LTS: Kính thưa qúi vị độc giả của VietCatholic, chúng tôi rất hân hạnh giới thiệu tới qúi vị Tuyển Tập Thần Học rất giá trị "ĐƯỜNG VÀO THẦN HỌC" của hai tác giả Bernard Lauret và Francois Refoulé biên soạn, và được LM Việt Châu và Ban dịch thuật Dân Chúa chuyển ngữ sang tiếng Việt. Bộ sách gồm 4 tập: Tổng Dẫn, Tín Lý, Luân Lý, Thực Hành. Mỗi tập trên 500 trang. Đây là Bộ Sách rất cần thiết cho các chủng sinh, nam nữ tu sĩ, và cả giáo dân nữa khi muốn tìm hiểu và học hỏi về nền Thần Học của Giáo Hội Công Giáo. Nó cũng giúp ích cho các linh mục khi cần ôn lại những gì mình đã học tại chủng viện. Tuy là một Bộ Sách có tầm cỡ, nhưng chúng được viết nhằm cho giới quảng đại quần chúng, nên dễ đọc, đễ hiểu, nhất là việc chuyển ngữ của Ban Dịch Thuật đã không dùng quá nhiều từ chuyên môn, mà là những từ ngữ dễ hiểu, trong sáng. Chúng tôi xin chân thành cám ơn Cha Việt Châu, chủ nhiệm Dân Chúa Mỹ Châu và Ban Dịch Thuật đã đóng góp với chúng tôi trong việc chia sẻ những tài liệu qúi hóa này.
LM John Trần Công Nghị
TỰA
Đầu thập niên 1950, nhà xuất bản Le Cerf phát hành bộ Nhập Môn Thần Học thành bốn tập, được dịch sang nhiều ngôn ngữ và dùng trong nhiều nước. Nội dung được ghi chính là theo truyền thống Tôma, mà vẫn quan tâm đến việc canh tân theo Kinh Thánh và Giáo Phụ lúc ấy đang cực thịnh. Các tác giả của bộ sách đa số là thuộc dòng Đaminh Pháp, nói với giáo sĩ nhiều nhất, và ít trực tiếp hơn, nói với “giáo dân học thức” muốn đào sâu đức tin Kitô giáo.
Ngày nay tình hình đã thay đổi, hay đúng hơn, thần học muốn quan tâm đến những biến chuyển lịch sử và văn hóa chiều sâu, đang trào lên thần học, và đồng thời trên Giáo Hội: việc công nghiệp hóa, việc tiến về thành thị, việc thế tục hóa, những cuộc cách mạng, sự khẩn trương chính trị trong các nước đang phát triển, những khoa học nhân văn v.v... Về tất cả những chuyện ấy, cách nay hai mươi năm rồi (1962-1982), Công Đồng Vatican II hành động một cách chính thức. Hơn nữa, Công Đồng biến sự cập nhật hóa (aggiornamento) thành cuộc canh tân sâu xa hơn, cũng như Giáo Hội dành cho mình một dáng dấp của một Giáo Phẩm hiện diện mọi nơi, và của một giáo lý không vết nứt. Về những gì liên quan tới thần học, dù sao, cũng là một đảo lộn làm nổ tung thuyết bất động mà các nhà thần học sáng suốt nhất đã đã cố gắng tạo hình nên: một tân thuyết Tôma nhiều ít may mắn, hay trái lại, sự dựa vào học thuyết Tôma được tái lập theo lịch sử, những cuộc nghiên cứu sử học và phê bình, việc nghiên cứu đại kết v.v...
