Người giáo dân việt nam trong mắt tôi
(tiếp cận sự đào luyện qua sách giáo lý)
Phần mở đầu
Tôi được ban tổ chức hội thảo gợi ý một chủ đề rất hay Người giáo dân Việt Nam trong mắt tôi... Là người ít nhiều có nghiên cứu lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam, từ lâu tôi cũng có những suy nghĩ về chủ đề này. Song phải thú thực là trong tôi hình ảnh người Giáo dân Việt Nam và đặc biệt họ “sống Đạo” như thế nào cũng chưa thực ổn định và rõ nét. Về đại thể, tôi cũng hiểu rằng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam có truyền thống lâu đời so với nhiều nước trong khu vực và đời sống đạo của người Kitô hữu Việt Nam từ lâu đã có nền nếp, có sự định vị. Tôi cũng chia xẻ cái nhìn chung là, nếp sống đạo ấy vẫn theo mô hình Giáo hội thời kỳ Trung cổ phương Tây mà lịch sử quen gọi là thời đại “Kitô giới” (chrétiente). nhưng tôi cũng hiểu rằng, cộng đồng Kitô hữu Việt Nam không phải là một thực thể đơn nhất. Trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam sự tiếp nhận Phúc Âm qua nhiều Dòng tu thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Phải chăng, ở những giáo xứ, giáo phận có nguồn gốc của các dòng Đa Minh, Phan Sinh của Tây Ban Nha và ý cũng có những nét khác so với những khu vực chịu ảnh hởng của Hội Truyền giáo nước ngoài Paris? Sự khác biệt này trong tôi có thể còn lờ mờ, nhưng tôi vẫn tin rằng có sự khác biệt giữa các cộng đồng ấy. Mặt khác, tôi cũng hiểu rằng, nh nhận định của nhiều nhà nghiên cứu Công giáo nh của Lm Trần Tam Tỉnh rằng: Đời sống đạo của người Kitô hữu Việt Nam được truyền từ phương Tây sang từ thế kỷ XVI vẫn giữ nguyên bầu khí của thời trung cổ ấy. Củng cố cho nhận xét này, gần đây tôi có chú ý bài viết Vài nhận định về đời sống Kitô giáo tại Việt Nam của T Cù đăng trên Thời Sự Thần học số 23 (3/2001). Tác giả này viết: “Trong một thời gian dài, người Kitô hữu Việt Nam thường tụ tập lại thành xóm đạo và đời sống có phần đóng kín trong những sinh hoạt của làng xóm mình... Mọi sinh hoạt đạo và đời thường được tổ chức một cách kỹ lỡng và bao trùm hết đời sống. Đời sống Đức tin của mỗi người, do đó, vẫn còn được tháp nhập vào sinh hoạt đạo đức trong giáo xứ và vẫn “chạy” trong quỹ đạo của những tổ chức tôn giáo...”
Trong nhận xét thứ hai này, tôi rất tâm đắc với sự phân tích của tác giả nh sau: “Trong cung cách sống đạo hiện nay, nếp sống của người Kitô hữu thường được quy định bằng những luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể: làm dấu, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay... Có lẽ nhiều “chức sắc” trong giáo hội vẫn đặt người Kitô hữu vào vị thế nh những tín hữu thời trung cổ, nghĩa là những Kitô hữu ít học và cần những hướng dẫn tỉ mỉ, rõ ràng để giữ luật bằng cách chu toàn những việc cụ thể... Người Kitô hữu cố gắng giữ luật để khỏi phạm tội chứ ít hiểu rằng giữ luật là một sự tín trung với chúa; người Kitô hữu đi lễ nh một trách nhiệm phải chu toàn chứ không sống tinh thần hiệp thông liên đới với cộng đoàn...”
nhưng mặt khác, trong nhận thức của tôi, một mặt, tôi muốn tìm hiểu vì sao lại hình thành lối “sống Đạo” nh vậy và tạo nên hình ảnh nh vậy về người Kitô hữu Việt Nam. Mặt khác, có một lôgíc khi nghiên cứu lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam mà tôi có phần được trải nghiệm là: Dù thế nào, người Việt Nam trước khi trở thành người Công giáo và ngay cả khi đã là người Công giáo vẫn giữ trong mình một căn bản văn hoá Việt Nam không thể trộn lẫn. Vì thế, cần phải đặt ra câu hỏi, trong quá trình hình thành nếp sống đạo ấy qua nhiều thế kỷ, từ người truyền đạo đến người tiếp nhận thứ “đạo lạ” ấy đã chịu tác động nh thế nào của quy luật tâm lý và nhận thức nói trên.
Về phương diện “tôn giáo học”, việc nghiên cứu đời sống đạo, tôi cố tìm nhưng cũng cha thấy ai định nghĩa đầy đủ khái niệm này. Sống đạo (Vécu religieux) phải chăng có khác đời sống tôn giáo (La vie religieuse) nói chung? Nhiều người nghiên cứu tôn giáo cũng thấy khó phân biệt các sự kiện tôn giáo và việc sống đạo, bởi vì việc thực hành tôn giáo thường được thực hiện một cách bình lặng dù đó là những cử hành phụng vụ thường kỳ tuỳ theo các nghi lễ hay các hoạt động giáo dục, từ thiện, các hoạt động lễ hội theo cảm hứng tôn giáo. Tôi rất thích thú với nhận xét của nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng người Pháp J.Baubérot: “Giống nh các cặp vợ chồng hạnh phúc, việc sống đạo thường bình yên nh không có chuyện gì đáng để kể một cách công khai. nhưng thực tế về mặt xã hội thì to lớn và hầu nh không nhìn thấy được”. Nhà nghiên cứu này còn gợi ý rằng, trong điều kiện xã hội châu Âu hiện nay “việc sống đạo là một trong những điểm mù khó nhận thấy”. Nh vậy thì, việc cắt nghĩa được đời sống đạo dù là trong quá khứ của người Kitô hữu Việt Nam là điều không dễ dàng. Chính vì thế, chúng tôi đi đến quyết định: Để tìm hiểu hình ảnh người giáo dân Việt Nam (chủ yếu trong lịch sử) chúng tôi muốn tiếp cận ở góc độ việc giảng dạy và học tập giáo lý trong cộng đồng này. nhưng ngay cả việc này cũng không dễ dàng vì việc su tầm các sách giáo lý cơ bản là một thách đố đầu tiên. Ai cũng biết từ giữa thế kỷ XVII, ở Việt Nam đã xuất hiện một cuốn sách giáo lý đầu tiên gắn liền với tên tuổi của nhân vật nổi tiếng: A.De Rhodes đó là cuốn Phép giảng tám ngày. Nhưng sách giáo lý lại có nhiều loại cho nhiều đối tượng nên việc tiếp cận càng khó khăn. Những tìm hiểu của chúng tôi dưới đây chắc hẳn chỉ là bước đầu mong được coi là một cách để giải mã hình ảnh người giáo dân Việt Nam... sách giáo lý và sách giáo lý ở việt nam
Lm Nguyễn Văn Tuyên trong cuốn sách Sư phạm giáo lý có đưa ra định nghĩa sau: “Giáo lý (Huấn giáo) là sự trình bày lời Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể sống động để giúp tín hữu hiểu và sống đức tin”. Việc trình bày kho tàng Đức tin theo tác giả này là một phương thức thi hành nhiệm vụ giảng huấn của giáo hội bao gồm ba mặt: một, loan Tin Mừng cho những người chưa tin gọi là truyền giảng Phúc Âm; hai, giúp tín hữu đào sâu chân lý Đức tin gọi là Huấn giáo hay Giáo lý. Trình bày về Giáo lý cho người Dự tòng gọi là tiền giáo lý (Precatéchèse); ba, diễn giải Màu nhiệm Kitô giáo trong khuôn khổ Phụng vụ nhằm chủ đích Phụng vụ gọi là giảng thuyết.
Như vậy là, sách giáo lý có vai trò rất quan trọng trong việc truyền đạo và giáo dưỡng cho những người Dự tòng và Tân tòng.
Đành rằng Công giáo là “Tôn giáo của sách” cũng giống như Do thái giáo và Hồi giáo nghĩa là, căn bản Đức tin phải dựa trên sách Thánh, hay Kinh thánh (Bible). Nhưng với người Công giáo Việt Nam sau hơn 300 năm đón nhận Tin Mừng mới có thể được đọc Thánh kinh Kitô giáo bằng Việt ngữ (cả Cựu ước và Tân Ước) vào năm 1913-1914 qua bản dịch đầu tiên của cố chính Linh.
Điều đó có nghĩa là, thường thì người Công giáo được giáo huấn bằng một phương tiện khác, đó là sách Giáo lý (Catéchisme).
Theo Từ điển Đức tin Kitô giáo của nhóm O.de la Brosse, AM Henry và P.Rouillard được dịch năm 1998 thì từ Catéchisme có gốc từ chữ Hy Lạp Katèchein có nghĩa là Giảng dạy, giáo hoá, cũng có thể ý nghĩa “hành vi công bố, loan báo mạnh mẽ”. Sau này từ Katèchein có nghĩa rộng là: hành vi giáo hoá và giáo huấn của những người tin Chúa, sau khi họ trở lại. Chức năng đầu tiên của Giáo hội ngôn sứ, tức Giáo hội giảng dạy, sau khi loan báo Tin Mừng. Cũng được hiểu là nội dung việc giảng dạy này. Cũng có khi chỉ được hiểu là việc giảng dạy giáo lý dành cho các người mới trở lại, để chuẩn bị cho họ lãnh nhận các Bí tích gia nhập Kitô giáo, hoặc dành cho các trẻ em để hoàn tất việc gia nhập Kitô giáo, giúp các em có khả năng thuộc và biết giải nghĩa các điều chính yếu của kinh Tin Kính (Crédo).
Thực ra việc giảng dạy và học giáo lý dành cho người Kitô hữu là cả cuộc đời họ, nhất là qua các bài giảng và các bài diễn giải Phúc Âm ngày Chúa nhật, với mục đích là gia tăng sự hiểu biết về kho tàng Đức tin và đời sống Bí tích cho đến mức người trởng thành trong Chúa Kitô, vì thế có từ Catéchèse permanente hay Eucharistique, nghĩa là “Huấn giáo thường xuyên”.
Trong việc sống Đạo thì từ Catéchisme thường giới hạn bởi việc dạy giáo lý bằng các cuốn sách bổn, sách Giáo lý (xa còn gọi là sách Phần).
Việc giảng dạy về Đức tin và luân lý Kitô giáo ngày càng có hệ thống, nói chung dành cho 2 đối tượng chính đều là những người chọn mình gia nhập Kitô giáo: Thứ nhất, đó là các trẻ nhỏ đã được rửa tội và được chuẩn bị tuyên xưng Đức tin, lãnh nhận phép Thêm sức và phép Thánh thể. Thứ hai, dành cho người lớn “những người mới trở lại và được chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa tội” (các anh chị em Dự tòng).
Sách Giáo lý cổ nhất là cuốn Catéchisme romain hay Catéchisme du Conciee de Trente, xuất bản lần đầu bằng tiếng Latinh năm 1566 với sự chuẩn y của Giáo hoàng Piô V. Sách này được coi là việc Huấn quyền đầu tiên và thường lệ của Giáo hội và nhanh chóng được dịch ra tiếng Pháp, Ý (1567), Đức (1568), Balan...
Theo Lm Ngô văn Tuyên thì: “Lời Thiên Chúa có tính chất tuyệt đối, còn giáo lý chỉ là trình bày lời Thiên Chúa, do đó có thể và cần thay đổi, cải tiến” và có mô hình sau:
Mặc dù việc giáo huấn bằng sách Giáo lý có từ lâu, nhưng những tác giả biên soạn loại sách này trở nên nổi tiếng cũng chỉ vài thế kỷ nay. ở Pháp, giữa thế kỷ XIX, với tác phẩm L"Ouevre par excellence (1868) của “Vị Giám mục - giáo lý “Félix Dupanloup, Giám mục d’Orléans, người đã có công đưa phong trào học hỏi giáo lý lên đến đỉnh điểm. Tác phẩm về Giáo lý nói trên của vị Giám mục này được coi là một trong những tác phẩm đẹp nhất của văn học tôn giáo thế kỷ XIX, đồng thời với phương pháp huấn giáo tuyệt vời của ông ta, sách Giáo lý đã được coi là phương tiện cốt yếu đầu tiên của Giáo hội để chinh phục dân chúng.
Giáo lý Công giáo ngày nay đúng là đã được hệ thống hoá thành các phần, với các chương mục ổn định. Giáo hoàng G.Phaolô II, ngày 10-11-1992, nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vatican II đã ký sắc lệnh, ban hành cuốn Giáo lý Giáo hội Công giáo làm chuẩn mực cho Giáo hội toàn cầu.
Theo yêu cầu của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong phiên họp 9-1993, một tiểu ban Giám mục về Giáo lý đã được thành lập với mục đích biên soạn một tài liệu giáo lý chung cho Giáo hội Việt Nam, dựa trên nền tảng là sách Giáo chung của Hội thánh toàn cầu nói trên.
Ở Việt Nam, theo nhiều tác giả Công giáo, việc giảng dạy giáo lý trong thế kỷ XVI-XVII - một vấn đề trọng yếu trong quá trình truyền giáo - thường dùng các sách “Giáo lý Đại cương” gọi là Doctrina, chủ yếu các sách Giáo lý do các giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha biên soạn.
Đặc biệt, theo Nguyễn Khắc Xuyên và Phạm Đình Khiêm, việc xuất hiện 2 cuốn Giáo lý: Thiên Chúa thực lục của Minh Kiên (M.Ruggieri), xuất bản ở Phúc Kiến 1584 và Thiên Chúa thực nghĩa của Lợi Mã Đậu (M.Ricci), xuất bản ở Quảng Châu năm 1603 mới “đem lại một hậu quả không ngờ” trong các Nho sĩ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và Việt Nam”.
