Bí Tích Thánh Tẩy mà sự sống mới này được trao ban. Qua Bí Tích Thánh Tẩy, người tín hữu vượt qua cái chết do tội lỗi để vào sự sống trong Đức Kitô (Rm 6,4; Cl 2,12). Từ Đức Kitô đến “Nước Hằng Sống” đã trở thành “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Hơn thế nữa, Người là “Bánh Hằng Sống” (Ga 6,34.48) là Bánh từ “trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6, 33). Ở đây, Chúa Giêsu nói đến Sự Hiệp Thông trong Bí Tích Thánh Thể, trong Mình và Máu của Người: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51). “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời “ (Ga 6,54). “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Đó là lý do để Tông Đồ Phaolô vui mừng hoan hỉ: “vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21). Còn Thánh Gioan công bố: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).
3. Đời sống giao ước trong Thánh Thần: Gia đình của Thiên Chúa, Giáo Hội
60. Tình yêu ban sự sống của Chúa Giê su có ý nghĩa lớn hơn, chứ không chỉ đơn thuần là mối quan hệ cá nhân giữa các tín hữu và Chúa Giêsu. Một lần nữa, giao ước tình yêu và sự sống, giờ “được in dấu bằng Máu” của Chúa Giêsu, đặt ở trung tâm của mối quan hệ mới giữa Thiên Chúa và dân mới của đức tin được trao ban một điều răn mới. Điều răn mới cũng là một sứ mệnh: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35). Không có sự hiệp thông tình yêu và sự sống nào sâu sắc hơn sự hiệp thông này - sự sẻ chia chính Mình và Máu của Chúa Giêsu, là toàn thể sự sống của Người, với những người tín hữu. Tình yêu hiến tế của Người đã làm nảy sinh một cộng đoàn mới, gia đình của đức tin sinh ra trong Thánh Thần. “Nhưng khi Chúa Giêsu chết và ‘trao Thần Khí của Người’ cho Thiên Chúa, Người cũng trao Thần Khí của Người cho Giáo Hội trong cùng một hành động” [Tự Điển Thần Học Kinh Thánh, Xavier Leon-Dufour cập nhật lần thứ hai, 1982; Ga 19:30] Vì thế Giáo Hội được sinh ra như một thọ tạo mới (2 Cr 5,17), như là “ngôi nhà” của Thiên Chúa, như chính gia đình của Thiên Chúa (Ep 2,19; 1 Tm 3,15) được sinh ra trong Thần Khí của Chúa Giêsu, Thần Khí của Sự Sống [Giáo Hội như là gia đình của Thiên Chúa đã là trung tâm điểm nổi bật của Nghị Hội đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám Mục Phi Châu. Xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Giáo Hội ở Phi Châu, 199]
61. Sự Sống trong Đức Kitô là Sự Sống trong Thần Khí (x Rm 8,1.9-10). Chỉ có đức tin mới thấy được sự sống đó. Nhưng thật ra, chắc chắn có những dấu hiệu của sự sống của Thần Khí đang tồn tại. Những dấu hiệu này là “hoa quả của Thần Khí” - bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22). Thánh Phaolô mang ngôn ngữ của tình yêu để nhận thức về sự sống trong Nước Thiên Chúa khi ngài viết: “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Tương phản với sự sống theo Thần Khí là sự sống theo xác thịt biểu thị bằng “những việc do tính xác thịt” - “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-21). Xa lánh “những việc do tính xác thịt” này là một yêu cầu cơ bản của giao ước mới. Thánh Phaolô đã tóm kết mối quan hê giao ước bằng các từ ngữ của sứ mệnh tình yêu và phục vụ người lân cận:
Quả thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình’ (Gl 5, 13-14)
62. Vì thế, để sống trong Thần Khí, là hướng sự sống đến hiệp thông và liên đới với mọi người và vì mọi người. Sự hiệp thông và liên đới này trở nên đáng kính hơn khi Thánh Phaolô nói rằng Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô, là nơi mỗi thành phần đều quan trọng và bổ sung cho nhau. Có các chi thể khác nhau nhưng Thân thể thì chỉ một. Trong Thân Thể này có sự thống nhất trong sự đa dạng, bổ sung lẫn nhau trong sự khác biệt và đồng trách nhiệm để xây dựng nên toàn thể (Rm 12,4-5; 1 Cr 12,4-7.; 12,12; Ep 4,16).
63. Cũng như trong Cưụ Ước, những vấn đề chính nổi lên trong Tân Ước là quà tặng Sự Sống của Thiên Chúa, lời hứa của Thiên Chúa về Sự sống Tràn đầy, Tình yêu, Sự Hiệp thông, Tình Liên đới và Truyền giáo. Chúng là những chiều kích cơ bản của nền văn hoá sự sống toàn diện. Thiên Chúa là Sự Sống. Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu mà chúng ta được sống. Nếu chúng ta được sống, thì chúng ta có tình yêu. Nếu chúng ta yêu thương, chúng ta hoạt động hướng về sự hiệp thông và liên đới - và phục vụ tha nhân. Trong ánh sáng của suy tư trên, chúng ta có thể hiểu tại sao Tin Mừng của Chúa Giêsu được gọi là “Tin Mừng Sự Sống” và tại sao Nước Thiên Chúa được công bố qua Chúa Giêsu “đang hiện diện bây giờ và sẽ đến” là nước của sự sống tràn đầy.