Công Đồng Vatican II được kèm theo và tiếp theo ngay bằng một công trình thần học tăng cường, khác nhiều với công việc đã chuẩn bị Công Đồng. Các nhà thần học đã xuất hiện như những nhà hành động được đặc ân có một ý thức mới về “Giáo Hội trong thế giới ngày nay”. Như vậy là có điều ngoạn mục trong công cuộc tinh luyện thần học (đợt sóng của các dòng tư tưởng liên tiếp: chú giải Kinh Thánh, thần học về thế tục hóa, thần học về hy vọng, thần học về giải thoát, tính kỷ luật tương giao v.v...) cũng như trong bối cảnh định chế, nhiều chủng viện biến mất, hay chuyển thành trung tâm suy tư Kitô giáo, đồng thời việc đề ra các sứ vụ khác nhau cho ta thấy, bằng nhiều từ ngữ khác, chính tương lai các Linh Mục cũng như tương lai các cộng đoàn tín hữu Chúa Kitô. Tất cả công việc đó không phải không gây nên xáo trộn trong nhiều tâm trí không được chuẩn bị cho cuộc thay đổi tận căn, động chạm tới cả những nghi thức phụng vụ vẫn được coi là bất khả biến động, lẫn sự diễn tả đức tin tiếp cận với lịch sử.
Từ ngày khai mạc Vatican II, hai thập niên đã qua đi. Trong đời sống Giáo Hội, thế là ít. Nhưng nhìn các biến cố xảy ra trong thời gian, đã là nhiều. Vậy phải làm cho đúng, và chứng tỏ những lý do khai triển thần học.
Công trình này lúc đầu không rõ ràng, trong sự bùng nổ thần học, như ta biết. Làm sao cho đúng, làm sao khai triển một nền thần học mạch lạc trong thời kỳ của đa nguyên mà ta đã ý thức? Mà vấn đề còn khó khăn hơn, nếu ta muốn kêu gọi đến các cộng tác viên khác nhau, được chọn theo thẩm năng của họ, trong lãnh vực thần học mang cách diễn tả kiểu Pháp. Thực sự, độ sáu mươi tác giả đóng góp cho bộ Nhập Môn này, đều từ nguồn gốc khác nhau: về quốc tịch (Bỉ, Canada, Pháp, Thụy Sĩ, là đa số), về môi trường làm việc và giáo dục, tuổi tác, và định chế của họ trong Giáo Hội (độ một phần ba là giáo dân) và cả định chế tín ngưỡng (một Chính Thống và nhiều Tin Lành) hay tôn giáo (một Phật Tử, một Do Thái, một Hồi Giáo) mặc dầu đây là vấn đề của một công trình thần học Công Giáo. Việc chọn này phản ánh thực tiễn hiện nay của thần học đang vượt qua các hàng rào tín ngưỡng, nhưng không vì thế mà từ bỏ tín ngưỡng.
Nhưng cũng xin được giải thích về đầu đề: “Nhập môn vào thực tiễn khoa thần học”.
Bộ Nhập Môn này gửi đến quý bà, quý ông đang muốn đào sâu đức tin của mình, muốn hiểu rõ hơn nữa những lối diễn tả dị biệt và trình bày khác nhau về Kitô giáo, mà không hài lòng với tác phẩm của một tác giả, một khóa họp hay vài đề mục. Mà bất cứ ai bắt đầu học thần học cũng thấy mình đối diện với những vấn đề thông tin và phương pháp. Đó là điều mà François de la Chambre, tiến sĩ đại học Sorbonne, qua đời tại Paris năm 1753, đã lưu ý: “Ngay khi người ta xác tín về giá trị và sự cần thiết của một khoa học, thì lương tri đã đòi phải cẩn thận tìm xem những nguyên tắc mà khoa học ấy dựa vào như thế nào, để lập ra những điểm giáo thuyết mà khoa học ấy đề nghị. Không có sự tìm tòi sơ khởi này, người ta sẽ giống như một hành khách lên đường mà không mang hành trang, không biết phải đi đường nào”. Chính vì thế mà ngay tập đầu dẫn nhập này, chúng tôi định vị trí khoa thần học giữa những tiếp cận khác của thế giới, và khai triển những đặc điểm của khoa này. Chúng tôi cũng đã ghi những chỉ dẫn hữu ích, trên cảnh dị biệt các môi trường mà thần học được dạy, và những lời khuyên thực dụng (trong nghiên cứu thư mục chẳng hạn). Chúng tôi cũng thêm, trong các đóng góp, một thư mục thường được chú giải, để được tiến xa hơn.
