BỔN PHẬN CỦA CHÚNG TA VỚI NGƯỜI TỴ NẠN.

LTS: Bài trình bày của Cha Đào Quang Chính, OP., tại Đại Hội Giáo Lý cho giới trẻ và giáo lý viên, bằng Việt Ngữ, nhưng có chêm tiếng Anh đề cho các bạn trẻ không biết tiếng Việt được lãnh hội phần nào. Do đó, chúng tôi cũng ghi lại bằng cả Anh ngữ và Việt ngữ. Mong qúi độc giả thông cảm cho.

Dẫn nhập.

Cách đây 10, 20, 30 năm, chúng ta là người tỵ nạn hoặc di cư. Với thời gian, chúng ta đã khá ổn định được đời sống. Nhiều người chúng ta thành công gấp mấy lần người bản xứ. Tỷ lệ người Việt Nam thành công trong lãnh vực chuyên khoa được coi là rất đáng kể. Trong khi tỷ lệ người Việt là 1.500.000 người trên tổng số 299.000.000 dân Hoa Kỳ, tức là 0.5% (chưa tới 1%)thì số các người được gọi là professional như bác sĩ, luật sư, nha sĩ hoặc graduate, tức là hậu đại học lên đến 3.8%. Số người thành công trong lãnh vực thương mại, văn phòng cũng khiến cho người bản xứ khâm phục. Các chức vụ thứ trưởng, tổng giám đốc, giám đốc, nghị viên không còn là điều mơ ước. Nhiều người đã cầm nắm những chức vụ quan trọng này. Tuy nhiên, đôi khi trong tâm thức, chúng ta vẫn nghĩ rằng mình là người tỵ nạn hoặc di cư. Là người tỵ nạn, di cư nghĩa là cần được giúp đỡ. Chúng ta nên có tâm thức "tôi đã tạm ổn định, đến phiên tôi trở nên người bảo trợ cho người khác." "Tôi đã được giúp đỡ, bây giờ tôi cần giúp đỡ người khác."

Bài nói truyện này muốn trình bầy những cố gắng mục vụ của giáo hội Công giáo Hoa Kỳ cho người di cư, tỵ nạn; sau đo là lời mời gọi mỗi người chúng ta cùng chung sức cứu giúp những người không được may mắn như mình. Mẹ Têrêsa, lúc bắt đầu công tác bác ái, chỉ có trong tay vài cục xà phòng. Chúng ta đừng ngại nếu khởi sự bằng những việc rất đơn sơ. Như lời Mẹ Têrêsa nói "Chúa không cần tôi làm những việc vĩ đại, nhưng Chúa muốn tôi làm những việc thật nhỏ bé với tình yêu vĩ đại."

I. Thư Mục Vụ liên quan trực tiếp đến người tỵ nạn và di dân.

Pastoral letters for Migrants and Refugees.


v Asian and Pacific Presence: Harmony in Faith. Những ưu tư và ân điển mà người tỵ nạn Á Châu, Thái bình dương mang lại. 2001

v Strangers No Longer. Quan tâm đến liên hệ của người di dân tiếng Mễ và Hoa Kỳ. 2002

v Welcoming the Stranger Among Us: Unity in Diversity. Giáo hội có bổn phận chào đón người di dân và tỵ nạn. (HĐGMHK) 2000

Goals of this conference

• Develop the awareness and appreciation of the culture, traditions, and gifts of different ethnic population

• Increase the multicultural ministry skill

• Welcome ethnic groups into the local church's activities.



II. Mục đích của buổi thuyết trình

• Phát triển sự hiểu biết và tri ân các nền văn hóa, truyền thống mà các sắc dân mang đến.

• Tăng trưởng thêm khả năng về công tác mục vụ đa văn hóa

• Đón mừng các sắc dân vào trong sinh hoạt của giáo hội địa phương

Collaboration

III. Cùng làm việc chung


At the Bishops' Conference, Migration and Refugees Service (MRS) has 3 offices:

1. Refugees' resettlement

2. Policy Advocacy

3. Pastoral Care for Migrants and Refugees.

Tại văn phòng hội đồng giám mục Hoa Kỳ, cơ quan lo về di trú và tỵ nạn (MRS) có 3 văn phòng:

• Định cư người tỵ nạn

• Bảo vệ người tỵ nạn theo luật

• Mục vụ cho người di trú, tỵ nạn và di động

What should we do to prepare ourselves to welcome the newcomers?

