Nhân loại nghĩ gì về Thượng Đế?
Thượng Đế còn đưọc gọi là Đấng Tạo Hóa, Ông Trời, Trời, Thiên, Thiên Chúa, Đấng Tối Thượng, Đấng Tối Cao, Đức Chúa Trời, mặc dù người Việt Nam chúng ta có nhiều cách gọi khác nhau, những cũng chỉ nói đến một Đấng duy nhất đã dựng nên mọi loài mọi vật trên trời, dưới đât, hữu hình và vô hình.
Dân Việt tin vào Trời. Ca dao, tục ngữ, hoặc những câu nói trong dân gian đầy dẫy, nói lên niềm tin đó:
Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng,
Dù ai chác lợi mua danh,
Miễn ta, ta được đạo lành thì thôi.
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu,
Công lênh chẳng quản dài lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bat cơm,...
Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,
Nào cầy nào cấy trẻ gìa đua nhau;
Lạy Trời mưa thuận gió đều,
Cho đồng lúa tốt, cho chìu lòng em.
Con chim nó hót trên cành,
nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
nếu Trời không có, làm sao có mình?
Ngẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã băt làm người có thân,
băt phong trần phải phong trần,
cho thanh cao mới được phần thanh cao. v.v.
Đức Khổng Tử: "Duy Thiên vi đại" (Chỉ có Trời là lớn)
"Nhân tri nhân bât khả dĩ bât tri Thiên."
(Người ta còn biêt nhau, không thể mà không biết Trời được.)
"Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú."
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no mặc ấm, mà sống vô đạo, thì có hơn gì con vật.)
Thầy Chu Tử: "Thượng đế gỉa, Thiên chi Chúa tể gỉa."
(Vua trên hêt là Chúa trên trời.)
Ông Đỗ Trọng Thư: "Thiên gỉa vạn vật chi tổ."
(Trời là gôc của vạn vật.)
Triêt gia Pascal: "Nếu bạn muốn tin vào Thượng Đế, bạn phải qùy xuống"
Bác học Pasteur: "Càng nghiên cứu về khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế."
Bác học Becquerel: "Nhờ nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có Đức tin."
Bác học Newton: "Tôi đã thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính."
Pasteur: "Mĩa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hêt hoặc chết là trở về với hư vô."
Văn hào Platon: "Những ai có một chut trí khôn, đều phải kêu cầu Thượng Đế trước khi băt đầu công việc của họ, dù việc lớn hay việc nhỏ."
Bác học Duclaux: "Nếu sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do sự tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuât hiện kia, nó kỳ dị như hòn đá, tự nó bò lên sườn núi."
Charles Dickens: “Kinh Thánh Tân Ươc chính là cuốn sách tôt nhất đã từng và sẽ được biêt đến trên thế giới.”
Isaac Newton: “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bât cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”
Victor Hugo: “Nước Anh có hai cuốn sách, Kinh Thánh và Shakespears.
Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Bác học Albert Einstein: “Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”; “Thượng Đế không chơi trò may rủi.”
Giáo sư James Simpson, người phat minh ra phương phap gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phat minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”
Triêt gia Kant: "Không ai chứng minh một cách xác đáng là không có Thiên Chúa."
Bác học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng thap Eiffel: "Edison hêt sức khâm phục và ca ngợi tất cả những nhà kỷ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa."
Pascal: "Người không tin nói, nếu tôi có đức tin, tôi sẽ bỏ tà dâm. Nhưng tôi bảo anh, nếu anh bỏ tà dâm, anh sẽ có Đức tin."
Văn hào Bossuet: "Những chân lý đời đời không thay đổi (của luân lý) buộc ta phải tin rằng có một Đấng Tạo Hóa."