Tập nhập môn này dẫn vào thực tiễn, theo nghĩa thứ nhất, khá thực dụng, mà các tác giả khác nhau đóng một vai trò quan trọng. Quả vậy, vào những thời điểm khác, sự dị biệt có lẽ được coi như chướng ngại vật cho sự hài hòa của tổng thể, vì hình như nó muốn đặt lại thành vấn đề khoa Thần học chung (Theologia communis). Ngày nay, dị biệt lại tỏ ra như sự phong phú, nếu như - ta sẽ thấy sau - sự dị biệt ấy ăn khớp với nhau. Dù sao thì đây cũng là tình trạng cứ sự, không thể nhào nặn khác: bất kỳ ai học thần học cũng gặp nhiều tác giả, nhiều tác phẩm có định hướng khác nhau, độc giả hay thính giả phải tự tạo lấy cho mình một phán đoán riêng, miễn là đã ý thức trước được những khuếch tán và những vấn đề được tranh cãi. Ở đây, độc giả sẽ gặp việc khai phóng tâm trí và những khác biệt về cảm tính (trí thức và tinh thần) trong các tác giả của bộ Nhập Môn này.
Tuy nhiên, thực tiễn không đủ cho nhập môn. Thực hành khoa thần học cũng còn là biện phân chân lý trong lịch sử. Quả vậy, bộ Nhập Môn này không chơi trò dị biệt vì dị biệt bằng cách nhờ đến các tác giả từ những chân trời khác lạ: việc phân tán ấy sẽ chẳng đào tạo, chẳng phong phú. Chúng tôi đã muốn làm rõ thể thống nhất cho công trình tập thể này bằng cách ghi nó theo một viễn ảnh chung: thực tiễn thần học vẫn là giải thích lịch sử của Kitô giáo. Không có một phát biểu thần học nào đã trực tiếp từ trời rơi xuống mà không phải là “một lúc” của quá trình phát biểu, lặp lại và kiến lập một truyền thống lịch sử. Quả vậy, sự nhắm hướng này vẫn còn sơ sài, vì còn quá sớm để hiểu thần học như cảm nghiệm có suy nghĩ của thực hành Kitô giáo qua các thế kỷ; vẫn thiếu nhiều nghiên cứu lịch sử hay xã hội học. Nhưng đó là hòa hợp thần học với tự do Kitô giáo khi ta không lẫn thần học với thuyết duy tín trừu tượng, và nắm bắt được sự đăng ký thần học vào lịch sử. Để làm thần học, phải biết quá khứ, sống tích cực hiện tại, và chuẩn bị tương lai. Thể thống nhất của bộ Nhập Môn này, phát xuất từ mỗi tác giả-với tài trí riêng, tuổi tác và cảm tính riêng-có lưu tâm đến “lịch sử của truyền thống” hay không, và đồng thời không ngại đích thân dốc sức mà tinh luyện những gì có vẻ mang tương lai đến cho Giáo Hội.
Sự đồng quy của các tác giả có thể là một mối ngạc nhiên, nếu như không nhìn thấy hậu quả một công việc chiều sâu mà Vatican II mong muốn, đặc biệt trong sắc lệnh Optatam totius (về đào tạo Linh Mục; số 16) nhằm việc giảng dạy trong các chủng viện. Công Đồng vạch ra vài hàng lớn: “quan tâm đặc biệt (dành cho) việc học Kinh Thánh, là linh hồn của toàn bộ thần học”, dạy thần học tín lý theo sát Thánh Kinh và các Giáo Phụ “Đông cũng như Tây”, với lịch sử diễn tiến về sau của một tín điều, mà không lạc hướng cái tương quan của tín điều ấy với lịch sử chung của Giáo Hội”, và của phụng vụ, một sự đặc biệt chú ý đến thần học luân lý, “một sự hiểu biết rõ hơn về các Giáo Hội và các giáo đoàn ly khai” và “hiểu biết cả những tôn giáo khác”.