Tuy vậy, cũng theo 2 tác giả trên, phải đợi đến khi cha Đắc Lộ cho xuất bản cuốn Phép giảng tám ngày (Roma, 1651) in song ngữ chữ Latinh và Quốc ngữ thì mới có một cuốn Giáo lý thực sự. Ngoài ý nghĩa to lớn về ngôn ngữ và văn hoá với Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa sâu sắc trong việc truyền giáo của cả khu vực Viễn Đông. Các tác giả này viết: “Phép giảng tám ngày không phải cuốn Giáo lý đại cương hay Doctrina chúng ta nói ở trên, cũng không hẳn như Thiên Chúa thực lục chính văn hay Thiên Chúa thực nghĩa. Nó không phải chỉ là một sách Giáo lý không hơn không kém, cũng không phải chỉ là một cuốn Minh giáo tinh truyền như tác phẩm của Lợi tiên sinh. Thực ra chúng ta có thể gọi Phép giảng tám ngày là sách giáo lý, nhưng là sách giáo lý trình bày trong màu sắc Minh giáo, thích hợp cho một dân tộc, một văn hoá riêng biệt là xã hội Việt Nam vào thế kỷ XVII”6.
Về nghệ thuật giảng dạy giáo lý của cha Đắc Lộ trong sách này, các tác giả nhấn mạnh thêm 3 đặc điểm:
- Thứ nhất, trình bày Giáo lý theo lịch sử cứu rỗi hay một chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Phép giảng tám ngày cũng tránh được lối trình bày khô khan của các sách “Doctrina”, tạo sự hấp dẫn sống động.
- Thứ hai, sử dụng các giá trị văn hoá cố hữu của dân tộc để giới thiệu những chân lý mới, trình bày một giáo lý mới. Đặc biệt, trong “hai phần đầu”, cha Đắc Lộ vận dụng “tư tưởng con dân đất Việt thế kỷ XVII” về linh hồn, đời sau, về Trời, về Thượng đế... để bàn giải về Chúa trời là Cha cả, Thợ cả...
- Thứ ba, việc trình bày những chân lý Kitô giáo dưới những khía cạnh hợp lý, đúng lý (nhất là trong “2 ngày” đầu). Điều này thoả mãn nhu cầu duy lý của các nho sĩ lúc đó. Và từ đó dẫn đến logic rất thiết yếu cho việc truyền giáo: Kitô giáo phù hợp với lý trí con người và kẻ truyền đạo phải khéo trình bày giáo lý ấy.
Chúng tôi chưa thấy có những “tổng kết” lịch sử sách Giáo lý ở Việt Nam. Nhưng đại thể, sau sự mở đầu của Phép giảng tám ngày, quá trình ấy là nh sau đây:
Trước hết là trong Văn khố Hội Thừa sai Paris hoặc ở kho Lưu trữ Vatican, kho “Riti” (Bộ lễ nghi) chúng ta có thể còn được đọc những tập “theo phong cách A. de Rhodes” hoặc đơn giản hơn là các sách “các phép Saramento” kiểu như:
- Tam giáo chư vọng, 295 trang viết tay chữ Quốc ngữ gồm 3 cuốn. Tác giả tự xưng là Tây sĩ, tranh luận với Đông sĩ về Tam giáo (Nho, Đạo, Thích), viết năm 1752. Cùng với cuốn Opusculum de Sectis apud Simeues et Tunkineuses1, theo chúng tôi, có thể được coi là những cuốn sách nghiên cứu tôn giáo và đối thoại tôn giáo sớm nhất ở nước ta.
- Sách các phép Sacranento, 149 trang viết tay, chữ Latinh và Quốc ngữ, viết theo lối Hỏi (Thầy) và Đáp (Thưa) về các Bí tích rất thú vị, bao gồm cả sự hướng dẫn làm “các phép” này, không chỉ là nội dung, ý nghĩa “các phép”.
- Kinh cho kẻ đã được chịu lễ, 173 trang, năm 1762
Những văn bản loại này, đặc biệt một số thư từ của các giáo sĩ, giáo dân cho chúng ta hình dung ít nhiều buổi đầu học Đạo và sống Đạo của người Công giáo Việt Nam. Chẳng hạn một lá đơn của giáo dân xin phép Bề trên cho họ được dùng thủ tục lạy, như lạy sắc của Giáo hoàng, lạy xác cha mẹ, để “người bên lương khỏi cười” (khoảng năm 1749-1760).
Trong các thế kỷ tiếp theo, đặc biệt cuối XIX và thế kỷ XX, chúng tôi có mấy nhận xét về đặc điểm các sách Giáo lý ở nước ta nhu sau:
Thứ nhất, các giáo sĩ nước ngoài, chủ yếu các Giáo sĩ thuộc hội Thừa sai Pari vẫn chiếm vị trí chủ yếu, kể cả sách Giáo lý do họ viết hoặc dịch.
Vài ví dụ:
Ở ngoài Bắc, nhà in Minh Phú Đờng năm 1875 có cuốn Sách cát nghĩa các Lễ phép và chữ đỏ, do Falise “đã dọn”, “Đức Thày Chiêu và Cố Cao dịch ra tiếng Annam”, 440 trang. Sách này có cả Mục lục tra cứu rất thuận tiện và có Phụ lục: Sách các phép Roma, 82 trang. Năm 1907, nhà in Kẻ Sở có cuốn Sách Tóm lại các mẹo, in lần thứ tư, sách của M.Fautrat do cố Khánh dịch, 121 trang. Sách các mục Chú dẫn (appendix) rất công phu, song ngữ Pháp Việt, 82 trang. Nhà in Kẻ Sở cũng sớm cho ra mắt những cuốn dịch như Sách Selva, 530 trang về Thánh Alêphôngsô người Ý, do Lm PM. Lương dịch, in năm 1887.
Cố chánh Linh thực là tác giả quan trọng. Ngoài sách dịch Kinh Thánh (2 tập) đầu tiên đã nêu, ông còn có một số sách Giáo lý đáng chú ý như cuốn Sách dạy về gốc tích cội rễ sự Đạo, in tại Kẻ Sở, 1910, 541 trang... Năm 1925, Phú Nhai Đường xuất bản cuốn Sách giải nghĩa bẩy phép bí tích, 154 trang cố Trung (FP. Munagorri) soạn bằng chữ Quốc ngữ, theo lối hỏi, đáp đã trở nên rất quen thuộc.
Cũng như vậy, năm 1928, Phú Nhai Đường còn xuất bản cuốn Bàn giải nghĩa kinh Thiên Chúa kinh Ave... do cha Chính Già An soạn, 102 trang...
Ở Huế và miền Trung cũng có không ít sách Giáo lý như vậy.
Chẳng hạn: Lời hằng sống của Lm JMT, Huế, 1941, 141 trang; Kinh hát các ngày lễ quanh năm, cha FM. Lemasle soạn, 1938, 234 trang; Thánh Giáo yếu lý diễn ca, do Lm P.Lượng “dọn ra”, 1935, Nhà in Quy Nhơn, 119 trang, do đức cha Jeanningros (Đức cha Vị) và cha Chính “đã dọn”, 241 trang, nhà in Quy Nhơn, 1939, cũng theo lối Hỏi, Thưa...
Ở trong Nam, tiêu biểu là các cuốn: Sách Thiên Chúa Thánh giáo quảng nghĩa, “do một cha Phangsa về Dòng Thừa Sai Paris, lầu thông kinh sử”, qua giảng đạo Địa phận Nam kỳ từ 1897 soạn, Nhà Dòng cái Nhum chợ Lách, Vĩnh Long xuất bản, nhà in Tân Định, Sài Gòn, 1939, 615 trang. Có phụ bản: Hai bản đồ sứ Palestine thời Chúa Giêsu, điều ít thấy trong các sách Giáo lý ở nước ta. Nhà in Tân Định cũng xuất bản nhiều cuốn dịch như Truyện ông Thánh F.de Sales, 1873, 434 trang. Đặc biệt, năm 1904 nhà in Tân Định cho ra cuốn Thánh Giáo yếu lý Tam giải của Lm Phaolô Qui, tác giả Pháp quan trọng bậc nhất về sách Giáo lý ở nước ta. Từ 1889 đến 1902, Lm này vừa viết, dịch ra chữ Quốc ngữ 4 cuốn sách Giáo lý khác, đều in ở Tân Định.
Có lẽ cuốn sách độc đáo, phải chăng cuốn Giáo lý cuối cùng do các vị Thừa sai Pháp soạn bằng chữ Quốc ngữ là cuốn Giáo lý trường sinh, bản thảo viết tay, 336 trang khổ lớn (30x42cm), được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Hà Nội của Lm JBH với dòng cuối “Cao xá ngày thứ bảy cuối tuần Epiphanie, 13-1-1951”. Cuốn sách này quả là độc đáo, cả về nội dung và cách biên soạn mà chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.
Trong các sách Giáo lý loại này, cũng cần lưu ý các sách in ở Nhà in của Hội Thừa sai Paris ở Hongkong hay là Nhà in Nazareth. Đây là cơ sở in ấn có vị trí rất quan trọng trong thư tịch của Công giáo ở Việt Nam. Về sách giáo lý, chẳng hạn cuốn: Tứ nguyên yếu lý (Doctrina Chrétienne) của Lhomond (“Đức Thày Nghiêm dịch ra tiếng Annam”), 1896, 239 trang. Đặc biệt, cuốn Giáo lý tiêu biểu dành cho trẻ em có tên: Sách giúp dạy xưng tội rước lễ bao đồng do Lm Huế là Phillippe Bá soạn, 445 trang, in năm 1923, đặc biệt có rất nhiều hình vẽ minh hoạ các tích truyện trong Kinh Thánh...
Thứ hai, về mặt tác giả. Dù còn ít, nhưng từ cuối thế kỷ XIX đầu XX, dần dần xuất hiện các tác giả là người Việt Nam. Đây là một điểm rất đáng lưu tâm trong lịch sử truyền giáo nói chung và nói riêng, trong những nỗ lực “Việt hoá Đạo”, đặc biệt góp phần đáng kể đào tạo người giáo dân và “Sống Đạo theo cung cách Việt Nam”.
Năm 1933, Michel Ngô Đình Khả có dịch cuốn Đạo Đức chơn quy, nguyên bản là cuốn Jésus modèle du Prêtre của Frassinetti, do nhà in Quy Nhơn ấn hành, 74 trang.
Đặc biệt có cuốn Thiên đạo thông tư của Nguyễn Quế Vân, nhà in Ngô Tử Hạ ấn hành, 1921, 170 trang, bản in lần thứ tư. Trong cuốn sách Giáo lý xuất bản lần này có lời tựa, lời bình khen tặng của quan Thống sứ Bắc kỳ E.Rivet, của Nguyễn Khắc Vi, Thánh Hội Giáo hữu; của Phạm Quỳnh, chủ bút Tạp chí Nam Phong và rất nhiều th khen của các quan Tuần phủ, Tuần vũ các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh...
Cái độc đáo của cuốn sách là ở chỗ, nguyên tắc Thiên đạo thông tư được viết bằng văn vần, thể song thất lục bát gồm ngót 500 câu thơ, thể hiện sự hiểu biết về Kinh Thánh, và giáo lý của Đạo Chúa với lời kết:
Suy cùng đạo cả cao sâuTóm hai điều trọng hơn châu báu đờiMột là: Thờ Đức Chúa GiờiHai là: Thương xót mọi người bằng ta.
Phần còn lại với số trang nhiều gấp bội bình giải từng đoạn, từng câu quan trọng trong cả bài. Thực là lối viết, lối truyền dạy giáo lý hiếm có trong thư tịch sách Giáo lý ở Việt Nam mà chúng tôi được biết.
Theo phong cách của Thiên đạo thông tư, năm 1935, nhà in Quy Nhơn cho ra mắt cuốn Thánh Giáo yếu lý diễn ca, 3250 câu lục bát của Lm Pétrus Lượng, cũng rất đáng chú ý.
Lẽ dĩ nhiên nhận xét này của chúng tôi không phải để nói về sách Giáo lý ở Việt Nam từ sau năm 1960 trở lại đây, vì điều này trở nên “đương nhiên” khi Giáo hội Công giáo nước ta đã thực sự chấm dứt giai đoạn “truyền giáo”.
Thứ ba, sách Giáo lý ở Việt Nam thường không nặng về thần học, kể cả trong phần trình bày những nền tảng Đức tin và Tuyên xưng Đức Tin. Vấn đề cử hành các mầu nhiệm Kitô giáo (chủ yếu 7 Bí tích) và luân lý Kitô giáo (10 Giới răn, luật nhân đức) và kinh nghiệm Kitô giáo thường được chú ý nhiều hơn.
Đạo Kitô là một tôn giáo hồi ức. Người ta phải ‘đọc” nó qua Kinh Thánh. Bản thân Giáo hội Công giáo cũng là sự tiếp nối của lịch sử cứu độ, không phải ai “sáng tạo” ra...
Vì thế, những tác giả sách Giáo lý ở Việt Nam rất chú trọng điều này khi diễn giải Kinh Thánh, cả Cựu Ước và Tân Ước, bất kể sách giáo lý cho trẻ em hoặc người lớn.
Chẳng hạn, với cuốn Xưng tội rước lễ bao đồng (có vẽ hình), với trên 400 trang sách, tác giả đã trần thuật rất chi tiết và dễ hiểu với trẻ em. Hơn thế nữa, các nhân vật trong Kinh Thánh từ Đức Jésus Kitô, Đức Chúa Bà đến các Thánh (truyện Sấm truyền), hiện diện như các tấm gương “sống Đạo” cho trẻ nhỏ. Tác giả viết: “Vì vậy tôi mới ra tay dọn sách này, dùng những tiếng nói tầm thường, cách dậy cũng đơn sơ mà tóm lại những lẽ cần trong đạo, cũng kể tắt ít tích truyện Sấm truyền mới cũ, và tấm gương lành hạnh thánh, để giúp thày bà lấy đó mà dạy; trẻ con có đọc, ít cũng đặng nhờ”.
Tiêu biểu cho lối biên soạn này, thuộc loại sách Giáo lý cho người lớn là cuốn Giáo lý trường sinh toát yếu đã nói ở trên.
Cuốn sách có phụ đề “Trần thuyết về sử ký, đạo lý, luân lý, nghi lễ, Minh giáo, triết lý và xã hội đạo Công giáo từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ”.