Triêt gia Brunetter: "Đã từ lâu, tôi cố gắng tìm kiếm một nền luân lý vô tôn giáo. Trước hêt, tôi thấy rằng điều này khó thực hiện, sau tôi thấy rằng qúa liều lĩnh, cuối cùng tôi thấy rằng không thể được. Tôi một người thuộc nhóm Tự Do Tư Tưởng. Tôi băt đầu nghiên cứu Thiên Chúa giáo. Tôi đã học hỏi rât lâu, suy nghĩ rât cẩn thận, cuối cùng tôi phải nói rằng, chân lý ở phía chân trời đó."
Giáo sĩ Moreux giám đôc đài thiên văn Bourges: "Tôi liên lạc với các vị giám đôc thuộc hêt mọi đài thiên văn trên thế giới, tất cả đều tin có Thiên Chúa."
Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”
Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đức (Lourdes, France). Marie Ferrand, từ một cô gái săp chết, trở nên lành mạnh tưc khăc, ông nói: “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bât ngờ, một phep lạ mới xẩy ra.” Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xác nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Đạo Chúa, trước khi về nhà Cha trên trời.
Văn hào Victor Hugo: "Thượng Đế là Đấng vô hình xác thực, chối Ngài là mù quáng điên rồ."
Thánh Augustin: "Không ai phủ nhận Thượng Đế, nếu họ không có lợi gì khi phải phủ nhận Ngài."
Triêt gia Platon: "Có thể xây một thành trì trên chín từng mây, dễ hơn cai trị một dân không có tôn giáo."
Chateaubriand: "Tiêu hủy việc thờ tự của Phúc âm, thì mọi làng phải xây nhiều nhà ngục và phải có nhiều lý hình."
Bác học T. Termier: "Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biêt Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyêt điểm, có cùng đich và rât phức tạp. Do đó, hơn những người dôt nat khác, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bât di dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa. Và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa."
Giám mục Hulst sau 20 năm nghiên cứu các vấn đề triêt học. Ngài có viết năm 1885 rằng: Ngài đã đọc và suy nghĩ rât nhiều về các sach báo các nhà vô thần tài giỏi nhất, có tiếng nhất, những nhà thực nghiệm, những nhà phiếm thần đủ cỡ đã viết. Tất cả những cái đó, không làm khuynh đảo lòng tin của Ngài, mà còn làm cho Ngài tin đến mưc độ hiển nhiên, sự có một đấng Thượng Đế tuyệt đối, có ngôi vị và tạo dựng vạn vật.
Bismarck, một võ quan và cũng là chính khách nổi tiếng của Đức: "Người có trí khôn mà không nhìn biêt, hay chẳng muốn nhìn biết có Thiên Chúa, thì anh không hiểu sao họ không chết quách đi, vì chán nản và bị khinh bỉ." (thư viết cho vợ)
A. Eynieu đã công bố bản thống kê : trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biêt lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% các nhà bác học tin Thượng Đế.
Bác sĩ Dennert, người Đức cũng tuyên bố kêt qủa tìm tòi của ông để biêt quan niệm tôn giáo của 300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua. "38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tưc cũng 92% tin có Thượng Đế."
Svetlana Staline, con gái nhà độc tài đỏ Staline, sinh ra trong vô thần, huấn luyện trong vô thần, bà đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo.
Các bác học vô thần đã trở lại Thiên Chúa giáo: Taraschi Nagai, Alexis Carrel, Bregson...
Ông Lục Trung Tường, nhà ngoại giao Trung hoa, từ nhỏ đã là môn sinh của sân Trình cửa Khổng, và chỉ biêt có đạo ông bà tổ tiên, sau đã gặp Thiên Chúa giáo như gặp được kho báu, ông đã trở về với Chúa. Ông nói: "Ơn cứu độ là chổ tập trung tất cả các nẻo đường, là chổ độc nhất mà Đức hiếu của loài người, được tiêp vào Đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Giêsu Kitô đã dạy, và đã cho chúng ta hưởng thụ, để kêt hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời."
Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim sơn, Ninh bình, Băc Việt. Vì tiêp xúc với tín hữu Thiên Chúa giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã đọc sach Phúc âm, đã nhận ra tính cách siêu việt của Đức Giêsu Kitô, Con Trời giáng thế. Ông nói: "Tôi đã đọc Phúc âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Giêsu Kitô không phải chỉ là nhân vật khác thường, Ngài chính là Con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc âm."
Ông Trịnh Sùng Ngô, Giáo sư triêt Đại học Honolulu, nguyên Đại sứ Trung Hoa Dân Quôc tại Vatican. Sau khi trở lại ông giúp nhiều bạn hữu biêt đạo, ông đã đem hêt tâm trí vào việc dịch Thánh Kinh ra tiếng Trung hoa. Ông nói: "Thiên Chúa giáo là đạo bởi Trời. Người ta lầm cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á châu, không cũ, không mới. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Giêsu, để ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Từ nay sự sống và bản thể tôi được đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa, tôi đã không thiệt gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện."
Họa sĩ Nhật Foujita, dòng dỏi tướng quân Samourai, đã giúp triều đình Mikado, từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12. Thân sinh ông là sĩ quan câp tướng trong Bộ Tham Mưu Hoàng gia. Sau khi tôt nghiệp trường mỹ thuật Đông Kinh, Foujita được gửi qua Âu châu, để tiêp xuc với mỹ thuật Tây phương vào năm 1912. Đến Paris, Foujita được tiêp xuc với các nhà danh họa như Picasso, Van Gough, Renoir, Gauguin..v.v..được quan sat những tác phẩm ở các bảo tàng viện và các Thánh đường. Oc thẩm mỹ tế nhị làm cho ông chóng nổi tiếng. Năm 1919, 1920, 1923 ông đã trưng bày nhiều tác phẩm gía trị. Năm 1924-30 ông chỉ huy trang trí Khu Nhật Bản ở Câu Lạc Bộ Đồng Minh, được huy chương của hai nước Phap và Bỉ. Năm 1931 ông qua Mỹ, năm 1933 qua Roma, về Nhật năm 1949, ông và cả gia đình lãnh Phep Thánh Tẩy tại nhà thờ Reims. Ông đã mãn nguyện trở nên con Chúa. Ông nói: "Sự nghiên cứu mỹ thuật Tây phương đã đưa tôi đến những sáng tác của Thiên Chúa giáo, làm cho tôi bước vào một thế giới siêu phàm, ở đấy tôi nhìn thấy Thượng Đế. Những kiến truc vĩ đại, những kiệt tác về điêu khăc, hội họa của Thiên Chúa giáo làm cho tôi rung động tâm hồn, khiến tôi say mê tìm hiểu đến thỏa mãn. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Thượng Đế và nhất quyêt trở về với Ngài."
Ông Mashaba, một học gỉa Ấn độ, sinh tại Bihar. Ông được du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành chánh, ông không nhận một công tác nào trong khối Liên hiệp Anh; sẵn có khuynh hướng về thần bí học, ông đã sống độc thân để nghiên cứu về các tôn giáo. Ông nói: "Sở dĩ mỗi tôn giáo công dụng khác nhau, vì mỗi giáo tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bằng bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc, và có nhiều đặc điểm mà các tôn giáo khác không có, như:
J.J Rousseau có ý mĩa mai những ai cho rằng câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu là bịa đặt, như sau: "Bịa đặt như thế thì không được; đến nổi tác gỉa bịa đặt, (nếu có) chắc chắn còn lạ lùng hơn anh hùng trong cuốn sach."
Các Tổng Thống Hoa Kỳ:
Sau đây là hai câu chuyện minh chứng sự hiện hữu của Thượng Đế.
Cái chết của Voltaire.