Sơ đồ của bộ Nhập Môn bốn tập này lưu tâm đến một yêu cầu: tôn trọng việc phân phối giảng dạy thần học, để cho những người dùng bộ sách này có thể dễ dàng gặp được mình. Mục lục cuối cùng ở tập IV sẽ bổ túc ý định này. Chúng tôi đã không vì thế mà tìm cách che lấp tổng thể việc dạy thần học. Bộ sách này không phải là bộ Bách Khoa từ điển, cũng không là quyển Tự điển. Chúng tôi đã quan tâm nhiều đến những vấn đề lớn hiện đang đặt ra cho việc hiểu đức tin và hiểu việc thực thi của Giáo Hội.
Cuối tập sẽ có bảng Mục Lục, ở đây xin trình bày tổng lược toàn bộ Thần Học Nhập Môn này, gồm:
Tập 1: Tổng Dẫn
Ở đây ta phải định rõ sự hiểu biết về đức tin thần học theo ba tiếp cận bổ túc:
1. Trong nhiều cách khác nhau để hiểu biết và cư ngụ thế giới. Trong phần này không đề cập đến khoa học và kỹ thuật vì chúng ta là khoa học kỹ thuật. Bởi sẽ phải có sự khai triển quá dài nên ở đây không bàn đến những vấn đề mà khoa học kỹ thuật nêu ra cho tư tưởng hiện đại, nhất là bởi sự khác biệt của khoa học theo đối tượng khoa học; chỉ nhắc tới chiều kích khoa học ở chương cuối tập và ở phần luân lý (tập III);
2. Trong chính đức tin thần học, vì hiểu biết đức tin sẽ ăn khớp với tất cả tổng thể định chế trong Giáo Hội (Quy điển Thánh Kinh, truyền thống, thừa tác vụ) và chung quanh Đại Học (chuyên hóa bộ môn, trung tâm giảng dạy.. . );
3. và tương hệ với ba tôn giáo lớn (việc chọn có giới hạn, nhưng đây là vấn đề mở ra một viễn ảnh): để các tôn giáo khác đưa ra sự giải thích Kitô giáo, để khỏi đóng khung Kitô giáo trong sự chứng nhận mình, theo một chiều.
Tập 2: Tín lý
Sơ đồ được giữ có thể làm ngạc nhiên, nhưng nó cảm hứng nhiều nhất từ một Thần học Thánh Kinh-vì Kinh Thánh là linh hồn của toàn bộ thần học-bằng cách làm nổi giá trị những nét lớn của Mạc khải Kitô giáo. Đây là một cố gắng độc sáng để trình bày Tín Lý.
Phần này gồm hai cuốn: cuốn 1 và cuốn 2.
Tập 3: Luân lý
Việc chia thành Tín Lý và Luân Lý cũng không hiển nhiên lắm, vì Luân Lý Kitô giáo mang tính thần học sâu sắc trong các minh chứng của mình. Nhưng đây là một việc thực hành thông thường trong giáo huấn, và việc chia này muốn giúp đối thoại với các nền luân lý không thần học.
Thần học luân lý trình bày những “điểm nóng” nhạy cảm nơi dư luận Kitô hữu, nhạy cảm hơn một số điều liên quan tới tín lý. Vì thế, trước khi đề cập tới những “điểm nóng”-môi trường của đời sống luân lý thông thường-chúng tôi muốn làm cho luân lý Kitô giáo ăn khớp với những khái niệm lớn của triết học luân lý và của đức tin, bằng cách đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn: tiến hóa lịch sử, thâm năng kỹ thuật, dị biệt hóa xã hội v.v...
Nhiều điều đối chiếu giữa Tín Lý và Luân Lý giúp ta hiểu hai ngành của thần học vì phát xuất từ cùng một thân cây.
Tập 4: Thực hành
Phần cuối cùng trình bày những nhiệm vụ lớn của Cộng Đồng Kitô hữu trong thế giới, theo với những điều mà người ta có thể gọi là “xã hội tính Kitô giáo” hay là cách cấu tạo đời sống Kitô giáo trong xã hội. Các chương này nhắc đến những nhiệm vụ, cho ăn khớp hết sức giữa suy tư thần học với các khoa học nhân văn đã được thiết lập: tâm lý học, sư phạm học, truyền thông học, xã hội học v.v...