Bài I “Khẩu thục Công giáo - Giáo lý”, dưới hình thức vấn đáp, có câu:
Tiếng “Giáo lý” có nghĩa là làm sao?Nghĩa là cách giáo thục bằng lời nói, cũng gọi được là “khẩu thục”...Tiếng “Giáo lý” nhắc lại cho ta những gì?Tiếng ‘Giáo lý” nhắc lại cho ta đời sống thánh thiện của các thánh Tổ phụ, các nhân đức theo tinh thần Phúc Âm của các giáo hữu tiên khởi và những sự đau đớn họ đã phải chịu; Giáo lý lại còn khích lệ ta học tập bắt chớc các nhân đức ấy nữa”
Cuốn Giáo lý đồ sộ này đã giành đến 280 trang trình bày kỹ càng lịch sử Hội Thánh từ khởi thuỷ đến đầu thế kỷ XX tất nhiên có kết hợp sự trình bày căn bản Đức tin Kitô giáo.
Đối với phần lớn người Kitô hữu, Thánh kinh dĩ nhiên là Lời Chúa, nói rõ hơn là những điều Thiên Chúa muốn bày tỏ với con người bằng cách mặc khải ý định của mình cho các tác giả viết lại, trước hết là các Thánh Tông đồ.
Vì tính cách ấy, việc giải thích Thánh Kinh thực là công việc to lớn, lâu dài. Đại thể việc chú giải Kinh Thánh nhiều khi phân hoá không ít các nhà t tưởng Công giáo: hoặc kiên quyết giữ giáo lý căn bản, nghĩa là giải thích Thánh Kinh theo sát từ ngữ theo nghĩa đen, kể cả những đoạn mô tả các yếu tố siêu nhiên, đó là “trường phái căn bản” (Fondamentalisme); hoặc phía bên kia là những người đã dựa vào sự phát triển của khoa học hoá cách tiếp cận Thánh Kinh hay dùng hoà cách đọc Thánh Kinh một cách khoa học, có óc phê phán với những giáo huấn cổ truyền của giáo hội.
Có vẻ như trong lịch sử sách Giáo lý ở nước ta không có chuyện này. Về cơ bản, được diễn tả theo giáo huấn cổ truyền của Giáo hội hoàn vũ.
Thế nào là một người Công giáo? Và một không gian Công giáo là gì?
Đạo Công giáo có lịch sử 2000 năm, nhưng trả lời câu hỏi thứ nhất cho rạch ròi cũng chỉ vài thế kỷ nay.
Về mặt tín lý, giáo điều Kitô giáo nh trong kinh Tin kính (Credo), “bản tóm tắt toàn bộ Tin Mừng” đã nói rõ, 3 tín điều sau được nhấn mạnh.
a, Vấn đề Người của Chúa Jésus Kitô. Khẳng định Ngài là Con Một của Thiên Chúa, nhưng lại là con bà Maria, “mẹ của Thiên Chúa”, Thiên Chúa làm Người để thực hiện sự Cứu độ loài người.
b, Khẳng định sự tồn tại của một Thiên Chúa duy nhất, tính độc thần và phổ quát, nhưng là một cơ cấu Thiên Chúa có 3 ngôi vị và đồng bản tính (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần).
Rồi lịch sử đạo Kitô trải qua liên tiếp 2 cuộc ly giáo (le schisme) lớn: Giáo hội Đông chính giáo tách ra vào 1054, không chỉ vì vấn đề thần học mà cả vấn đề phụng vụ (liturgie) và sau đó, từ 1517, là hiện tượng Tin Lành ở Tây Âu, một hiện tượng còn có ảnh hởng lớn hơn, sâu sắc hơn đến Giáo hội.
Về mặt “Cơ sở Giáo lý” cho việc định vị một người Công giáo là thế nào chỉ được xác định rõ ràng trong các văn kiện của Công đồng Vatican II (1870) như sau:
Đây cũng là giai đoạn, Giáo hội Công giáo còn có những xu trào xung đột về lương tâm và cách sống đạo như sự xuất hiện của các giáo phái theo chữ thuyết vị kỷ cứu rỗi (Jausénisme), Tình yêu tinh truyền Kitô giáo (Qui étesme)...
Người Công giáo được đào luyện còn phải đặt trong một “không gian Công giáo nữa”. Cũng phải đến cuối thế kỷ XIX đầu XX, không gian địa lý của nó mới ổn định, từ Âu châu qua các châu lục được truyền giáo. Nhưng vì đạo Kitô lại gồm “3 tôn giáo” tuy cùng nguồn gốc, nên thuật ngữ Công giáo và Giáo hội Công giáo phải có 5 đặc tính sau:
Nói tóm lại, việc giảng dạy Giáo lý Công giáo luôn đặt trong văn cảnh rộng lớn và sâu sắc ấy.
Sách Giáo lý và nếp sống Đạo
Chúng tôi đã thử nêu 3 đặc điểm của sách Giáo lý ở Việt Nam. Dưới đây, xin đi sâu vào một số phương diện cụ thể để thấy rõ hơn một nguồn lực tạo nên sự sống Đạo ở nước ta như thế nào.
a, Lẽ dĩ nhiên, việc dạy Giáo lý nói chung là có sách riêng cho 3 đối tượng như chúng ta đã thấy; nhưng trong nhiều trường hợp, sách Giáo lý cũng không có sự phân biệt quá rạch ròi.
Cuốn Thánh giáo yếu lý tam giải của Lm Phaolo Qui đã dẫn là một thí dụ điển hình. Trong phần tiểu dẫn tác giả viết: “Có nhiều giáo hữu chê sách này rằng nhỏ mọn, xứng hạp cho đồng nhi tuổi trẻ, chẳng xứng cho kẻ thành nhơn. Kẻ nói nh vậy, làm chứng mình chưa có xét tới nghĩa lý sách này cho rõ ràng chính đích mà chớ. Nhơn vì sự ấy ta ra công giải nghĩa sách này cho minh bạch, vừa sức vừa trí mọi người, hầu kẻ xem sách này đoạn, thì chẳng còn dám chê sách nhỏ mọn...”
Lẽ dĩ nhiên có “sách giáo lý cho trẻ em” mà chính Phaolô Qui đã phân biệt 3 nhóm tuổi khi ông hướng dẫn “Phải dùng sách Tam Giải này thế nào”: “Trước hết đồng nhi nam nữ chia đặng ra làm ba hạng: Hạng thứ nhứt. Những đồng nhi chưa xưng tội bao đồng, gọi đặng là Phần xưng tội vỡ lòng. Hạng thứ hai. Những đồng nhi dọn mình rước lễ vỡ lòng, gọi đặng là Phần Rước lễ vỡ lòng. Hạng thứ ba. Những đồng nhi đã rước lễ vỡ lòng rồi, quen đến nghe cắt nghĩa Phần mọi ngày Chúa nhựt, gọi đặng là Phần Bền đỗ.
Cuốn Xưng tọi Rước lễ bao đồng mà chúng ta đã đề cập ở trên đúng là theo hướng đó. Cuốn Giáo lý cho trẻ em đồ sộ này, ngoài việc chia hệ bài rất nhỏ ra còn có phần Lời hỏi ôn lại (rất chi tiết) cho mỗi bài và có Lời tóm khuyên dạy trẻ con: “Cho nên chúng con hãy ra sức giữ đạo cho ân cần sốt sắng cả và đời chúng con, thì đạo thánh Chúa sẽ nên như đàng rất chính rất thật đưa chúng con thẳng đến nước thiên đàng là quê thật chúng con, mà nghỉ ngơi đời đời kiếp kiếp chẳng cùng”.
Riêng về sách Giáo lý dùng cho các trường (Trung học Công giáo), có thể coi họ là giới élites trong Đạo, thì các tác giả lại rất coi trọng ý nghĩa thần học ý nghĩa của đời sống Phụng vụ, chủ yếu gồm Hy tế bàn thờ (Thánh lễ Misa), rồi đến các phép Bí tích và sau đó là kinh nguyện (Thần vụ). Chẳng hạn cuốn Giáo lý của cha Ch. Robin giúp người học phân biệt rất rõ ý nghĩa “năm Phụng vụ” từ lễ Giáng sinh, kỳ Phục sinh, lễ Thăng thiên, Mùa chay, đến lễ Hiện xuống... “Tất cả việc thờ tự Công giáo đã bắt đầu từ những cuộc họp do hàng Giáo phẩm tổ chức”. Đồng thời, còn chỉ rõ “Cơ cấu của Năm Phụng vụ” (năm Giáo hội, đã nêu trên) bắt đầu từ Chủ nhật thứ nhất của Mùa Vọng (từ 1-12) cho đến thứ bẩy trong tuần nhật cuối cùng sau lễ Hiện xuống”.
Ý nghĩa của sự thánh hoá thời gian rất quan trọng với Giáo hội là điều không dễ chuyển tải trong mọi sách Giáo lý.
Đối với sách Giáo lý dành cho người lớn nói chung gần đây, có xu hướng mở rộng thêm: Chẳng hạn có nội dung về “Tôn giáo và Đời sống con người”; “Tự do Tôn giáo”... (Xem Giáo lý Đại cương, Sđd) hoặc “Tâm tình tôn giáo” dân gian, các tôn giáo và Kitô giáo (Giáo lý Dự tòng của Toà Giám mục Xuân Lộc, 1997).
b, Các sách Giáo lý ở Việt Nam luôn coi trọng cả phần Tín lý và phần thực hành Đức tin, nhưng có vẻ nh thường nghiêng về phần luân lý và nếp sống Đạo.
Lẽ dĩ nhiên, như đã giới thiệu ở trên, việc giáo dục về nền tảng Đức tin Công giáo (hay cuối XIX đầu XX gọi là Những sự phải tin) có khi phải qua những cuốn giáo lý đồ sộ và rất kinh viện nh kiểu của cố chính Linh. Nhưng nhiều hơn là cuốn sách, lối trình bày đơn giản hơn về thần học.
Chẳng hạn cuốn Thiên Chúa luận, một cuốn sách “biên chép” của một vị linh mục có tên Sư. Chính, không rõ người Pháp hay người Việt cho một trí thức ngoại đạo (bí danh Tầm phương Thức) tò mò muốn “học đạo” và ông này đã “biên tập lại” và cho in1. Cuốn sách chỉ có 30 trang nhưng cũng lý giải được mệnh đề thần học căn bản: Thiên Chúa là đấng Tạo dựng và “Mọi người phải thờ một Đức Chúa Trời”.
Việc cử hành các màu nhiệm Kitô giáo, vốn là những chân lý siêu nhiên cho những Dự tòng càng là vấn đề phức tạp. Việc trình bày 7 phép Bí tích trong hàng loạt các sách Giáo lý dù in ở Roma, ở Hongkong hay ở Kẻ Sở, Kẻ Sặt, Tân Định hoặc Cái Nhum... đều phản ánh nỗ lực đó. Có lẽ vì thế, Đạo Công giáo ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ còn được dân gian gọi là Đạo Mặc khải hay Đạo Bí tích.
Từ những lối trình bày còn tản mạn, dần dần, đến đầu thế kỷ XX, kết cấu sách Giáo lý đã có kết cấu hợp lý hơn. Nếu chúng ta so sánh kết cấu cuốn Thánh giáo yếu lý tam giải của Lm Phaolô Qui với cuốn Giáo lý Giáo hội Công giáo dùng hiện nay đã thấy cơ bản là giống nhau.
Điều dễ thấy là phần luân lý Kitô giáo, thực hành sống đạo còn được chú ý hơn nhiều.
Rất nhiều cuốn có sự cắt nghĩa đa dạng, phong phú về luật nhân đức (tất nhiên phải có: những sự phải lánh là Tội), đặc biệt về 10 giới răn và đời sống kinh nguyện.
Cuốn Thánh giáo yếu lý tam giải cũng có thể coi là mẫu mực về việc này, nhất là phần giải nghĩa về kinh Lạy Cha “kinh Kính Mừng” và đặc biệt “kinh Tin Kính” (Credo).
Các sách Giáo lý quan trọng bao giờ cũng có phần “phụ thêm” về cuốn Luật riêng cho người giáo hữu. Cuốn Giáo lý của Lm Phaolô Qui nói trên đã đưa ra 12 việc “Những việc làm hàng ngày”: Từ sự hướng dẫn đọc kinh lúc thức dậy, đọc kinh ban mai, xem lễ Misa, dùng bữa... đến lần lượt, đọc kinh tối. Ngoài ra, còn có “những việc làm mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm”...
Ngày nay, khi đối chiếu vào “Cuốn luật riêng” này, với đời sống Đạo của người giáo hữu, hẳn có những điều đã lợc bỏ trong các sách Bổn hiện tại. Nhưng rõ ràng về cơ bản vẫn có ý nghĩa với lối “Sống Đạo” của người Công giáo Việt Nam.
c, Một khía cạnh khác và quan trọng hơn cả là những nỗ lực từ phía sách giáo lý và giáo dân cho một lối “sống Đạo theo cung cách Việt Nam”.
Phải nói điều này không dễ dàng, hơn mọi phương diện, việc giáo dục giáo lý Công giáo càng có ý nghĩa phổ quát và nghiêm về giáo luật. Song, lại cũng nh mọi mặt của thực thể Công giáo ở Việt Nam, xu thế này đẫ tồn tại và ngày càng tỏ ra phù hợp với yêu cầu của cả phần Đạo và phần Đời.
Có lẽ lại chính A. de Rhodes là tác giả cuốn giáo lý đầu tiên mà ta đã phân tích có sáng kiến ở chỗ này.
Trong cuốn Hành trình và truyền giáo (1953), ngài đã nói về phương pháp truyền giáo của mình: Phương pháp mà tôi theo đuổi là ban đầu phải chứng minh được có linh hồn bất tử, có cõi đời sau. Từ đó đi đến khái niệm về “thần linh” và “Chúa quan phòng ”. Cứ thế sẽ đi dần đến việc truyền bá những khái niệm về các phép mầu nhiệm Ki tô giáo khó hơn...
Rất nhiều các giáo sĩ Tây Ban Nha, ý và đặc biệt các giáo sĩ của hội thừa sai Pari cũng đã có ý thức về việc này, từ ngôn ngữ đến lối diễn giải đều có những nỗ lực sáng tạo.