Người ta coi ông là ông tổ của vô thần. Với ngòi bút thiên tài, ông cố hạ bệ Thiên Chúa. Huấn ngôn của ông là "Hãy đánh đổ cái đứa quái gỡ" (ông ám chỉ Hội Thánh Chúa) Không một lời gian dối nào mà ông tởm gớm, không một vu oan nào mà ông ghê sợ. Ông chiêu tập một số anh em, lấy tên là nhóm Beelzebuth, mục đích để hạ bệ Thiên Chúa. Có chịu các phép bí tich cũng để chế nhạo Thiên Chúa. Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: "20 năm nữa Thiên Chúa có thể về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài." Đúng 20 năm sau, năm 1773, Voltaire đã tăt thở trong cái chết thê thảm. Ông trông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông la lên: "Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa... Đây qủy muốn băt tôi...Tôi trông thấy hỏa ngục."
Ông tru treo gầm thét như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa hay giúp đỡ người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, bà thường hay nói: "Khi ấy tôi đang ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không còn muốn thấy một người vô đạo chết nữa." Một người khác cũng đã nói: "Nếu qủy có thể chết được, cũng không chết dữ như Voltaire."
Hỏa ngục.
Năm 1917, Đức Mẹ Maria đã hiện ra với ba trẻ tại Fatima, nước Bồ đào Nha, đã cho các em trông thấy Hỏa ngục và các em đã mô tả lại như sau:
"Đức Mẹ cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đât. Chìm ngập trong lửa này là qủy dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phat ra từ thân hình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rơt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mât thăng bằng, và giữa những tiếng la het và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiêp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Cac qủy dữ có thể được phân biệt do các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiêp và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suôt. Thị kiến này kéo dài một luc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biêt ơn cho xứng với Mẹ yêu dấu trên trời của chúng con, Đấng đã báo trước cho chúng con trong lần hiện ra thứ nhất, khi hứa rằng Ngài sẽ đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiêp"
Hy vọng ít dòng trình bày trên đây, giúp cho những ai còn ngờ vực sự hiện hữu của THƯỢNG ĐẾ suy nghĩ
Thượng Đế còn đưọc gọi là Đấng Tạo Hóa, Ông Trời, Trời, Thiên, Thiên Chúa, Đấng Tối Thượng, Đấng Tối Cao, Đức Chúa Trời, mặc dù người Việt Nam chúng ta có nhiều cách gọi khác nhau, những cũng chỉ nói đến một Đấng duy nhất đã dựng nên mọi loài mọi vật trên trời, dưới đât, hữu hình và vô hình.
Dân Việt tin vào Trời. Ca dao, tục ngữ, hoặc những câu nói trong dân gian đầy dẫy, nói lên niềm tin đó:
- Trời sinh voi, sinh cỏ. Trời đánh còn tránh miếng ăn.
- Trời sinh, Trời dưỡng. Trời cao có mắt.
- Trời cho ai nấy hưởng; Trời gọi ai, nấy dạ
- Sống nhờ ơn Trời, chết về chầu Trời.
- Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.
- Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giàu, có chí thì nên.
- Trời cho hơn lo làm. Chỉ có Trời cứu.
- Mong đèn Trời soi xét. Có Trời chứng giám.
- Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền:
- Đất trời còn đó, em giữ truyền thủy chung.
- Lưới Trời lồng lộng, thưa mà không lọt.
- Thiên bât dung gian. (Trời không dung thứ kẻ gian ác)
- Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh (Trời sinh ra mọi loài, con người là khôn hơn hêt)
- Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần (Giàu to là do Trời cho, giàu nhỏ là do cần kiệm)
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên. (Con người mưu kế, thành bại là do Trời định đoạt)
- Thuận Thiên giã tồn, nghịch Thiên giã vong (Theo Trời thì sinh tồn, nghịch Trời thì diệt vong)
- Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho.
- Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân (Trời không phụ bạc người có lòng tôt)
- Duyên ba sinh Trời đã dành sẵn (duyên vợ chồng là do Trời săp đặt)
Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng,
Dù ai chác lợi mua danh,
Miễn ta, ta được đạo lành thì thôi.
Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu,
Công lênh chẳng quản dài lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy,
Lấy đầy bat cơm,...
Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,
Nào cầy nào cấy trẻ gìa đua nhau;
Lạy Trời mưa thuận gió đều,
Cho đồng lúa tốt, cho chìu lòng em.
Con chim nó hót trên cành,
nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
nếu Trời không có, làm sao có mình?
Ngẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã băt làm người có thân,
băt phong trần phải phong trần,
cho thanh cao mới được phần thanh cao. v.v.
Đức Khổng Tử: "Duy Thiên vi đại" (Chỉ có Trời là lớn)
"Nhân tri nhân bât khả dĩ bât tri Thiên."
(Người ta còn biêt nhau, không thể mà không biết Trời được.)
"Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cư nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú."
(Làm người phải có đạo, nếu chỉ tìm ăn no mặc ấm, mà sống vô đạo, thì có hơn gì con vật.)
Thầy Chu Tử: "Thượng đế gỉa, Thiên chi Chúa tể gỉa."
(Vua trên hêt là Chúa trên trời.)
Ông Đỗ Trọng Thư: "Thiên gỉa vạn vật chi tổ."
(Trời là gôc của vạn vật.)
Triêt gia Pascal: "Nếu bạn muốn tin vào Thượng Đế, bạn phải qùy xuống"
Bác học Pasteur: "Càng nghiên cứu về khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế."
Bác học Becquerel: "Nhờ nghiên cứu khoa học, đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có Đức tin."
Bác học Newton: "Tôi đã thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính."
Pasteur: "Mĩa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hêt hoặc chết là trở về với hư vô."
Văn hào Platon: "Những ai có một chut trí khôn, đều phải kêu cầu Thượng Đế trước khi băt đầu công việc của họ, dù việc lớn hay việc nhỏ."
Bác học Duclaux: "Nếu sự sống đầu tiên xuât hiện trên mặt đât do sự tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuât hiện kia, nó kỳ dị như hòn đá, tự nó bò lên sườn núi."
Charles Dickens: “Kinh Thánh Tân Ươc chính là cuốn sách tôt nhất đã từng và sẽ được biêt đến trên thế giới.”
Isaac Newton: “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bât cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”
Victor Hugo: “Nước Anh có hai cuốn sách, Kinh Thánh và Shakespears.
Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Bác học Albert Einstein: “Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”; “Thượng Đế không chơi trò may rủi.”
Giáo sư James Simpson, người phat minh ra phương phap gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phat minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”
Triêt gia Kant: "Không ai chứng minh một cách xác đáng là không có Thiên Chúa."
Bác học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng thap Eiffel: "Edison hêt sức khâm phục và ca ngợi tất cả những nhà kỷ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa."
Pascal: "Người không tin nói, nếu tôi có đức tin, tôi sẽ bỏ tà dâm. Nhưng tôi bảo anh, nếu anh bỏ tà dâm, anh sẽ có Đức tin."
Văn hào Bossuet: "Những chân lý đời đời không thay đổi (của luân lý) buộc ta phải tin rằng có một Đấng Tạo Hóa."
Triêt gia Brunetter: "Đã từ lâu, tôi cố gắng tìm kiếm một nền luân lý vô tôn giáo. Trước hêt, tôi thấy rằng điều này khó thực hiện, sau tôi thấy rằng qúa liều lĩnh, cuối cùng tôi thấy rằng không thể được. Tôi một người thuộc nhóm Tự Do Tư Tưởng. Tôi băt đầu nghiên cứu Thiên Chúa giáo. Tôi đã học hỏi rât lâu, suy nghĩ rât cẩn thận, cuối cùng tôi phải nói rằng, chân lý ở phía chân trời đó."
Giáo sĩ Moreux giám đôc đài thiên văn Bourges: "Tôi liên lạc với các vị giám đôc thuộc hêt mọi đài thiên văn trên thế giới, tất cả đều tin có Thiên Chúa."
Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”
Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đức (Lourdes, France). Marie Ferrand, từ một cô gái săp chết, trở nên lành mạnh tưc khăc, ông nói: “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Qủa là bât ngờ, một phep lạ mới xẩy ra.” Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xác nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Đạo Chúa, trước khi về nhà Cha trên trời.
Văn hào Victor Hugo: "Thượng Đế là Đấng vô hình xác thực, chối Ngài là mù quáng điên rồ."
Thánh Augustin: "Không ai phủ nhận Thượng Đế, nếu họ không có lợi gì khi phải phủ nhận Ngài."
Triêt gia Platon: "Có thể xây một thành trì trên chín từng mây, dễ hơn cai trị một dân không có tôn giáo."
Chateaubriand: "Tiêu hủy việc thờ tự của Phúc âm, thì mọi làng phải xây nhiều nhà ngục và phải có nhiều lý hình."
Bác học T. Termier: "Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biêt Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyêt điểm, có cùng đich và rât phức tạp. Do đó, hơn những người dôt nat khác, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bât di dịch, tự hữu, cần thiêt, hoàn toàn và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo: khoa học dẫn đến Thiên Chúa. Và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói, vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa."
Giám mục Hulst sau 20 năm nghiên cứu các vấn đề triêt học. Ngài có viết năm 1885 rằng: Ngài đã đọc và suy nghĩ rât nhiều về các sach báo các nhà vô thần tài giỏi nhất, có tiếng nhất, những nhà thực nghiệm, những nhà phiếm thần đủ cỡ đã viết. Tất cả những cái đó, không làm khuynh đảo lòng tin của Ngài, mà còn làm cho Ngài tin đến mưc độ hiển nhiên, sự có một đấng Thượng Đế tuyệt đối, có ngôi vị và tạo dựng vạn vật.
Bismarck, một võ quan và cũng là chính khách nổi tiếng của Đức: "Người có trí khôn mà không nhìn biêt, hay chẳng muốn nhìn biết có Thiên Chúa, thì anh không hiểu sao họ không chết quách đi, vì chán nản và bị khinh bỉ." (thư viết cho vợ)
A. Eynieu đã công bố bản thống kê : trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biêt lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% các nhà bác học tin Thượng Đế.
Bác sĩ Dennert, người Đức cũng tuyên bố kêt qủa tìm tòi của ông để biêt quan niệm tôn giáo của 300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua. "38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tưc cũng 92% tin có Thượng Đế."
Svetlana Staline, con gái nhà độc tài đỏ Staline, sinh ra trong vô thần, huấn luyện trong vô thần, bà đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo.
Các bác học vô thần đã trở lại Thiên Chúa giáo: Taraschi Nagai, Alexis Carrel, Bregson...
Ông Lục Trung Tường, nhà ngoại giao Trung hoa, từ nhỏ đã là môn sinh của sân Trình cửa Khổng, và chỉ biêt có đạo ông bà tổ tiên, sau đã gặp Thiên Chúa giáo như gặp được kho báu, ông đã trở về với Chúa. Ông nói: "Ơn cứu độ là chổ tập trung tất cả các nẻo đường, là chổ độc nhất mà Đức hiếu của loài người, được tiêp vào Đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Giêsu Kitô đã dạy, và đã cho chúng ta hưởng thụ, để kêt hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời."
Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim sơn, Ninh bình, Băc Việt. Vì tiêp xúc với tín hữu Thiên Chúa giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã đọc sach Phúc âm, đã nhận ra tính cách siêu việt của Đức Giêsu Kitô, Con Trời giáng thế. Ông nói: "Tôi đã đọc Phúc âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Giêsu Kitô không phải chỉ là nhân vật khác thường, Ngài chính là Con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra trong Phúc âm."