Một số đóng góp đọc thấy khó hiểu hơn những đóng góp khác, nhưng lúc đó, các tiểu mục sẽ giúp ta hiểu. Nhưng tất cả đều dễ tiếp cận cho quý ông quý bà, quý anh quý chị, như thể bậc thầy ở phái Hassan, Israel de Rijn, họ biết dùng “chiếc đèn lồng” của mình nữa. Việc học sách Torah giống như ai đó “trong đêm tối qua khu rừng rậm, đồng hành với người tay có cầm đèn. Tới chỗ rẽ, người cầm đèn tách ra đi riêng, còn bạn phải mò mẫm tiếp tục đi một mình. Người có “lồng đèn” riêng chẳng phải sợ gì đêm tối”.
B. Lauret và F. Refoulé
LM John Trần Công Nghị
TỰA
Đầu thập niên 1950, nhà xuất bản Le Cerf phát hành bộ Nhập Môn Thần Học thành bốn tập, được dịch sang nhiều ngôn ngữ và dùng trong nhiều nước. Nội dung được ghi chính là theo truyền thống Tôma, mà vẫn quan tâm đến việc canh tân theo Kinh Thánh và Giáo Phụ lúc ấy đang cực thịnh. Các tác giả của bộ sách đa số là thuộc dòng Đaminh Pháp, nói với giáo sĩ nhiều nhất, và ít trực tiếp hơn, nói với “giáo dân học thức” muốn đào sâu đức tin Kitô giáo.
Ngày nay tình hình đã thay đổi, hay đúng hơn, thần học muốn quan tâm đến những biến chuyển lịch sử và văn hóa chiều sâu, đang trào lên thần học, và đồng thời trên Giáo Hội: việc công nghiệp hóa, việc tiến về thành thị, việc thế tục hóa, những cuộc cách mạng, sự khẩn trương chính trị trong các nước đang phát triển, những khoa học nhân văn v.v... Về tất cả những chuyện ấy, cách nay hai mươi năm rồi (1962-1982), Công Đồng Vatican II hành động một cách chính thức. Hơn nữa, Công Đồng biến sự cập nhật hóa (aggiornamento) thành cuộc canh tân sâu xa hơn, cũng như Giáo Hội dành cho mình một dáng dấp của một Giáo Phẩm hiện diện mọi nơi, và của một giáo lý không vết nứt. Về những gì liên quan tới thần học, dù sao, cũng là một đảo lộn làm nổ tung thuyết bất động mà các nhà thần học sáng suốt nhất đã đã cố gắng tạo hình nên: một tân thuyết Tôma nhiều ít may mắn, hay trái lại, sự dựa vào học thuyết Tôma được tái lập theo lịch sử, những cuộc nghiên cứu sử học và phê bình, việc nghiên cứu đại kết v.v...
Công Đồng Vatican II được kèm theo và tiếp theo ngay bằng một công trình thần học tăng cường, khác nhiều với công việc đã chuẩn bị Công Đồng. Các nhà thần học đã xuất hiện như những nhà hành động được đặc ân có một ý thức mới về “Giáo Hội trong thế giới ngày nay”. Như vậy là có điều ngoạn mục trong công cuộc tinh luyện thần học (đợt sóng của các dòng tư tưởng liên tiếp: chú giải Kinh Thánh, thần học về thế tục hóa, thần học về hy vọng, thần học về giải thoát, tính kỷ luật tương giao v.v...) cũng như trong bối cảnh định chế, nhiều chủng viện biến mất, hay chuyển thành trung tâm suy tư Kitô giáo, đồng thời việc đề ra các sứ vụ khác nhau cho ta thấy, bằng nhiều từ ngữ khác, chính tương lai các Linh Mục cũng như tương lai các cộng đoàn tín hữu Chúa Kitô. Tất cả công việc đó không phải không gây nên xáo trộn trong nhiều tâm trí không được chuẩn bị cho cuộc thay đổi tận căn, động chạm tới cả những nghi thức phụng vụ vẫn được coi là bất khả biến động, lẫn sự diễn tả đức tin tiếp cận với lịch sử.