Nếu chúng ta so sánh việc giảng dạy và chất lợng bản dịch kinh Tin Kính trong cuốn Thánh giáo kinh nguyện1 và phần trình bày kinh này của Đức cha Vị (Jeaningros) trong Thánh đạo Đại nguyên lợc giải thì ta thấy rõ bước tiến bộ đáng kể đó.
Nỗ lực này càng có ý nghiã hơn nếu đó là phái các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam.
Trong cuốn sách Những nguồn gốc của hàng giáo sĩ Việt Nam, tác giả Nguyễn Hữu Trọng khi nghiên cứu về sự ra đời các xứ đạo đầu tiên ở nước ta thế kỷ XVII đã khẳng định vai trò của các Thầy giảng (catéchistes) do cha Đắc lộ lập ra và đào luyện cũng nh khả năng tiếp nhận đạo rất cao của các giáo dân thế hệ đầu tiên của xứ Bắc Kỳ cũng nh những sáng kiến trong truyền đạo của họ. Tác giả viết “Luôn quan tâm đến sự thích nghi với các xứ đạo, các Cha Dòng Tên đã sớm chuẩn bị dịch và viết sách đạo đức cho các Thầy giảng và giáo hữu. Đáng kể là cuốn sách về ngắm 15 sự thơng khó của Đức Giêsu của Cha Đắc Lộ biên soạn mà mọi giáo hữu đều sử dụng có thể coi là một tác phẩm hàng đầu ”.
Các sách Giáo lý do các tác giả người việt biên soạn tự nó có lợi thế. Chẳng hạn đây là lối diễn tả bằng văn vần khái niệm Chúa ba ngôi:
“Chúa thì có một mà thôiSong ta tin có ba ngôi rõ ràng Ba ngôi một Chúa cao sang Dựng lên muôn vật thế gian ấy làNgôi thứ nhất là Đức Chúa Cha,Ngôi hai thì gọi tên là Chúa Con.Ngôi ba là Chúa Thánh thần Ba ngôi một Chúa chí tôn vô cùng...3
Diễn ca luôn là phương tiện hữu hiệu trong việc tuyên truyền với người Việt Nam. Cuốn Thiên đạo thông tư của Nguyễn Quế Vân là cuốn tiêu biểu cho loại này.
Ngót 500 câu thơ của sách này đã diễn tả thật khéo léo theo lối nghĩ của người bình dân về lịch sử Đạo Chúa, đặc biệt trình thuật nội dung cả Cựu Ước và Tân Ước, nghĩa là bản “tóm tắt” về đạo Công giáo (tác giả gọi là Thiên Đạo).
Người ta sống ở trên đời
Đạo tự nhiên sẵn tính Giời
đã sinhCảm ơn tạo hoá công trình
Sinh ta, sinh cả tính tình cho ta
Biết đờng chính, biết nẻo tà
Suy cùng các đạo, để mà tầm nguyên...
Rồi vào ngay “trang đầu” của Cựu Ước:
Đạo Giời nghĩa lý tinh tường
Chép qua Thiên sử một chương để đời:
Trước khi không đất, không giời
Duy có Chúa tể trên đời mà thôi
Một thể, một tính, ba ngôi
Nớc ta quen gọi là Giời xa nay...
Rồi sau khi kể chuyện Thiên Chúa tạo dựng đất trời, muôn vật “chưa qua sáu ngày”, “Ngôi Hai xuống đời giậy giăn”, Adong và Eva, nạn Hồng thuỷ, con Tầu Noê..., tác giả viết về 10 giới răn vô cùng quan trọng đào luyện người Công giáo theo lối nghĩ rất Việt:
"Tên Maisêu tuổi bốn mươi,Giời gọi lên núi truyền mời điều giăn:Hai bia ta đã tạo thành,Rõ ràng mời mối đạo lành cho ngươi:
1/ Phải thờ Đức Chúa Giời
2/ Chớ nên càn dỡ nói lời bạo Thiên
3/ Nhớ ngày tế lễ chớ quên
4/ Phải báo công mẹ, phải đền công chaKiếp này phúc đẳng hà saKiếp sau lại được âu ca thái hoà
5/ Chớ nên giết hại người ta
6/ Chớ nên theo thói giám tà làm chi
7/ Chớ trộm của, cớp vật gì
8/ Chứng dan, chứng dối chớ khi nào làm
9/ Vợ, chồng người, chớ dan giâm
10/ Của người chớ có lấy nhầm, lấy tham...
Và đây là câu kết, tóm gọn tinh thần đạo Kitô:"Suy cùng đạo cả cao sâuTóm hai điều trọng hơn châu báu đời.Một là: Thờ Đức Chúa GiờiHai là: Thương xót mọi người bằng ta"3
Trước đây, chúng tôi cũng từng nghĩ rằng, văn học dân gian kể cả truyện Kiều của Nguyễn Du cũng khó có đất sống nơi vùng Công giáo toàn tòng. Rất khó có thể được nghe hát ru con bằng các làn điệu dân ca hoặc bằng thơ Nguyễn Bính trong các mái tranh làng Đạo.
Để khuyên nhủ gia đình giáo dân, giải quyết quan niệm “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”, tác giả viết:
Chẳng nệ em sấu, em vụng, em ơn
Thương em vì em là cái xơng sờn của anh!
Trong sách này, ở bài viết về làm từ thiện công quả của người Công giáo, ông viết:
Phúc cho những kẻ thơng người
Thì mình được hởng lộc Giời chứa chan
Một tài liệu đáng lưu ý khác là cuốn sách giáo lý của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn. Có lẽ đây là cuốn sách Giáo lý duy nhất mà tác giả tìm cách dung hoà với những quan điểm Nho giáo khi biên soạn và giảng dạy sách Giáo lý. Sự phân tích sâu sắc của vị giám mục uyên thâm này có nhiều điểm rất thú vị trong việc trình bày giáo lý Kitô giáo cho người Việt Nam cũng như việc tiếp thu giáo lý và thực hành đời sống tôn giáo của tín đồ.
Có thể nói, sự phân tích của chúng tôi trên đây cũng chỉ là bước đầu và chưa thể phản ánh toàn diện quá trình giảng dạy và đào luyện người Công giáo ở nước ta. Nhưng hy vọng đó cũng là những ghi nhận bước đầu.
Sách Giáo lý và sống Đạo (hệ luận)
Nh chúng ta đã thấy ở trên, việc giáo dục về giáo lý cho người Công giáo ở nước ta có đặc điểm là: Các sách Giáo lý khá ổn định có tính cổ điển, trong đó quan trọng hơn cả là việc thực hiện một đời sống Đạo gắn chặt với đời sống phụng vụ và thực hiện các định chế sinh hoạt tôn giáo khác. Những nỗ lực ấy dễ tạo ra cho người tín hữu một thái độ ngoan đạo đồng nhất với việc thực hiện đầy đủ đời sống phụng vụ mà họ tham gia từ nhỏ đến lớn, từ khi là người Dự tòng cho đến khi là người Công giáo thuần thành. Qua sách Giáo lý, khó có thể thấy được khả năng vận dụng Đức tin của mình nh một nhu cầu nâng đỡ cho đời sống cá nhân và cộng đoàn. Điều mà ngày hôm nay giáo hội đang hướng tới trong chủ trơng thúc đẩy “Thần học giáo dân”.
Chúng tôi đã nói đến “Bản quy định đời sống Đạo” của một giáo dân thường ngày, trong tháng và mỗi năm tại cuốn sách Thánh giáo Tam giải của Lm Phaolô Qui. Thật thú vị nếu nh chúng ta đối chiếu với lá Th chung của Cha Peter Felicianus Phê, giám quản Tông toà địa phận Đông năm 1798. Tài liệu này cho biết Cha giám quản Phê đã đưa ra một “Bản quy định đời sống Đạo” của giáo dân còn chi tiết và “rắc rối” hơn rất nhiều so với tài liệu của Lm Phaolô Qui. Nhưng cơ bản là một “khung sống Đạo” giống nhau. Tài liệu này viết cụ thể: “Đoạn này dạy về những việc bổn đạo phải làm hàng ngày” dưới hình thức câu hỏi đã quy định các hành vi tôn giáo đặc biệt là việc hãm mình, đọc kinh trong bất cứ tình huống nào của cuộc sống hàng ngày (dĩ nhiên về nội dung các bản kinh thì ở thời điểm 1798 chất lợng dịch kém hơn hẳn so với đầu thế kỷ XX).
Cần lưu ý rằng, các sách Giáo lý hàng trăm năm qua ở Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh về cảm thức về Tội. Lẽ dĩ nhiên, vấn đề Tội Tổ tông là quan trọng trong giáo lý của đạo Công giáo. Nhưng chúng ta hãy nghe lại lời trong Thư chung này của Cha Phê: “Vậy khi bổn đạo được phép rửa tội, thì chẳng khác nào nh thể kẻ khỏi làm tôi nước Ychitô; ấy là đã khỏi làm ma quỷ, lại đã được làm con Đức Chúa Blời, thì phán dạy phải đi đàng mời sự răn, mới trông ngày sau được vào đất tổ tông, là nước thiên đàng no đầy mọi sự vui về đời đời, mà cho được đi đàng ấy là cho giọn, thì đã giối để manna thiêng liêng bởi giời mà xuống, là Mình Thánh Đức Chúa Jêsu cho bổn đạo chịu; song lẽ khi còn đi đàng thế gian, thì thường gặp nhiều giặc thù mình, là tính xác thịt, chớc ma quỷ và thói thế gian làm hết sức ngăn trở kéo bổn đạo vào nước Thiên đàng. Vậy ai muốn phá lợc chớc ấy, thì phải bắt chớc ông thánh Moisen dang tay ra mà cầu nguyện, và phải năng nắn suy ngắm sự thơng khó Đức Chúa Jêsu; lại năng cầu xin Đức Chúa Blời giúp sức cho, thì mới phá được giặc ấy...”.
Chúng tôi muốn trở lại ý kiến của tác giả bài viết Vài nhận định về đời sống Kitô giáo tại Việt Nam. Chúng tôi chia xẻ với hai nhận định của ông về hiện trạng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam. Theo tác giả, trước hết là: “Một đời sống Đạo gắn liền với nếp sinh hoạt”. Trong đó “Giáo hội Công giáo vốn là một Giáo hội khá mạnh về tổ chức, khá sầm uất trong sinh hoạt. Tuy nhiên, trong lòng những tổ chức và sinh hoạt ấy, đời sống Đức tin có tính chất cá vị hình nh lại khá yếu kém. Các nhà thờ của chúng ta thường đông người trong những giờ có tổ chức sinh hoạt phụng vụ, nhưng lại vắng hoe khi không có tổ chức nào. Tổ chức giáo xứ có những ban bệ khá vững chắc, nhưng cách sống thấm nhuần Tin Mừng lại không thể hiện được bao nhiêu”.Tác giả có một nhận định khác là: “Một đời sống Đạo gắn liền với luật lệ”, trong đó: “Trong cung cách sống Đạo hiện nay, nếp sống của người Kitô hữu thường được quy định bằng những luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể: làm dâú, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay... Có lẽ nhiều “chức sắc” trong Giáo hội vẫn đặt người Kitô hữu vào vị thế nh những tín hữu thời Trung cổ, nghĩa là những Kitô hữu ít học và cần những người hướng dẫn tỉ mỉ, rõ ràng và giữ luật bằng cách chu toàn những việc cụ thể...”1.Qua sự “khảo sát sơ bộ” lịch sử sách giáo lý ở nước ta có thể nhận định rằng: Về cơ bản, trong bốn loại sách giáo lý nói chung là loại sách Huấn giáo cơ bản (Catéchèse élémentaire); Huấn giáo nhiệm tích (Catéchèse mystagogique); Huấn giáo phụng vụ (Catéchèse liturgique) và Huấn giáo thần học (Catéchèse théologique), thì có vẻ các sách giáo lý ở ta thường rơi vào loại I và III.
Vấn đề đã rõ ràng. Trong nỗ lực cổ vũ cho “sống Đạo theo cung cách Việt Nam”, điều mà theo chúng tôi có lợi cho cả phần đạo và phần đời, cần phải bắt đầu ngay từ việc cho người tín hữu, ngay từ khi ở lứa tuổi “bao đồng” được tiếp cận với một sự giảng dạy giáo lý thực sự cập nhật theo đúng tinh thần mà Công đồng Vatican II đã đặt ra.
Chúng tôi muốn nhắc lại ý kiến của Gm Nguyễn Văn Sang trong cuốn sách Rao giảng Tin Mừng theo cung cách Việt Nam (Toà Tổng Giám mục Thái Bình, 2000): “Cho đến nay một số miền trong Nớc Việt Nam, tinh thần chiêm nghiệm và cầu nguyện đang được giáo dục cho có chiều sâu và vững chắc hơn, được canh tân lại, vẫn giữ được sự sốt sắng nhiệt thành đó”. Giám mục cũng nhắc nhở: “Anh chị em đừng nghe những người chỉ trích Giáo hội Việt Nam nơi hàng Giáo hữu, trong đó có giới trẻ, là một Giáo hội Bí tích, nghĩa là những người giữ Đạo chỉ chăm lo lãnh nhận các Nhiệm tích...” (Sđd, tr420, 421).
Tôi nghĩ ý tưởng sâu xa đó của bài viết cũng xin được mượn để khép lại bài viết nhỏ này.