Ông Trịnh Sùng Ngô, Giáo sư triêt Đại học Honolulu, nguyên Đại sứ Trung Hoa Dân Quôc tại Vatican. Sau khi trở lại ông giúp nhiều bạn hữu biêt đạo, ông đã đem hêt tâm trí vào việc dịch Thánh Kinh ra tiếng Trung hoa. Ông nói: "Thiên Chúa giáo là đạo bởi Trời. Người ta lầm cho đó là đạo của Âu Châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á châu, không cũ, không mới. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được về với Đức Giêsu, để ở luôn với Ngài thật là vui sướng vô biên. Từ nay sự sống và bản thể tôi được đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa, tôi đã không thiệt gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện."
Họa sĩ Nhật Foujita, dòng dỏi tướng quân Samourai, đã giúp triều đình Mikado, từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12. Thân sinh ông là sĩ quan câp tướng trong Bộ Tham Mưu Hoàng gia. Sau khi tôt nghiệp trường mỹ thuật Đông Kinh, Foujita được gửi qua Âu châu, để tiêp xuc với mỹ thuật Tây phương vào năm 1912. Đến Paris, Foujita được tiêp xuc với các nhà danh họa như Picasso, Van Gough, Renoir, Gauguin..v.v..được quan sat những tác phẩm ở các bảo tàng viện và các Thánh đường. Oc thẩm mỹ tế nhị làm cho ông chóng nổi tiếng. Năm 1919, 1920, 1923 ông đã trưng bày nhiều tác phẩm gía trị. Năm 1924-30 ông chỉ huy trang trí Khu Nhật Bản ở Câu Lạc Bộ Đồng Minh, được huy chương của hai nước Phap và Bỉ. Năm 1931 ông qua Mỹ, năm 1933 qua Roma, về Nhật năm 1949, ông và cả gia đình lãnh Phep Thánh Tẩy tại nhà thờ Reims. Ông đã mãn nguyện trở nên con Chúa. Ông nói: "Sự nghiên cứu mỹ thuật Tây phương đã đưa tôi đến những sáng tác của Thiên Chúa giáo, làm cho tôi bước vào một thế giới siêu phàm, ở đấy tôi nhìn thấy Thượng Đế. Những kiến truc vĩ đại, những kiệt tác về điêu khăc, hội họa của Thiên Chúa giáo làm cho tôi rung động tâm hồn, khiến tôi say mê tìm hiểu đến thỏa mãn. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Thượng Đế và nhất quyêt trở về với Ngài."
Ông Mashaba, một học gỉa Ấn độ, sinh tại Bihar. Ông được du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành chánh, ông không nhận một công tác nào trong khối Liên hiệp Anh; sẵn có khuynh hướng về thần bí học, ông đã sống độc thân để nghiên cứu về các tôn giáo. Ông nói: "Sở dĩ mỗi tôn giáo công dụng khác nhau, vì mỗi giáo tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bằng bác ái v.v… nhưng không tôn giáo nào đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc, và có nhiều đặc điểm mà các tôn giáo khác không có, như:
- - Vị giáo tổ bởi Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trước từ mấy ngàn năm trong lịch sử hẳn hoi, khác hẳn với những giáo tổ khác, chỉ là người trần tục.
- - Có từ Trời xuống lập đạo, thì đạo đó mới có khả năng đưa con người về Trời được.
- - Đạo Trời thì như thuốc trường sinh, dùng thuốc này thì không cần thuốc nào nữa; vì các đạo khác chỉ xoa dịu, hay làm quên đau khổ trong thời hạn, còn Đạo Trời chẳng những cứu khổ, còn ban cho con người sự sống đời đời, đó mới thật là ước vọng tối cao của mỗi người.
- - Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết, đã sống lại và về Trời, bảo đảm cho cuộc hành trình của tín hữu trên đường đời, là hy vọng vững chắc của người tín hữu.
- - Vì mang săc thái siêu phàm và chứa đựng những gía trị cao thượng vượt mưc, nên Đạo Trời thường bị ghen tị, hiểu lầm hay lấn ap, thế mà vẫn phat triển điều hòa, vẫn vững bền giữa mọi gian lao thử thách, khiến cho nhiều người trước kia thờ ơ lãnh đạm, hay thù ghet, phải tìm hiểu cảm phục và do đó nhiều khi trở nên tín hữu nhiệt thành.