Từ ngày khai mạc Vatican II, hai thập niên đã qua đi. Trong đời sống Giáo Hội, thế là ít. Nhưng nhìn các biến cố xảy ra trong thời gian, đã là nhiều. Vậy phải làm cho đúng, và chứng tỏ những lý do khai triển thần học.
Công trình này lúc đầu không rõ ràng, trong sự bùng nổ thần học, như ta biết. Làm sao cho đúng, làm sao khai triển một nền thần học mạch lạc trong thời kỳ của đa nguyên mà ta đã ý thức? Mà vấn đề còn khó khăn hơn, nếu ta muốn kêu gọi đến các cộng tác viên khác nhau, được chọn theo thẩm năng của họ, trong lãnh vực thần học mang cách diễn tả kiểu Pháp. Thực sự, độ sáu mươi tác giả đóng góp cho bộ Nhập Môn này, đều từ nguồn gốc khác nhau: về quốc tịch (Bỉ, Canada, Pháp, Thụy Sĩ, là đa số), về môi trường làm việc và giáo dục, tuổi tác, và định chế của họ trong Giáo Hội (độ một phần ba là giáo dân) và cả định chế tín ngưỡng (một Chính Thống và nhiều Tin Lành) hay tôn giáo (một Phật Tử, một Do Thái, một Hồi Giáo) mặc dầu đây là vấn đề của một công trình thần học Công Giáo. Việc chọn này phản ánh thực tiễn hiện nay của thần học đang vượt qua các hàng rào tín ngưỡng, nhưng không vì thế mà từ bỏ tín ngưỡng.
Nhưng cũng xin được giải thích về đầu đề: “Nhập môn vào thực tiễn khoa thần học”.
Bộ Nhập Môn này gửi đến quý bà, quý ông đang muốn đào sâu đức tin của mình, muốn hiểu rõ hơn nữa những lối diễn tả dị biệt và trình bày khác nhau về Kitô giáo, mà không hài lòng với tác phẩm của một tác giả, một khóa họp hay vài đề mục. Mà bất cứ ai bắt đầu học thần học cũng thấy mình đối diện với những vấn đề thông tin và phương pháp. Đó là điều mà François de la Chambre, tiến sĩ đại học Sorbonne, qua đời tại Paris năm 1753, đã lưu ý: “Ngay khi người ta xác tín về giá trị và sự cần thiết của một khoa học, thì lương tri đã đòi phải cẩn thận tìm xem những nguyên tắc mà khoa học ấy dựa vào như thế nào, để lập ra những điểm giáo thuyết mà khoa học ấy đề nghị. Không có sự tìm tòi sơ khởi này, người ta sẽ giống như một hành khách lên đường mà không mang hành trang, không biết phải đi đường nào”. Chính vì thế mà ngay tập đầu dẫn nhập này, chúng tôi định vị trí khoa thần học giữa những tiếp cận khác của thế giới, và khai triển những đặc điểm của khoa này. Chúng tôi cũng đã ghi những chỉ dẫn hữu ích, trên cảnh dị biệt các môi trường mà thần học được dạy, và những lời khuyên thực dụng (trong nghiên cứu thư mục chẳng hạn). Chúng tôi cũng thêm, trong các đóng góp, một thư mục thường được chú giải, để được tiến xa hơn.
Tập nhập môn này dẫn vào thực tiễn, theo nghĩa thứ nhất, khá thực dụng, mà các tác giả khác nhau đóng một vai trò quan trọng. Quả vậy, vào những thời điểm khác, sự dị biệt có lẽ được coi như chướng ngại vật cho sự hài hòa của tổng thể, vì hình như nó muốn đặt lại thành vấn đề khoa Thần học chung (Theologia communis). Ngày nay, dị biệt lại tỏ ra như sự phong phú, nếu như - ta sẽ thấy sau - sự dị biệt ấy ăn khớp với nhau. Dù sao thì đây cũng là tình trạng cứ sự, không thể nhào nặn khác: bất kỳ ai học thần học cũng gặp nhiều tác giả, nhiều tác phẩm có định hướng khác nhau, độc giả hay thính giả phải tự tạo lấy cho mình một phán đoán riêng, miễn là đã ý thức trước được những khuếch tán và những vấn đề được tranh cãi. Ở đây, độc giả sẽ gặp việc khai phóng tâm trí và những khác biệt về cảm tính (trí thức và tinh thần) trong các tác giả của bộ Nhập Môn này.