Hà Nội, ngày 05 tháng 4 năm 2004
(tiếp cận sự đào luyện qua sách giáo lý)
Phần mở đầu
Tôi được ban tổ chức hội thảo gợi ý một chủ đề rất hay Người giáo dân Việt Nam trong mắt tôi... Là người ít nhiều có nghiên cứu lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam, từ lâu tôi cũng có những suy nghĩ về chủ đề này. Song phải thú thực là trong tôi hình ảnh người Giáo dân Việt Nam và đặc biệt họ “sống Đạo” như thế nào cũng chưa thực ổn định và rõ nét. Về đại thể, tôi cũng hiểu rằng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam có truyền thống lâu đời so với nhiều nước trong khu vực và đời sống đạo của người Kitô hữu Việt Nam từ lâu đã có nền nếp, có sự định vị. Tôi cũng chia xẻ cái nhìn chung là, nếp sống đạo ấy vẫn theo mô hình Giáo hội thời kỳ Trung cổ phương Tây mà lịch sử quen gọi là thời đại “Kitô giới” (chrétiente). nhưng tôi cũng hiểu rằng, cộng đồng Kitô hữu Việt Nam không phải là một thực thể đơn nhất. Trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam sự tiếp nhận Phúc Âm qua nhiều Dòng tu thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Phải chăng, ở những giáo xứ, giáo phận có nguồn gốc của các dòng Đa Minh, Phan Sinh của Tây Ban Nha và ý cũng có những nét khác so với những khu vực chịu ảnh hởng của Hội Truyền giáo nước ngoài Paris? Sự khác biệt này trong tôi có thể còn lờ mờ, nhưng tôi vẫn tin rằng có sự khác biệt giữa các cộng đồng ấy. Mặt khác, tôi cũng hiểu rằng, nh nhận định của nhiều nhà nghiên cứu Công giáo nh của Lm Trần Tam Tỉnh rằng: Đời sống đạo của người Kitô hữu Việt Nam được truyền từ phương Tây sang từ thế kỷ XVI vẫn giữ nguyên bầu khí của thời trung cổ ấy. Củng cố cho nhận xét này, gần đây tôi có chú ý bài viết Vài nhận định về đời sống Kitô giáo tại Việt Nam của T Cù đăng trên Thời Sự Thần học số 23 (3/2001). Tác giả này viết: “Trong một thời gian dài, người Kitô hữu Việt Nam thường tụ tập lại thành xóm đạo và đời sống có phần đóng kín trong những sinh hoạt của làng xóm mình... Mọi sinh hoạt đạo và đời thường được tổ chức một cách kỹ lỡng và bao trùm hết đời sống. Đời sống Đức tin của mỗi người, do đó, vẫn còn được tháp nhập vào sinh hoạt đạo đức trong giáo xứ và vẫn “chạy” trong quỹ đạo của những tổ chức tôn giáo...”
Trong nhận xét thứ hai này, tôi rất tâm đắc với sự phân tích của tác giả nh sau: “Trong cung cách sống đạo hiện nay, nếp sống của người Kitô hữu thường được quy định bằng những luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể: làm dấu, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay... Có lẽ nhiều “chức sắc” trong giáo hội vẫn đặt người Kitô hữu vào vị thế nh những tín hữu thời trung cổ, nghĩa là những Kitô hữu ít học và cần những hướng dẫn tỉ mỉ, rõ ràng để giữ luật bằng cách chu toàn những việc cụ thể... Người Kitô hữu cố gắng giữ luật để khỏi phạm tội chứ ít hiểu rằng giữ luật là một sự tín trung với chúa; người Kitô hữu đi lễ nh một trách nhiệm phải chu toàn chứ không sống tinh thần hiệp thông liên đới với cộng đoàn...”
nhưng mặt khác, trong nhận thức của tôi, một mặt, tôi muốn tìm hiểu vì sao lại hình thành lối “sống Đạo” nh vậy và tạo nên hình ảnh nh vậy về người Kitô hữu Việt Nam. Mặt khác, có một lôgíc khi nghiên cứu lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam mà tôi có phần được trải nghiệm là: Dù thế nào, người Việt Nam trước khi trở thành người Công giáo và ngay cả khi đã là người Công giáo vẫn giữ trong mình một căn bản văn hoá Việt Nam không thể trộn lẫn. Vì thế, cần phải đặt ra câu hỏi, trong quá trình hình thành nếp sống đạo ấy qua nhiều thế kỷ, từ người truyền đạo đến người tiếp nhận thứ “đạo lạ” ấy đã chịu tác động nh thế nào của quy luật tâm lý và nhận thức nói trên.
Về phương diện “tôn giáo học”, việc nghiên cứu đời sống đạo, tôi cố tìm nhưng cũng cha thấy ai định nghĩa đầy đủ khái niệm này. Sống đạo (Vécu religieux) phải chăng có khác đời sống tôn giáo (La vie religieuse) nói chung? Nhiều người nghiên cứu tôn giáo cũng thấy khó phân biệt các sự kiện tôn giáo và việc sống đạo, bởi vì việc thực hành tôn giáo thường được thực hiện một cách bình lặng dù đó là những cử hành phụng vụ thường kỳ tuỳ theo các nghi lễ hay các hoạt động giáo dục, từ thiện, các hoạt động lễ hội theo cảm hứng tôn giáo. Tôi rất thích thú với nhận xét của nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng người Pháp J.Baubérot: “Giống nh các cặp vợ chồng hạnh phúc, việc sống đạo thường bình yên nh không có chuyện gì đáng để kể một cách công khai. nhưng thực tế về mặt xã hội thì to lớn và hầu nh không nhìn thấy được”. Nhà nghiên cứu này còn gợi ý rằng, trong điều kiện xã hội châu Âu hiện nay “việc sống đạo là một trong những điểm mù khó nhận thấy”. Nh vậy thì, việc cắt nghĩa được đời sống đạo dù là trong quá khứ của người Kitô hữu Việt Nam là điều không dễ dàng. Chính vì thế, chúng tôi đi đến quyết định: Để tìm hiểu hình ảnh người giáo dân Việt Nam (chủ yếu trong lịch sử) chúng tôi muốn tiếp cận ở góc độ việc giảng dạy và học tập giáo lý trong cộng đồng này. nhưng ngay cả việc này cũng không dễ dàng vì việc su tầm các sách giáo lý cơ bản là một thách đố đầu tiên. Ai cũng biết từ giữa thế kỷ XVII, ở Việt Nam đã xuất hiện một cuốn sách giáo lý đầu tiên gắn liền với tên tuổi của nhân vật nổi tiếng: A.De Rhodes đó là cuốn Phép giảng tám ngày. Nhưng sách giáo lý lại có nhiều loại cho nhiều đối tượng nên việc tiếp cận càng khó khăn. Những tìm hiểu của chúng tôi dưới đây chắc hẳn chỉ là bước đầu mong được coi là một cách để giải mã hình ảnh người giáo dân Việt Nam... sách giáo lý và sách giáo lý ở việt nam
Lm Nguyễn Văn Tuyên trong cuốn sách Sư phạm giáo lý có đưa ra định nghĩa sau: “Giáo lý (Huấn giáo) là sự trình bày lời Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể sống động để giúp tín hữu hiểu và sống đức tin”. Việc trình bày kho tàng Đức tin theo tác giả này là một phương thức thi hành nhiệm vụ giảng huấn của giáo hội bao gồm ba mặt: một, loan Tin Mừng cho những người chưa tin gọi là truyền giảng Phúc Âm; hai, giúp tín hữu đào sâu chân lý Đức tin gọi là Huấn giáo hay Giáo lý. Trình bày về Giáo lý cho người Dự tòng gọi là tiền giáo lý (Precatéchèse); ba, diễn giải Màu nhiệm Kitô giáo trong khuôn khổ Phụng vụ nhằm chủ đích Phụng vụ gọi là giảng thuyết.
Như vậy là, sách giáo lý có vai trò rất quan trọng trong việc truyền đạo và giáo dưỡng cho những người Dự tòng và Tân tòng.
Đành rằng Công giáo là “Tôn giáo của sách” cũng giống như Do thái giáo và Hồi giáo nghĩa là, căn bản Đức tin phải dựa trên sách Thánh, hay Kinh thánh (Bible). Nhưng với người Công giáo Việt Nam sau hơn 300 năm đón nhận Tin Mừng mới có thể được đọc Thánh kinh Kitô giáo bằng Việt ngữ (cả Cựu ước và Tân Ước) vào năm 1913-1914 qua bản dịch đầu tiên của cố chính Linh.
Điều đó có nghĩa là, thường thì người Công giáo được giáo huấn bằng một phương tiện khác, đó là sách Giáo lý (Catéchisme).
Theo Từ điển Đức tin Kitô giáo của nhóm O.de la Brosse, AM Henry và P.Rouillard được dịch năm 1998 thì từ Catéchisme có gốc từ chữ Hy Lạp Katèchein có nghĩa là Giảng dạy, giáo hoá, cũng có thể ý nghĩa “hành vi công bố, loan báo mạnh mẽ”. Sau này từ Katèchein có nghĩa rộng là: hành vi giáo hoá và giáo huấn của những người tin Chúa, sau khi họ trở lại. Chức năng đầu tiên của Giáo hội ngôn sứ, tức Giáo hội giảng dạy, sau khi loan báo Tin Mừng. Cũng được hiểu là nội dung việc giảng dạy này. Cũng có khi chỉ được hiểu là việc giảng dạy giáo lý dành cho các người mới trở lại, để chuẩn bị cho họ lãnh nhận các Bí tích gia nhập Kitô giáo, hoặc dành cho các trẻ em để hoàn tất việc gia nhập Kitô giáo, giúp các em có khả năng thuộc và biết giải nghĩa các điều chính yếu của kinh Tin Kính (Crédo).
Thực ra việc giảng dạy và học giáo lý dành cho người Kitô hữu là cả cuộc đời họ, nhất là qua các bài giảng và các bài diễn giải Phúc Âm ngày Chúa nhật, với mục đích là gia tăng sự hiểu biết về kho tàng Đức tin và đời sống Bí tích cho đến mức người trởng thành trong Chúa Kitô, vì thế có từ Catéchèse permanente hay Eucharistique, nghĩa là “Huấn giáo thường xuyên”.
Trong việc sống Đạo thì từ Catéchisme thường giới hạn bởi việc dạy giáo lý bằng các cuốn sách bổn, sách Giáo lý (xa còn gọi là sách Phần).
Việc giảng dạy về Đức tin và luân lý Kitô giáo ngày càng có hệ thống, nói chung dành cho 2 đối tượng chính đều là những người chọn mình gia nhập Kitô giáo: Thứ nhất, đó là các trẻ nhỏ đã được rửa tội và được chuẩn bị tuyên xưng Đức tin, lãnh nhận phép Thêm sức và phép Thánh thể. Thứ hai, dành cho người lớn “những người mới trở lại và được chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa tội” (các anh chị em Dự tòng).
Sách Giáo lý cổ nhất là cuốn Catéchisme romain hay Catéchisme du Conciee de Trente, xuất bản lần đầu bằng tiếng Latinh năm 1566 với sự chuẩn y của Giáo hoàng Piô V. Sách này được coi là việc Huấn quyền đầu tiên và thường lệ của Giáo hội và nhanh chóng được dịch ra tiếng Pháp, Ý (1567), Đức (1568), Balan...
Theo Lm Ngô văn Tuyên thì: “Lời Thiên Chúa có tính chất tuyệt đối, còn giáo lý chỉ là trình bày lời Thiên Chúa, do đó có thể và cần thay đổi, cải tiến” và có mô hình sau:
Mặc dù việc giáo huấn bằng sách Giáo lý có từ lâu, nhưng những tác giả biên soạn loại sách này trở nên nổi tiếng cũng chỉ vài thế kỷ nay. ở Pháp, giữa thế kỷ XIX, với tác phẩm L"Ouevre par excellence (1868) của “Vị Giám mục - giáo lý “Félix Dupanloup, Giám mục d’Orléans, người đã có công đưa phong trào học hỏi giáo lý lên đến đỉnh điểm. Tác phẩm về Giáo lý nói trên của vị Giám mục này được coi là một trong những tác phẩm đẹp nhất của văn học tôn giáo thế kỷ XIX, đồng thời với phương pháp huấn giáo tuyệt vời của ông ta, sách Giáo lý đã được coi là phương tiện cốt yếu đầu tiên của Giáo hội để chinh phục dân chúng.
Giáo lý Công giáo ngày nay đúng là đã được hệ thống hoá thành các phần, với các chương mục ổn định. Giáo hoàng G.Phaolô II, ngày 10-11-1992, nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vatican II đã ký sắc lệnh, ban hành cuốn Giáo lý Giáo hội Công giáo làm chuẩn mực cho Giáo hội toàn cầu.
Theo yêu cầu của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong phiên họp 9-1993, một tiểu ban Giám mục về Giáo lý đã được thành lập với mục đích biên soạn một tài liệu giáo lý chung cho Giáo hội Việt Nam, dựa trên nền tảng là sách Giáo chung của Hội thánh toàn cầu nói trên.
Ở Việt Nam, theo nhiều tác giả Công giáo, việc giảng dạy giáo lý trong thế kỷ XVI-XVII - một vấn đề trọng yếu trong quá trình truyền giáo - thường dùng các sách “Giáo lý Đại cương” gọi là Doctrina, chủ yếu các sách Giáo lý do các giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha biên soạn.
Đặc biệt, theo Nguyễn Khắc Xuyên và Phạm Đình Khiêm, việc xuất hiện 2 cuốn Giáo lý: Thiên Chúa thực lục của Minh Kiên (M.Ruggieri), xuất bản ở Phúc Kiến 1584 và Thiên Chúa thực nghĩa của Lợi Mã Đậu (M.Ricci), xuất bản ở Quảng Châu năm 1603 mới “đem lại một hậu quả không ngờ” trong các Nho sĩ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và Việt Nam”.
Tuy vậy, cũng theo 2 tác giả trên, phải đợi đến khi cha Đắc Lộ cho xuất bản cuốn Phép giảng tám ngày (Roma, 1651) in song ngữ chữ Latinh và Quốc ngữ thì mới có một cuốn Giáo lý thực sự. Ngoài ý nghĩa to lớn về ngôn ngữ và văn hoá với Việt Nam, sự kiện này có ý nghĩa sâu sắc trong việc truyền giáo của cả khu vực Viễn Đông. Các tác giả này viết: “Phép giảng tám ngày không phải cuốn Giáo lý đại cương hay Doctrina chúng ta nói ở trên, cũng không hẳn như Thiên Chúa thực lục chính văn hay Thiên Chúa thực nghĩa. Nó không phải chỉ là một sách Giáo lý không hơn không kém, cũng không phải chỉ là một cuốn Minh giáo tinh truyền như tác phẩm của Lợi tiên sinh. Thực ra chúng ta có thể gọi Phép giảng tám ngày là sách giáo lý, nhưng là sách giáo lý trình bày trong màu sắc Minh giáo, thích hợp cho một dân tộc, một văn hoá riêng biệt là xã hội Việt Nam vào thế kỷ XVII”6.