We have to see and to recognize the face of Christ, suffering, crucified and risen in the strangers. Jesus himself is a stranger when he said “the fox has its cave but the son of man does not". From the beginning of his life, Jesus and Mary and Joseph spent their time not in any house, not in any inn, but in a manger. Jesus himself is also a refugee, a migrant who escaped from Israel to Egypt. He himself and his disciples were the people on the move throughout their journey. Many times He and his friends were not welcomed. They had to sleep outside of the village where wild animals and robbers stayed.

IV. Chúng ta phải làm gì để chào đón người di trú và tỵ nạn?

• Chúng ta phải nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu đang chịu đau khổ, chịu đóng đinh và sống lại nơi những người xa lạ. Chính Chúa Giêsu là người xa lạ khi ngài nói “con chồn, con cáo có hang, còn con Người không có chỗ dựa đầu.” Ngay từ lúc mới chào đời, Chúa Giêsu, đức bà Maria và thánh Giuse đã không được may mắn sống trong bất cứ một căn nhà, hô ten nào, nhưng trong hang dành cho bò lừa. Chính Chúa là kẻ tỵ nạn, là người di cư từ Do Thái sang Ai cập. Chính ngài và các môn đệ là những người di động trong suốt cuộc đời. Nhiều lần, ngài và các môn đệ không được tiếp đón. Dân chúng đuổi các ngài đi. Các ngài phải ngủ nơi sa mạc, (ngoài thành phố) là nơi dành cho các dã thú và quân trộm cướp trú ngụ.

Spiritually

V. Chuẩn bị tinh thần


• We welcome the refugees and migrants not because they are Catholic, but we love them because we are Catholic.

• Chúng ta chào đón người di trú và tỵ nạn không phải vì họ là người Công giáo. Chúng ta yêu mến họ vì chúng ta là Công giáo.

• Matthew 25 “For I was hungry and you gave me food, I was thirsty and you gave me drink, a stranger and you welcomed me” (Mt 25:35).

• Tin mừng theo thánh Matthew đoạn 25 “Ta đói, các con cho ta ăn, ta khát, các con cho ta uống, ta là kẻ xa lạ, các con tiếp rước ta (Mt. 25: 35).

• In Christ, the human race is one before God, and all people are equal in dignity and rights. A Christian must regard every person as brother and sister, with special regard for the weak, the vulnerable, the poor, and the stranger.

• Trong Đức Kitô, loài người chỉ là một trước tôn nhan Thiên Chúa và mọi người đều bình đẳng về nhân vị và nhân quyền. Người Kitô hữu phải tôn trọng mọi người như anh chị em của mình, nhất là cần đặc biệt lưu tâm đến người yếu đuối, đau khổ, nghèo đói và xa lạ

• We, as Catholic need to remind ourselves that the ministry to the poor and marginalized, to the migrants and refugees, is the ministry of the church, and it is our ministry. That is not a choice. That is the teaching of the gospel, of the church, and we have to fulfill it.

• Người Công giáo chúng ta cần nhắc nhớ luôn luôn để nhận ra rằng sứ vụ cho người nghèo và người sống bên lề xã hội, cho người tỵ nạn và di cư là sứ vụ của giáo hội và là sứ vụ của chúng ta. Sứ vụ này không phải là điều lựa chọn muốn có hay không muốn có. Đó là lời dậy bảo của phúc âm, của giáo hội và chúng ta PHẢI thi hành

Pastorally

VI. Chuẩn bị Mục Vụ


• In liturgies, especially in the week for migrants and refugees, preach about immigrants, even undocumented immigrants; use them as examples favorably as Jesus did with the Samaritans. (you can check the documents from .)

• Nếu chúng ta là linh mục, trong các bài giảng, nhất là trong tuần lễ mục vụ cho người tỵ nạn, hãy giảng về người tỵ nạn, ngay cả về những người di cư không có giấy tùy thân. Hãy dùng thí dụ qua gương lành Chúa Giêsu đã dối xử với các người Samaritanô. Xin coi thêm tài liệu trong

• Nếu chúng ta là giáo dân, đang sinh hoạt trong các hội đồng mục vụ, tài chánh, các đoàn thể Công giáo tiến hành, hãy vận động đoàn thể của mình dấn thân làm việc tông đồ này. Hãy chọn sứ vụ này như ơn đặc sủng của đoàn thể mình.

• Đừng ngần ngại trình lên cha xứ, cha quản nhiệm chương trình làm việc cho sứ vụ đó để ngài biến ơn đặc sủng này thành chương trình sinh hoạt chung cho giáo xứ.