J.J Rousseau có ý mĩa mai những ai cho rằng câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu là bịa đặt, như sau: "Bịa đặt như thế thì không được; đến nổi tác gỉa bịa đặt, (nếu có) chắc chắn còn lạ lùng hơn anh hùng trong cuốn sach."
Các Tổng Thống Hoa Kỳ:
- George Washington: "Không thể có một chính phủ đúng, khi chính phủ đó phủ nhận Thượng đế và Kinh thánh."
- Abraham Lincoln: "Kinh Thánh là qùa tặng qúy nhất mà Thượng đế đã ban cho nhân loại."
- Dwight Eisenhower: "Văn minh của chúng ta được xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh."
- Andrew Jackson: "Kinh Thánh phải là nền tảng cho thể chế của chúng ta."
- Trong con người có một số nước đủ giặt một cái khăn bàn.
- - Máu chứa chât săt, đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.
- - Có một số chất vôi đủ quét một bức tường nhỏ.
- - Đôt ra than, có thể làm được 65 cây viết chì.
- - Chât phôt phát đủ làm được hộp diêm.
- - Và chât muối vài muỗng nhỏ.
Sau đây là hai câu chuyện minh chứng sự hiện hữu của Thượng Đế.
Cái chết của Voltaire.
Người ta coi ông là ông tổ của vô thần. Với ngòi bút thiên tài, ông cố hạ bệ Thiên Chúa. Huấn ngôn của ông là "Hãy đánh đổ cái đứa quái gỡ" (ông ám chỉ Hội Thánh Chúa) Không một lời gian dối nào mà ông tởm gớm, không một vu oan nào mà ông ghê sợ. Ông chiêu tập một số anh em, lấy tên là nhóm Beelzebuth, mục đích để hạ bệ Thiên Chúa. Có chịu các phép bí tich cũng để chế nhạo Thiên Chúa. Năm 1753 ông đã lên án Thiên Chúa: "20 năm nữa Thiên Chúa có thể về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài." Đúng 20 năm sau, năm 1773, Voltaire đã tăt thở trong cái chết thê thảm. Ông trông thấy những hình ảnh làm ông run sợ, ông la lên: "Một bàn tay đang kéo tôi đến với Thiên Chúa... Đây qủy muốn băt tôi...Tôi trông thấy hỏa ngục."
Ông tru treo gầm thét như thú vật hung dữ. Ông lấy móng tay cấu xé thịt mình ra từng miếng. Một bà gìa hay giúp đỡ người hấp hối, sau khi chứng kiến cái chết của Voltaire, bà thường hay nói: "Khi ấy tôi đang ở gần giường của Voltaire đang hấp hối, tôi không còn muốn thấy một người vô đạo chết nữa." Một người khác cũng đã nói: "Nếu qủy có thể chết được, cũng không chết dữ như Voltaire."
Hỏa ngục.
Năm 1917, Đức Mẹ Maria đã hiện ra với ba trẻ tại Fatima, nước Bồ đào Nha, đã cho các em trông thấy Hỏa ngục và các em đã mô tả lại như sau:
"Đức Mẹ cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đât. Chìm ngập trong lửa này là qủy dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phat ra từ thân hình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rơt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mât thăng bằng, và giữa những tiếng la het và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiêp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Cac qủy dữ có thể được phân biệt do các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiêp và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suôt. Thị kiến này kéo dài một luc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biêt ơn cho xứng với Mẹ yêu dấu trên trời của chúng con, Đấng đã báo trước cho chúng con trong lần hiện ra thứ nhất, khi hứa rằng Ngài sẽ đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiêp"
Hy vọng ít dòng trình bày trên đây, giúp cho những ai còn ngờ vực sự hiện hữu của THƯỢNG ĐẾ suy nghĩ