Về nghệ thuật giảng dạy giáo lý của cha Đắc Lộ trong sách này, các tác giả nhấn mạnh thêm 3 đặc điểm:
- Thứ nhất, trình bày Giáo lý theo lịch sử cứu rỗi hay một chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Phép giảng tám ngày cũng tránh được lối trình bày khô khan của các sách “Doctrina”, tạo sự hấp dẫn sống động.
- Thứ hai, sử dụng các giá trị văn hoá cố hữu của dân tộc để giới thiệu những chân lý mới, trình bày một giáo lý mới. Đặc biệt, trong “hai phần đầu”, cha Đắc Lộ vận dụng “tư tưởng con dân đất Việt thế kỷ XVII” về linh hồn, đời sau, về Trời, về Thượng đế... để bàn giải về Chúa trời là Cha cả, Thợ cả...
- Thứ ba, việc trình bày những chân lý Kitô giáo dưới những khía cạnh hợp lý, đúng lý (nhất là trong “2 ngày” đầu). Điều này thoả mãn nhu cầu duy lý của các nho sĩ lúc đó. Và từ đó dẫn đến logic rất thiết yếu cho việc truyền giáo: Kitô giáo phù hợp với lý trí con người và kẻ truyền đạo phải khéo trình bày giáo lý ấy.
Chúng tôi chưa thấy có những “tổng kết” lịch sử sách Giáo lý ở Việt Nam. Nhưng đại thể, sau sự mở đầu của Phép giảng tám ngày, quá trình ấy là nh sau đây:
Trước hết là trong Văn khố Hội Thừa sai Paris hoặc ở kho Lưu trữ Vatican, kho “Riti” (Bộ lễ nghi) chúng ta có thể còn được đọc những tập “theo phong cách A. de Rhodes” hoặc đơn giản hơn là các sách “các phép Saramento” kiểu như:
- Tam giáo chư vọng, 295 trang viết tay chữ Quốc ngữ gồm 3 cuốn. Tác giả tự xưng là Tây sĩ, tranh luận với Đông sĩ về Tam giáo (Nho, Đạo, Thích), viết năm 1752. Cùng với cuốn Opusculum de Sectis apud Simeues et Tunkineuses1, theo chúng tôi, có thể được coi là những cuốn sách nghiên cứu tôn giáo và đối thoại tôn giáo sớm nhất ở nước ta.
- Sách các phép Sacranento, 149 trang viết tay, chữ Latinh và Quốc ngữ, viết theo lối Hỏi (Thầy) và Đáp (Thưa) về các Bí tích rất thú vị, bao gồm cả sự hướng dẫn làm “các phép” này, không chỉ là nội dung, ý nghĩa “các phép”.
- Kinh cho kẻ đã được chịu lễ, 173 trang, năm 1762
Những văn bản loại này, đặc biệt một số thư từ của các giáo sĩ, giáo dân cho chúng ta hình dung ít nhiều buổi đầu học Đạo và sống Đạo của người Công giáo Việt Nam. Chẳng hạn một lá đơn của giáo dân xin phép Bề trên cho họ được dùng thủ tục lạy, như lạy sắc của Giáo hoàng, lạy xác cha mẹ, để “người bên lương khỏi cười” (khoảng năm 1749-1760).
Trong các thế kỷ tiếp theo, đặc biệt cuối XIX và thế kỷ XX, chúng tôi có mấy nhận xét về đặc điểm các sách Giáo lý ở nước ta nhu sau:
Thứ nhất, các giáo sĩ nước ngoài, chủ yếu các Giáo sĩ thuộc hội Thừa sai Pari vẫn chiếm vị trí chủ yếu, kể cả sách Giáo lý do họ viết hoặc dịch.
Vài ví dụ:
Ở ngoài Bắc, nhà in Minh Phú Đờng năm 1875 có cuốn Sách cát nghĩa các Lễ phép và chữ đỏ, do Falise “đã dọn”, “Đức Thày Chiêu và Cố Cao dịch ra tiếng Annam”, 440 trang. Sách này có cả Mục lục tra cứu rất thuận tiện và có Phụ lục: Sách các phép Roma, 82 trang. Năm 1907, nhà in Kẻ Sở có cuốn Sách Tóm lại các mẹo, in lần thứ tư, sách của M.Fautrat do cố Khánh dịch, 121 trang. Sách các mục Chú dẫn (appendix) rất công phu, song ngữ Pháp Việt, 82 trang. Nhà in Kẻ Sở cũng sớm cho ra mắt những cuốn dịch như Sách Selva, 530 trang về Thánh Alêphôngsô người Ý, do Lm PM. Lương dịch, in năm 1887.
Cố chánh Linh thực là tác giả quan trọng. Ngoài sách dịch Kinh Thánh (2 tập) đầu tiên đã nêu, ông còn có một số sách Giáo lý đáng chú ý như cuốn Sách dạy về gốc tích cội rễ sự Đạo, in tại Kẻ Sở, 1910, 541 trang... Năm 1925, Phú Nhai Đường xuất bản cuốn Sách giải nghĩa bẩy phép bí tích, 154 trang cố Trung (FP. Munagorri) soạn bằng chữ Quốc ngữ, theo lối hỏi, đáp đã trở nên rất quen thuộc.
Cũng như vậy, năm 1928, Phú Nhai Đường còn xuất bản cuốn Bàn giải nghĩa kinh Thiên Chúa kinh Ave... do cha Chính Già An soạn, 102 trang...
Ở Huế và miền Trung cũng có không ít sách Giáo lý như vậy.
Chẳng hạn: Lời hằng sống của Lm JMT, Huế, 1941, 141 trang; Kinh hát các ngày lễ quanh năm, cha FM. Lemasle soạn, 1938, 234 trang; Thánh Giáo yếu lý diễn ca, do Lm P.Lượng “dọn ra”, 1935, Nhà in Quy Nhơn, 119 trang, do đức cha Jeanningros (Đức cha Vị) và cha Chính “đã dọn”, 241 trang, nhà in Quy Nhơn, 1939, cũng theo lối Hỏi, Thưa...
Ở trong Nam, tiêu biểu là các cuốn: Sách Thiên Chúa Thánh giáo quảng nghĩa, “do một cha Phangsa về Dòng Thừa Sai Paris, lầu thông kinh sử”, qua giảng đạo Địa phận Nam kỳ từ 1897 soạn, Nhà Dòng cái Nhum chợ Lách, Vĩnh Long xuất bản, nhà in Tân Định, Sài Gòn, 1939, 615 trang. Có phụ bản: Hai bản đồ sứ Palestine thời Chúa Giêsu, điều ít thấy trong các sách Giáo lý ở nước ta. Nhà in Tân Định cũng xuất bản nhiều cuốn dịch như Truyện ông Thánh F.de Sales, 1873, 434 trang. Đặc biệt, năm 1904 nhà in Tân Định cho ra cuốn Thánh Giáo yếu lý Tam giải của Lm Phaolô Qui, tác giả Pháp quan trọng bậc nhất về sách Giáo lý ở nước ta. Từ 1889 đến 1902, Lm này vừa viết, dịch ra chữ Quốc ngữ 4 cuốn sách Giáo lý khác, đều in ở Tân Định.
Có lẽ cuốn sách độc đáo, phải chăng cuốn Giáo lý cuối cùng do các vị Thừa sai Pháp soạn bằng chữ Quốc ngữ là cuốn Giáo lý trường sinh, bản thảo viết tay, 336 trang khổ lớn (30x42cm), được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia Hà Nội của Lm JBH với dòng cuối “Cao xá ngày thứ bảy cuối tuần Epiphanie, 13-1-1951”. Cuốn sách này quả là độc đáo, cả về nội dung và cách biên soạn mà chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.
Trong các sách Giáo lý loại này, cũng cần lưu ý các sách in ở Nhà in của Hội Thừa sai Paris ở Hongkong hay là Nhà in Nazareth. Đây là cơ sở in ấn có vị trí rất quan trọng trong thư tịch của Công giáo ở Việt Nam. Về sách giáo lý, chẳng hạn cuốn: Tứ nguyên yếu lý (Doctrina Chrétienne) của Lhomond (“Đức Thày Nghiêm dịch ra tiếng Annam”), 1896, 239 trang. Đặc biệt, cuốn Giáo lý tiêu biểu dành cho trẻ em có tên: Sách giúp dạy xưng tội rước lễ bao đồng do Lm Huế là Phillippe Bá soạn, 445 trang, in năm 1923, đặc biệt có rất nhiều hình vẽ minh hoạ các tích truyện trong Kinh Thánh...
Thứ hai, về mặt tác giả. Dù còn ít, nhưng từ cuối thế kỷ XIX đầu XX, dần dần xuất hiện các tác giả là người Việt Nam. Đây là một điểm rất đáng lưu tâm trong lịch sử truyền giáo nói chung và nói riêng, trong những nỗ lực “Việt hoá Đạo”, đặc biệt góp phần đáng kể đào tạo người giáo dân và “Sống Đạo theo cung cách Việt Nam”.
Năm 1933, Michel Ngô Đình Khả có dịch cuốn Đạo Đức chơn quy, nguyên bản là cuốn Jésus modèle du Prêtre của Frassinetti, do nhà in Quy Nhơn ấn hành, 74 trang.
Đặc biệt có cuốn Thiên đạo thông tư của Nguyễn Quế Vân, nhà in Ngô Tử Hạ ấn hành, 1921, 170 trang, bản in lần thứ tư. Trong cuốn sách Giáo lý xuất bản lần này có lời tựa, lời bình khen tặng của quan Thống sứ Bắc kỳ E.Rivet, của Nguyễn Khắc Vi, Thánh Hội Giáo hữu; của Phạm Quỳnh, chủ bút Tạp chí Nam Phong và rất nhiều th khen của các quan Tuần phủ, Tuần vũ các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh...
Cái độc đáo của cuốn sách là ở chỗ, nguyên tắc Thiên đạo thông tư được viết bằng văn vần, thể song thất lục bát gồm ngót 500 câu thơ, thể hiện sự hiểu biết về Kinh Thánh, và giáo lý của Đạo Chúa với lời kết:
Suy cùng đạo cả cao sâuTóm hai điều trọng hơn châu báu đờiMột là: Thờ Đức Chúa GiờiHai là: Thương xót mọi người bằng ta.
Phần còn lại với số trang nhiều gấp bội bình giải từng đoạn, từng câu quan trọng trong cả bài. Thực là lối viết, lối truyền dạy giáo lý hiếm có trong thư tịch sách Giáo lý ở Việt Nam mà chúng tôi được biết.
Theo phong cách của Thiên đạo thông tư, năm 1935, nhà in Quy Nhơn cho ra mắt cuốn Thánh Giáo yếu lý diễn ca, 3250 câu lục bát của Lm Pétrus Lượng, cũng rất đáng chú ý.
Lẽ dĩ nhiên nhận xét này của chúng tôi không phải để nói về sách Giáo lý ở Việt Nam từ sau năm 1960 trở lại đây, vì điều này trở nên “đương nhiên” khi Giáo hội Công giáo nước ta đã thực sự chấm dứt giai đoạn “truyền giáo”.
Thứ ba, sách Giáo lý ở Việt Nam thường không nặng về thần học, kể cả trong phần trình bày những nền tảng Đức tin và Tuyên xưng Đức Tin. Vấn đề cử hành các mầu nhiệm Kitô giáo (chủ yếu 7 Bí tích) và luân lý Kitô giáo (10 Giới răn, luật nhân đức) và kinh nghiệm Kitô giáo thường được chú ý nhiều hơn.
Đạo Kitô là một tôn giáo hồi ức. Người ta phải ‘đọc” nó qua Kinh Thánh. Bản thân Giáo hội Công giáo cũng là sự tiếp nối của lịch sử cứu độ, không phải ai “sáng tạo” ra...
Vì thế, những tác giả sách Giáo lý ở Việt Nam rất chú trọng điều này khi diễn giải Kinh Thánh, cả Cựu Ước và Tân Ước, bất kể sách giáo lý cho trẻ em hoặc người lớn.
Chẳng hạn, với cuốn Xưng tội rước lễ bao đồng (có vẽ hình), với trên 400 trang sách, tác giả đã trần thuật rất chi tiết và dễ hiểu với trẻ em. Hơn thế nữa, các nhân vật trong Kinh Thánh từ Đức Jésus Kitô, Đức Chúa Bà đến các Thánh (truyện Sấm truyền), hiện diện như các tấm gương “sống Đạo” cho trẻ nhỏ. Tác giả viết: “Vì vậy tôi mới ra tay dọn sách này, dùng những tiếng nói tầm thường, cách dậy cũng đơn sơ mà tóm lại những lẽ cần trong đạo, cũng kể tắt ít tích truyện Sấm truyền mới cũ, và tấm gương lành hạnh thánh, để giúp thày bà lấy đó mà dạy; trẻ con có đọc, ít cũng đặng nhờ”.
Tiêu biểu cho lối biên soạn này, thuộc loại sách Giáo lý cho người lớn là cuốn Giáo lý trường sinh toát yếu đã nói ở trên.
Cuốn sách có phụ đề “Trần thuyết về sử ký, đạo lý, luân lý, nghi lễ, Minh giáo, triết lý và xã hội đạo Công giáo từ tạo thiên lập địa cho đến bây giờ”.
Bài I “Khẩu thục Công giáo - Giáo lý”, dưới hình thức vấn đáp, có câu:
Tiếng “Giáo lý” có nghĩa là làm sao?Nghĩa là cách giáo thục bằng lời nói, cũng gọi được là “khẩu thục”...Tiếng “Giáo lý” nhắc lại cho ta những gì?Tiếng ‘Giáo lý” nhắc lại cho ta đời sống thánh thiện của các thánh Tổ phụ, các nhân đức theo tinh thần Phúc Âm của các giáo hữu tiên khởi và những sự đau đớn họ đã phải chịu; Giáo lý lại còn khích lệ ta học tập bắt chớc các nhân đức ấy nữa”
Cuốn Giáo lý đồ sộ này đã giành đến 280 trang trình bày kỹ càng lịch sử Hội Thánh từ khởi thuỷ đến đầu thế kỷ XX tất nhiên có kết hợp sự trình bày căn bản Đức tin Kitô giáo.