Tuy nhiên, thực tiễn không đủ cho nhập môn. Thực hành khoa thần học cũng còn là biện phân chân lý trong lịch sử. Quả vậy, bộ Nhập Môn này không chơi trò dị biệt vì dị biệt bằng cách nhờ đến các tác giả từ những chân trời khác lạ: việc phân tán ấy sẽ chẳng đào tạo, chẳng phong phú. Chúng tôi đã muốn làm rõ thể thống nhất cho công trình tập thể này bằng cách ghi nó theo một viễn ảnh chung: thực tiễn thần học vẫn là giải thích lịch sử của Kitô giáo. Không có một phát biểu thần học nào đã trực tiếp từ trời rơi xuống mà không phải là “một lúc” của quá trình phát biểu, lặp lại và kiến lập một truyền thống lịch sử. Quả vậy, sự nhắm hướng này vẫn còn sơ sài, vì còn quá sớm để hiểu thần học như cảm nghiệm có suy nghĩ của thực hành Kitô giáo qua các thế kỷ; vẫn thiếu nhiều nghiên cứu lịch sử hay xã hội học. Nhưng đó là hòa hợp thần học với tự do Kitô giáo khi ta không lẫn thần học với thuyết duy tín trừu tượng, và nắm bắt được sự đăng ký thần học vào lịch sử. Để làm thần học, phải biết quá khứ, sống tích cực hiện tại, và chuẩn bị tương lai. Thể thống nhất của bộ Nhập Môn này, phát xuất từ mỗi tác giả-với tài trí riêng, tuổi tác và cảm tính riêng-có lưu tâm đến “lịch sử của truyền thống” hay không, và đồng thời không ngại đích thân dốc sức mà tinh luyện những gì có vẻ mang tương lai đến cho Giáo Hội.
Sự đồng quy của các tác giả có thể là một mối ngạc nhiên, nếu như không nhìn thấy hậu quả một công việc chiều sâu mà Vatican II mong muốn, đặc biệt trong sắc lệnh Optatam totius (về đào tạo Linh Mục; số 16) nhằm việc giảng dạy trong các chủng viện. Công Đồng vạch ra vài hàng lớn: “quan tâm đặc biệt (dành cho) việc học Kinh Thánh, là linh hồn của toàn bộ thần học”, dạy thần học tín lý theo sát Thánh Kinh và các Giáo Phụ “Đông cũng như Tây”, với lịch sử diễn tiến về sau của một tín điều, mà không lạc hướng cái tương quan của tín điều ấy với lịch sử chung của Giáo Hội”, và của phụng vụ, một sự đặc biệt chú ý đến thần học luân lý, “một sự hiểu biết rõ hơn về các Giáo Hội và các giáo đoàn ly khai” và “hiểu biết cả những tôn giáo khác”.
Sơ đồ của bộ Nhập Môn bốn tập này lưu tâm đến một yêu cầu: tôn trọng việc phân phối giảng dạy thần học, để cho những người dùng bộ sách này có thể dễ dàng gặp được mình. Mục lục cuối cùng ở tập IV sẽ bổ túc ý định này. Chúng tôi đã không vì thế mà tìm cách che lấp tổng thể việc dạy thần học. Bộ sách này không phải là bộ Bách Khoa từ điển, cũng không là quyển Tự điển. Chúng tôi đã quan tâm nhiều đến những vấn đề lớn hiện đang đặt ra cho việc hiểu đức tin và hiểu việc thực thi của Giáo Hội.