Đối với phần lớn người Kitô hữu, Thánh kinh dĩ nhiên là Lời Chúa, nói rõ hơn là những điều Thiên Chúa muốn bày tỏ với con người bằng cách mặc khải ý định của mình cho các tác giả viết lại, trước hết là các Thánh Tông đồ.
Vì tính cách ấy, việc giải thích Thánh Kinh thực là công việc to lớn, lâu dài. Đại thể việc chú giải Kinh Thánh nhiều khi phân hoá không ít các nhà t tưởng Công giáo: hoặc kiên quyết giữ giáo lý căn bản, nghĩa là giải thích Thánh Kinh theo sát từ ngữ theo nghĩa đen, kể cả những đoạn mô tả các yếu tố siêu nhiên, đó là “trường phái căn bản” (Fondamentalisme); hoặc phía bên kia là những người đã dựa vào sự phát triển của khoa học hoá cách tiếp cận Thánh Kinh hay dùng hoà cách đọc Thánh Kinh một cách khoa học, có óc phê phán với những giáo huấn cổ truyền của giáo hội.
Có vẻ như trong lịch sử sách Giáo lý ở nước ta không có chuyện này. Về cơ bản, được diễn tả theo giáo huấn cổ truyền của Giáo hội hoàn vũ.
Thế nào là một người Công giáo? Và một không gian Công giáo là gì?
Đạo Công giáo có lịch sử 2000 năm, nhưng trả lời câu hỏi thứ nhất cho rạch ròi cũng chỉ vài thế kỷ nay.
Về mặt tín lý, giáo điều Kitô giáo nh trong kinh Tin kính (Credo), “bản tóm tắt toàn bộ Tin Mừng” đã nói rõ, 3 tín điều sau được nhấn mạnh.
- Vấn đề Tội Tổ Tông (trước hết của Adam).
- Vấn đề Con người đầu tiên
- Vấn đề Cứu độ của Chúa Kitô
a, Vấn đề Người của Chúa Jésus Kitô. Khẳng định Ngài là Con Một của Thiên Chúa, nhưng lại là con bà Maria, “mẹ của Thiên Chúa”, Thiên Chúa làm Người để thực hiện sự Cứu độ loài người.
b, Khẳng định sự tồn tại của một Thiên Chúa duy nhất, tính độc thần và phổ quát, nhưng là một cơ cấu Thiên Chúa có 3 ngôi vị và đồng bản tính (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần).
Rồi lịch sử đạo Kitô trải qua liên tiếp 2 cuộc ly giáo (le schisme) lớn: Giáo hội Đông chính giáo tách ra vào 1054, không chỉ vì vấn đề thần học mà cả vấn đề phụng vụ (liturgie) và sau đó, từ 1517, là hiện tượng Tin Lành ở Tây Âu, một hiện tượng còn có ảnh hởng lớn hơn, sâu sắc hơn đến Giáo hội.
Về mặt “Cơ sở Giáo lý” cho việc định vị một người Công giáo là thế nào chỉ được xác định rõ ràng trong các văn kiện của Công đồng Vatican II (1870) như sau:
- a, Sự khẳng định cấu trúc thứ bậc, nhất thể chế của Giáo hội Roma: Giáo hoàng, các Giám mục đại diện trong các giáo phận; các linh mục và tín hữu.
- b, Sự cải cách về luân lý cho các tín hữu (nội dung của 10 giới răn) và của giáo sĩ (luật độc thân của các linh mục); những chuẩn mực áp dụng cho các Dòng tu (3 lời khấn).
- c, Nội dung thần học của 7 Bí tích và việc cử hành các phép màu nhiệm Kitô giáo.
- d, Việc giảng dạy tín lý Công giáo cho các tín đồ trong nội bộ giáo hội thông qua sách Giáo lý cho trẻ em; cho những tu sĩ (trong các trường, lớp) và cho quần chúng nói chung (Dự Tòng).
- e, Công giáo còn là tôn giáo của cảm xúc nghệ thuật, vì thế trong việc sống đạo cũng nhu phụng tự cần có sự hỗ trợ của nghệ thuật (Baroque hay cổ điển), sự truyền bá tranh ảnh, tượng, điêu khắc, âm nhạc...
Đây cũng là giai đoạn, Giáo hội Công giáo còn có những xu trào xung đột về lương tâm và cách sống đạo như sự xuất hiện của các giáo phái theo chữ thuyết vị kỷ cứu rỗi (Jausénisme), Tình yêu tinh truyền Kitô giáo (Qui étesme)...
Người Công giáo được đào luyện còn phải đặt trong một “không gian Công giáo nữa”. Cũng phải đến cuối thế kỷ XIX đầu XX, không gian địa lý của nó mới ổn định, từ Âu châu qua các châu lục được truyền giáo. Nhưng vì đạo Kitô lại gồm “3 tôn giáo” tuy cùng nguồn gốc, nên thuật ngữ Công giáo và Giáo hội Công giáo phải có 5 đặc tính sau:
- Tính duy nhất “Giáo hội duy nhất”
- Tính Thánh thiện (không có tội lỗi vì là thân thể của Chúa Kitô)
- Tính phổ quát (tính “Công giáo”)
- Tính tông truyền
- Và, tính Roma (vai trò Giáo hoàng ở La Mã).
Nói tóm lại, việc giảng dạy Giáo lý Công giáo luôn đặt trong văn cảnh rộng lớn và sâu sắc ấy.
Sách Giáo lý và nếp sống Đạo
Chúng tôi đã thử nêu 3 đặc điểm của sách Giáo lý ở Việt Nam. Dưới đây, xin đi sâu vào một số phương diện cụ thể để thấy rõ hơn một nguồn lực tạo nên sự sống Đạo ở nước ta như thế nào.
a, Lẽ dĩ nhiên, việc dạy Giáo lý nói chung là có sách riêng cho 3 đối tượng như chúng ta đã thấy; nhưng trong nhiều trường hợp, sách Giáo lý cũng không có sự phân biệt quá rạch ròi.
Cuốn Thánh giáo yếu lý tam giải của Lm Phaolo Qui đã dẫn là một thí dụ điển hình. Trong phần tiểu dẫn tác giả viết: “Có nhiều giáo hữu chê sách này rằng nhỏ mọn, xứng hạp cho đồng nhi tuổi trẻ, chẳng xứng cho kẻ thành nhơn. Kẻ nói nh vậy, làm chứng mình chưa có xét tới nghĩa lý sách này cho rõ ràng chính đích mà chớ. Nhơn vì sự ấy ta ra công giải nghĩa sách này cho minh bạch, vừa sức vừa trí mọi người, hầu kẻ xem sách này đoạn, thì chẳng còn dám chê sách nhỏ mọn...”
Lẽ dĩ nhiên có “sách giáo lý cho trẻ em” mà chính Phaolô Qui đã phân biệt 3 nhóm tuổi khi ông hướng dẫn “Phải dùng sách Tam Giải này thế nào”: “Trước hết đồng nhi nam nữ chia đặng ra làm ba hạng: Hạng thứ nhứt. Những đồng nhi chưa xưng tội bao đồng, gọi đặng là Phần xưng tội vỡ lòng. Hạng thứ hai. Những đồng nhi dọn mình rước lễ vỡ lòng, gọi đặng là Phần Rước lễ vỡ lòng. Hạng thứ ba. Những đồng nhi đã rước lễ vỡ lòng rồi, quen đến nghe cắt nghĩa Phần mọi ngày Chúa nhựt, gọi đặng là Phần Bền đỗ.
Cuốn Xưng tọi Rước lễ bao đồng mà chúng ta đã đề cập ở trên đúng là theo hướng đó. Cuốn Giáo lý cho trẻ em đồ sộ này, ngoài việc chia hệ bài rất nhỏ ra còn có phần Lời hỏi ôn lại (rất chi tiết) cho mỗi bài và có Lời tóm khuyên dạy trẻ con: “Cho nên chúng con hãy ra sức giữ đạo cho ân cần sốt sắng cả và đời chúng con, thì đạo thánh Chúa sẽ nên như đàng rất chính rất thật đưa chúng con thẳng đến nước thiên đàng là quê thật chúng con, mà nghỉ ngơi đời đời kiếp kiếp chẳng cùng”.
Riêng về sách Giáo lý dùng cho các trường (Trung học Công giáo), có thể coi họ là giới élites trong Đạo, thì các tác giả lại rất coi trọng ý nghĩa thần học ý nghĩa của đời sống Phụng vụ, chủ yếu gồm Hy tế bàn thờ (Thánh lễ Misa), rồi đến các phép Bí tích và sau đó là kinh nguyện (Thần vụ). Chẳng hạn cuốn Giáo lý của cha Ch. Robin giúp người học phân biệt rất rõ ý nghĩa “năm Phụng vụ” từ lễ Giáng sinh, kỳ Phục sinh, lễ Thăng thiên, Mùa chay, đến lễ Hiện xuống... “Tất cả việc thờ tự Công giáo đã bắt đầu từ những cuộc họp do hàng Giáo phẩm tổ chức”. Đồng thời, còn chỉ rõ “Cơ cấu của Năm Phụng vụ” (năm Giáo hội, đã nêu trên) bắt đầu từ Chủ nhật thứ nhất của Mùa Vọng (từ 1-12) cho đến thứ bẩy trong tuần nhật cuối cùng sau lễ Hiện xuống”.
Ý nghĩa của sự thánh hoá thời gian rất quan trọng với Giáo hội là điều không dễ chuyển tải trong mọi sách Giáo lý.
Đối với sách Giáo lý dành cho người lớn nói chung gần đây, có xu hướng mở rộng thêm: Chẳng hạn có nội dung về “Tôn giáo và Đời sống con người”; “Tự do Tôn giáo”... (Xem Giáo lý Đại cương, Sđd) hoặc “Tâm tình tôn giáo” dân gian, các tôn giáo và Kitô giáo (Giáo lý Dự tòng của Toà Giám mục Xuân Lộc, 1997).
b, Các sách Giáo lý ở Việt Nam luôn coi trọng cả phần Tín lý và phần thực hành Đức tin, nhưng có vẻ nh thường nghiêng về phần luân lý và nếp sống Đạo.
Lẽ dĩ nhiên, như đã giới thiệu ở trên, việc giáo dục về nền tảng Đức tin Công giáo (hay cuối XIX đầu XX gọi là Những sự phải tin) có khi phải qua những cuốn giáo lý đồ sộ và rất kinh viện nh kiểu của cố chính Linh. Nhưng nhiều hơn là cuốn sách, lối trình bày đơn giản hơn về thần học.
Chẳng hạn cuốn Thiên Chúa luận, một cuốn sách “biên chép” của một vị linh mục có tên Sư. Chính, không rõ người Pháp hay người Việt cho một trí thức ngoại đạo (bí danh Tầm phương Thức) tò mò muốn “học đạo” và ông này đã “biên tập lại” và cho in1. Cuốn sách chỉ có 30 trang nhưng cũng lý giải được mệnh đề thần học căn bản: Thiên Chúa là đấng Tạo dựng và “Mọi người phải thờ một Đức Chúa Trời”.
Việc cử hành các màu nhiệm Kitô giáo, vốn là những chân lý siêu nhiên cho những Dự tòng càng là vấn đề phức tạp. Việc trình bày 7 phép Bí tích trong hàng loạt các sách Giáo lý dù in ở Roma, ở Hongkong hay ở Kẻ Sở, Kẻ Sặt, Tân Định hoặc Cái Nhum... đều phản ánh nỗ lực đó. Có lẽ vì thế, Đạo Công giáo ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ còn được dân gian gọi là Đạo Mặc khải hay Đạo Bí tích.
Từ những lối trình bày còn tản mạn, dần dần, đến đầu thế kỷ XX, kết cấu sách Giáo lý đã có kết cấu hợp lý hơn. Nếu chúng ta so sánh kết cấu cuốn Thánh giáo yếu lý tam giải của Lm Phaolô Qui với cuốn Giáo lý Giáo hội Công giáo dùng hiện nay đã thấy cơ bản là giống nhau.
Điều dễ thấy là phần luân lý Kitô giáo, thực hành sống đạo còn được chú ý hơn nhiều.
Rất nhiều cuốn có sự cắt nghĩa đa dạng, phong phú về luật nhân đức (tất nhiên phải có: những sự phải lánh là Tội), đặc biệt về 10 giới răn và đời sống kinh nguyện.
Cuốn Thánh giáo yếu lý tam giải cũng có thể coi là mẫu mực về việc này, nhất là phần giải nghĩa về kinh Lạy Cha “kinh Kính Mừng” và đặc biệt “kinh Tin Kính” (Credo).
Các sách Giáo lý quan trọng bao giờ cũng có phần “phụ thêm” về cuốn Luật riêng cho người giáo hữu. Cuốn Giáo lý của Lm Phaolô Qui nói trên đã đưa ra 12 việc “Những việc làm hàng ngày”: Từ sự hướng dẫn đọc kinh lúc thức dậy, đọc kinh ban mai, xem lễ Misa, dùng bữa... đến lần lượt, đọc kinh tối. Ngoài ra, còn có “những việc làm mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm”...
Ngày nay, khi đối chiếu vào “Cuốn luật riêng” này, với đời sống Đạo của người giáo hữu, hẳn có những điều đã lợc bỏ trong các sách Bổn hiện tại. Nhưng rõ ràng về cơ bản vẫn có ý nghĩa với lối “Sống Đạo” của người Công giáo Việt Nam.
c, Một khía cạnh khác và quan trọng hơn cả là những nỗ lực từ phía sách giáo lý và giáo dân cho một lối “sống Đạo theo cung cách Việt Nam”.
Phải nói điều này không dễ dàng, hơn mọi phương diện, việc giáo dục giáo lý Công giáo càng có ý nghĩa phổ quát và nghiêm về giáo luật. Song, lại cũng nh mọi mặt của thực thể Công giáo ở Việt Nam, xu thế này đẫ tồn tại và ngày càng tỏ ra phù hợp với yêu cầu của cả phần Đạo và phần Đời.
Có lẽ lại chính A. de Rhodes là tác giả cuốn giáo lý đầu tiên mà ta đã phân tích có sáng kiến ở chỗ này.