Cuối tập sẽ có bảng Mục Lục, ở đây xin trình bày tổng lược toàn bộ Thần Học Nhập Môn này, gồm:
Tập 1: Tổng Dẫn
Ở đây ta phải định rõ sự hiểu biết về đức tin thần học theo ba tiếp cận bổ túc:
1. Trong nhiều cách khác nhau để hiểu biết và cư ngụ thế giới. Trong phần này không đề cập đến khoa học và kỹ thuật vì chúng ta là khoa học kỹ thuật. Bởi sẽ phải có sự khai triển quá dài nên ở đây không bàn đến những vấn đề mà khoa học kỹ thuật nêu ra cho tư tưởng hiện đại, nhất là bởi sự khác biệt của khoa học theo đối tượng khoa học; chỉ nhắc tới chiều kích khoa học ở chương cuối tập và ở phần luân lý (tập III);
2. Trong chính đức tin thần học, vì hiểu biết đức tin sẽ ăn khớp với tất cả tổng thể định chế trong Giáo Hội (Quy điển Thánh Kinh, truyền thống, thừa tác vụ) và chung quanh Đại Học (chuyên hóa bộ môn, trung tâm giảng dạy.. . );
3. và tương hệ với ba tôn giáo lớn (việc chọn có giới hạn, nhưng đây là vấn đề mở ra một viễn ảnh): để các tôn giáo khác đưa ra sự giải thích Kitô giáo, để khỏi đóng khung Kitô giáo trong sự chứng nhận mình, theo một chiều.
Tập 2: Tín lý
Sơ đồ được giữ có thể làm ngạc nhiên, nhưng nó cảm hứng nhiều nhất từ một Thần học Thánh Kinh-vì Kinh Thánh là linh hồn của toàn bộ thần học-bằng cách làm nổi giá trị những nét lớn của Mạc khải Kitô giáo. Đây là một cố gắng độc sáng để trình bày Tín Lý.
Phần này gồm hai cuốn: cuốn 1 và cuốn 2.
Tập 3: Luân lý
Việc chia thành Tín Lý và Luân Lý cũng không hiển nhiên lắm, vì Luân Lý Kitô giáo mang tính thần học sâu sắc trong các minh chứng của mình. Nhưng đây là một việc thực hành thông thường trong giáo huấn, và việc chia này muốn giúp đối thoại với các nền luân lý không thần học.
Thần học luân lý trình bày những “điểm nóng” nhạy cảm nơi dư luận Kitô hữu, nhạy cảm hơn một số điều liên quan tới tín lý. Vì thế, trước khi đề cập tới những “điểm nóng”-môi trường của đời sống luân lý thông thường-chúng tôi muốn làm cho luân lý Kitô giáo ăn khớp với những khái niệm lớn của triết học luân lý và của đức tin, bằng cách đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn: tiến hóa lịch sử, thâm năng kỹ thuật, dị biệt hóa xã hội v.v...
Nhiều điều đối chiếu giữa Tín Lý và Luân Lý giúp ta hiểu hai ngành của thần học vì phát xuất từ cùng một thân cây.
Tập 4: Thực hành
Phần cuối cùng trình bày những nhiệm vụ lớn của Cộng Đồng Kitô hữu trong thế giới, theo với những điều mà người ta có thể gọi là “xã hội tính Kitô giáo” hay là cách cấu tạo đời sống Kitô giáo trong xã hội. Các chương này nhắc đến những nhiệm vụ, cho ăn khớp hết sức giữa suy tư thần học với các khoa học nhân văn đã được thiết lập: tâm lý học, sư phạm học, truyền thông học, xã hội học v.v...
Một số đóng góp đọc thấy khó hiểu hơn những đóng góp khác, nhưng lúc đó, các tiểu mục sẽ giúp ta hiểu. Nhưng tất cả đều dễ tiếp cận cho quý ông quý bà, quý anh quý chị, như thể bậc thầy ở phái Hassan, Israel de Rijn, họ biết dùng “chiếc đèn lồng” của mình nữa. Việc học sách Torah giống như ai đó “trong đêm tối qua khu rừng rậm, đồng hành với người tay có cầm đèn. Tới chỗ rẽ, người cầm đèn tách ra đi riêng, còn bạn phải mò mẫm tiếp tục đi một mình. Người có “lồng đèn” riêng chẳng phải sợ gì đêm tối”.
B. Lauret và F. Refoulé