Trong cuốn Hành trình và truyền giáo (1953), ngài đã nói về phương pháp truyền giáo của mình: Phương pháp mà tôi theo đuổi là ban đầu phải chứng minh được có linh hồn bất tử, có cõi đời sau. Từ đó đi đến khái niệm về “thần linh” và “Chúa quan phòng ”. Cứ thế sẽ đi dần đến việc truyền bá những khái niệm về các phép mầu nhiệm Ki tô giáo khó hơn...
Rất nhiều các giáo sĩ Tây Ban Nha, ý và đặc biệt các giáo sĩ của hội thừa sai Pari cũng đã có ý thức về việc này, từ ngôn ngữ đến lối diễn giải đều có những nỗ lực sáng tạo.
Nếu chúng ta so sánh việc giảng dạy và chất lợng bản dịch kinh Tin Kính trong cuốn Thánh giáo kinh nguyện1 và phần trình bày kinh này của Đức cha Vị (Jeaningros) trong Thánh đạo Đại nguyên lợc giải thì ta thấy rõ bước tiến bộ đáng kể đó.
Nỗ lực này càng có ý nghiã hơn nếu đó là phái các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam.
Trong cuốn sách Những nguồn gốc của hàng giáo sĩ Việt Nam, tác giả Nguyễn Hữu Trọng khi nghiên cứu về sự ra đời các xứ đạo đầu tiên ở nước ta thế kỷ XVII đã khẳng định vai trò của các Thầy giảng (catéchistes) do cha Đắc lộ lập ra và đào luyện cũng nh khả năng tiếp nhận đạo rất cao của các giáo dân thế hệ đầu tiên của xứ Bắc Kỳ cũng nh những sáng kiến trong truyền đạo của họ. Tác giả viết “Luôn quan tâm đến sự thích nghi với các xứ đạo, các Cha Dòng Tên đã sớm chuẩn bị dịch và viết sách đạo đức cho các Thầy giảng và giáo hữu. Đáng kể là cuốn sách về ngắm 15 sự thơng khó của Đức Giêsu của Cha Đắc Lộ biên soạn mà mọi giáo hữu đều sử dụng có thể coi là một tác phẩm hàng đầu ”.
Các sách Giáo lý do các tác giả người việt biên soạn tự nó có lợi thế. Chẳng hạn đây là lối diễn tả bằng văn vần khái niệm Chúa ba ngôi:
“Chúa thì có một mà thôiSong ta tin có ba ngôi rõ ràng Ba ngôi một Chúa cao sang Dựng lên muôn vật thế gian ấy làNgôi thứ nhất là Đức Chúa Cha,Ngôi hai thì gọi tên là Chúa Con.Ngôi ba là Chúa Thánh thần Ba ngôi một Chúa chí tôn vô cùng...3
Diễn ca luôn là phương tiện hữu hiệu trong việc tuyên truyền với người Việt Nam. Cuốn Thiên đạo thông tư của Nguyễn Quế Vân là cuốn tiêu biểu cho loại này.
Ngót 500 câu thơ của sách này đã diễn tả thật khéo léo theo lối nghĩ của người bình dân về lịch sử Đạo Chúa, đặc biệt trình thuật nội dung cả Cựu Ước và Tân Ước, nghĩa là bản “tóm tắt” về đạo Công giáo (tác giả gọi là Thiên Đạo).
Người ta sống ở trên đời
Đạo tự nhiên sẵn tính Giời
đã sinhCảm ơn tạo hoá công trình
Sinh ta, sinh cả tính tình cho ta
Biết đờng chính, biết nẻo tà
Suy cùng các đạo, để mà tầm nguyên...
Rồi vào ngay “trang đầu” của Cựu Ước:
Đạo Giời nghĩa lý tinh tường
Chép qua Thiên sử một chương để đời:
Trước khi không đất, không giời
Duy có Chúa tể trên đời mà thôi
Một thể, một tính, ba ngôi
Nớc ta quen gọi là Giời xa nay...
Rồi sau khi kể chuyện Thiên Chúa tạo dựng đất trời, muôn vật “chưa qua sáu ngày”, “Ngôi Hai xuống đời giậy giăn”, Adong và Eva, nạn Hồng thuỷ, con Tầu Noê..., tác giả viết về 10 giới răn vô cùng quan trọng đào luyện người Công giáo theo lối nghĩ rất Việt:
"Tên Maisêu tuổi bốn mươi,Giời gọi lên núi truyền mời điều giăn:Hai bia ta đã tạo thành,Rõ ràng mời mối đạo lành cho ngươi:
1/ Phải thờ Đức Chúa Giời
2/ Chớ nên càn dỡ nói lời bạo Thiên
3/ Nhớ ngày tế lễ chớ quên
4/ Phải báo công mẹ, phải đền công chaKiếp này phúc đẳng hà saKiếp sau lại được âu ca thái hoà
5/ Chớ nên giết hại người ta
6/ Chớ nên theo thói giám tà làm chi
7/ Chớ trộm của, cớp vật gì
8/ Chứng dan, chứng dối chớ khi nào làm
9/ Vợ, chồng người, chớ dan giâm
10/ Của người chớ có lấy nhầm, lấy tham...
Và đây là câu kết, tóm gọn tinh thần đạo Kitô:"Suy cùng đạo cả cao sâuTóm hai điều trọng hơn châu báu đời.Một là: Thờ Đức Chúa GiờiHai là: Thương xót mọi người bằng ta"3
Trước đây, chúng tôi cũng từng nghĩ rằng, văn học dân gian kể cả truyện Kiều của Nguyễn Du cũng khó có đất sống nơi vùng Công giáo toàn tòng. Rất khó có thể được nghe hát ru con bằng các làn điệu dân ca hoặc bằng thơ Nguyễn Bính trong các mái tranh làng Đạo.
Để khuyên nhủ gia đình giáo dân, giải quyết quan niệm “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng”, tác giả viết:
Chẳng nệ em sấu, em vụng, em ơn
Thương em vì em là cái xơng sờn của anh!
Trong sách này, ở bài viết về làm từ thiện công quả của người Công giáo, ông viết:
Phúc cho những kẻ thơng người
Thì mình được hởng lộc Giời chứa chan
Một tài liệu đáng lưu ý khác là cuốn sách giáo lý của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn. Có lẽ đây là cuốn sách Giáo lý duy nhất mà tác giả tìm cách dung hoà với những quan điểm Nho giáo khi biên soạn và giảng dạy sách Giáo lý. Sự phân tích sâu sắc của vị giám mục uyên thâm này có nhiều điểm rất thú vị trong việc trình bày giáo lý Kitô giáo cho người Việt Nam cũng như việc tiếp thu giáo lý và thực hành đời sống tôn giáo của tín đồ.
Có thể nói, sự phân tích của chúng tôi trên đây cũng chỉ là bước đầu và chưa thể phản ánh toàn diện quá trình giảng dạy và đào luyện người Công giáo ở nước ta. Nhưng hy vọng đó cũng là những ghi nhận bước đầu.
Sách Giáo lý và sống Đạo (hệ luận)
Nh chúng ta đã thấy ở trên, việc giáo dục về giáo lý cho người Công giáo ở nước ta có đặc điểm là: Các sách Giáo lý khá ổn định có tính cổ điển, trong đó quan trọng hơn cả là việc thực hiện một đời sống Đạo gắn chặt với đời sống phụng vụ và thực hiện các định chế sinh hoạt tôn giáo khác. Những nỗ lực ấy dễ tạo ra cho người tín hữu một thái độ ngoan đạo đồng nhất với việc thực hiện đầy đủ đời sống phụng vụ mà họ tham gia từ nhỏ đến lớn, từ khi là người Dự tòng cho đến khi là người Công giáo thuần thành. Qua sách Giáo lý, khó có thể thấy được khả năng vận dụng Đức tin của mình nh một nhu cầu nâng đỡ cho đời sống cá nhân và cộng đoàn. Điều mà ngày hôm nay giáo hội đang hướng tới trong chủ trơng thúc đẩy “Thần học giáo dân”.
Chúng tôi đã nói đến “Bản quy định đời sống Đạo” của một giáo dân thường ngày, trong tháng và mỗi năm tại cuốn sách Thánh giáo Tam giải của Lm Phaolô Qui. Thật thú vị nếu nh chúng ta đối chiếu với lá Th chung của Cha Peter Felicianus Phê, giám quản Tông toà địa phận Đông năm 1798. Tài liệu này cho biết Cha giám quản Phê đã đưa ra một “Bản quy định đời sống Đạo” của giáo dân còn chi tiết và “rắc rối” hơn rất nhiều so với tài liệu của Lm Phaolô Qui. Nhưng cơ bản là một “khung sống Đạo” giống nhau. Tài liệu này viết cụ thể: “Đoạn này dạy về những việc bổn đạo phải làm hàng ngày” dưới hình thức câu hỏi đã quy định các hành vi tôn giáo đặc biệt là việc hãm mình, đọc kinh trong bất cứ tình huống nào của cuộc sống hàng ngày (dĩ nhiên về nội dung các bản kinh thì ở thời điểm 1798 chất lợng dịch kém hơn hẳn so với đầu thế kỷ XX).
Cần lưu ý rằng, các sách Giáo lý hàng trăm năm qua ở Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh về cảm thức về Tội. Lẽ dĩ nhiên, vấn đề Tội Tổ tông là quan trọng trong giáo lý của đạo Công giáo. Nhưng chúng ta hãy nghe lại lời trong Thư chung này của Cha Phê: “Vậy khi bổn đạo được phép rửa tội, thì chẳng khác nào nh thể kẻ khỏi làm tôi nước Ychitô; ấy là đã khỏi làm ma quỷ, lại đã được làm con Đức Chúa Blời, thì phán dạy phải đi đàng mời sự răn, mới trông ngày sau được vào đất tổ tông, là nước thiên đàng no đầy mọi sự vui về đời đời, mà cho được đi đàng ấy là cho giọn, thì đã giối để manna thiêng liêng bởi giời mà xuống, là Mình Thánh Đức Chúa Jêsu cho bổn đạo chịu; song lẽ khi còn đi đàng thế gian, thì thường gặp nhiều giặc thù mình, là tính xác thịt, chớc ma quỷ và thói thế gian làm hết sức ngăn trở kéo bổn đạo vào nước Thiên đàng. Vậy ai muốn phá lợc chớc ấy, thì phải bắt chớc ông thánh Moisen dang tay ra mà cầu nguyện, và phải năng nắn suy ngắm sự thơng khó Đức Chúa Jêsu; lại năng cầu xin Đức Chúa Blời giúp sức cho, thì mới phá được giặc ấy...”.
Chúng tôi muốn trở lại ý kiến của tác giả bài viết Vài nhận định về đời sống Kitô giáo tại Việt Nam. Chúng tôi chia xẻ với hai nhận định của ông về hiện trạng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam. Theo tác giả, trước hết là: “Một đời sống Đạo gắn liền với nếp sinh hoạt”. Trong đó “Giáo hội Công giáo vốn là một Giáo hội khá mạnh về tổ chức, khá sầm uất trong sinh hoạt. Tuy nhiên, trong lòng những tổ chức và sinh hoạt ấy, đời sống Đức tin có tính chất cá vị hình nh lại khá yếu kém. Các nhà thờ của chúng ta thường đông người trong những giờ có tổ chức sinh hoạt phụng vụ, nhưng lại vắng hoe khi không có tổ chức nào. Tổ chức giáo xứ có những ban bệ khá vững chắc, nhưng cách sống thấm nhuần Tin Mừng lại không thể hiện được bao nhiêu”.Tác giả có một nhận định khác là: “Một đời sống Đạo gắn liền với luật lệ”, trong đó: “Trong cung cách sống Đạo hiện nay, nếp sống của người Kitô hữu thường được quy định bằng những luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể: làm dâú, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay... Có lẽ nhiều “chức sắc” trong Giáo hội vẫn đặt người Kitô hữu vào vị thế nh những tín hữu thời Trung cổ, nghĩa là những Kitô hữu ít học và cần những người hướng dẫn tỉ mỉ, rõ ràng và giữ luật bằng cách chu toàn những việc cụ thể...”1.Qua sự “khảo sát sơ bộ” lịch sử sách giáo lý ở nước ta có thể nhận định rằng: Về cơ bản, trong bốn loại sách giáo lý nói chung là loại sách Huấn giáo cơ bản (Catéchèse élémentaire); Huấn giáo nhiệm tích (Catéchèse mystagogique); Huấn giáo phụng vụ (Catéchèse liturgique) và Huấn giáo thần học (Catéchèse théologique), thì có vẻ các sách giáo lý ở ta thường rơi vào loại I và III.
Vấn đề đã rõ ràng. Trong nỗ lực cổ vũ cho “sống Đạo theo cung cách Việt Nam”, điều mà theo chúng tôi có lợi cho cả phần đạo và phần đời, cần phải bắt đầu ngay từ việc cho người tín hữu, ngay từ khi ở lứa tuổi “bao đồng” được tiếp cận với một sự giảng dạy giáo lý thực sự cập nhật theo đúng tinh thần mà Công đồng Vatican II đã đặt ra.
Chúng tôi muốn nhắc lại ý kiến của Gm Nguyễn Văn Sang trong cuốn sách Rao giảng Tin Mừng theo cung cách Việt Nam (Toà Tổng Giám mục Thái Bình, 2000): “Cho đến nay một số miền trong Nớc Việt Nam, tinh thần chiêm nghiệm và cầu nguyện đang được giáo dục cho có chiều sâu và vững chắc hơn, được canh tân lại, vẫn giữ được sự sốt sắng nhiệt thành đó”. Giám mục cũng nhắc nhở: “Anh chị em đừng nghe những người chỉ trích Giáo hội Việt Nam nơi hàng Giáo hữu, trong đó có giới trẻ, là một Giáo hội Bí tích, nghĩa là những người giữ Đạo chỉ chăm lo lãnh nhận các Nhiệm tích...” (Sđd, tr420, 421).
Tôi nghĩ ý tưởng sâu xa đó của bài viết cũng xin được mượn để khép lại bài viết nhỏ này.
Hà Nội, ngày 05 tháng 4 năm 2004