• Respect the human dignity of all people, of the migrants and refugees

• Khi tiếp rước người tỵ nạn, hãy kính trọng họ như một con người với trọn vẹn nhân vị. Hãy tâm niệm rằng Chúa Giêsu đang ở trong họ hoặc Chúa đang gửi họ đến với mình.

• Hãy nhớ rằng trước đây mình đã là người tỵ nạn, đã cần được giúp đỡ. Bây giờ chúng ta được may mắn, đến phiên mình giúp đỡ người khác.

• Establish a “twinning” relationship with a parish that serves poor and immigrant communities or diocese to diocese or parish to parish from a sending country

• Liên lạc với văn phòng địa phận hoặc với giáo xứ lân cận để cùng kết hiệp và kết nghĩa làm việc chung

• Foster “volunteerism”; encourage people in your community to host a new refugee family, organize community drives, and tutor immigrant children

• Hãy khuyến khích người thiện nguyện tham gia chương trình. Hãy liên lạc, gọi điện thoại mời gọi những người thiện chí này giúp đỡ người tỵ nạn. Hãy thể hiện việc truyền giáo bằng nhiều phương cách cụ thể khác nhau như thăm viếng, giúp làm giấy tờ, chở đi bác sĩ khám bệnh, giúp thi lái xe, dậy anh văn...

• Train and educate volunteers to be ministers of the poor and marginalized people. Form them into big committee. Select or let people select the leaders. Do not do it by yourselves alone. Many people are willing to assist you, assist the church and assist the preaching of the gospel.

• Huấn luyện và đào tạo các người thiện nguyện trở thành các thừa tác viên xã hội, phục vụ người nghèo và người bên lề xã hội. Đừng thi hành sứ vụ này cách lẻ loi. Rất nhiều người thiện chí sẵn lòng phụ giúp bạn, phụ giúp giáo hội và phúc âm.

• Make the parish a social center for English language training, citizenship classes, health care, cultural enrichment, job training

• Biến (hội trường) giáo xứ thành trung tâm xã hội, dậy Anh ngữ, mở các lớp vào quốc tịch, chương trình sức khỏe, mở mang văn hóa, tìm việc..

• Try to collaborate all 3 branches in helping the new comers: pastoral care, resettlement and advocacy. One of the main reasons why many migrants and refugees leave the Catholic church and look for another denomination is: they think we ignore them or we focus too much on sacraments and forget the material assistance (resettlement) and advocate on their behalf. In reality we do more than any denomination (see statistic).

• Hãy cùng cộng tác chung với nhau để 3 nhánh: định cư, bảo vệ người tỵ nạn theo luật và mục vụ cùng hướng về một mục đích chung.

Advocacy

• Advocate with the media for even handed approach to migrants and refugees.

• Use newsletters and parish bulletins to publicize pertinent information sent to you from immigrant and refugee advocacy organizations;

• Cooperate with the pastoral offices and other community organizations to organize advocacy efforts that support the human rights and dignity of all migrants and refugees.

• Make a special appeal for lawyers to help pro bono in immigration cases

VII. Bảo vệ người tỵ nạn theo luật

• Liên lạc với cơ quan truyền thông để biết các tin tức, quyền lợi nhằm bảo vệ người tỵ nạn.

• Dùng thư tín và tờ thông tin của giáo xứ loan báo các tin tức liên quan đến người tỵ nạn, nhất là đến bổn phận và quyền lợi của họ.

• Cộng tác với các cơ quan mục vụ và đoàn thể khác để cùng tranh đấu cho nhân quyền, cho quyền lợi của người tỵ nạn

• Nếu được một luật sư hảo tâm trong nhóm giúp đỡ thì rất hữu ích.

Culturally

VIII. Chuẩn bị văn hóa


• Celebrate the liturgy of that ethnic group at the proper time and occasions. If there is a big need, do it weekly if possible. Celebrate the liturgy in their own language and rituals.

• Cử hành phụng vụ cho sắc dân đó vào những thời điểm thuận tiện. Nếu nhu cầu trở nên lớn, xin hãy cử hành hằng tuần. Cử hành phụng vụ bằng ngôn ngữ và nghi thức của họ.

• Promote vocations among them

• Khuyến khích ơn thiên triệu nơi họ

• Encourage them to participate into pastoral, finance councils and small church communities.

• Khuyến khích họ tham dự và các hội đồng, đoàn thể Công giáo tiến hành, hoặc để chính họ thành lập các đoàn thể đó.

• Give them adequate spiritual formation and the possibility to live fully their sacramental and spiritual life.

• Giúp họ có được những nâng đỡ về mặt tâm linh, tham dự các bí tích.

• Respect and recognize their cultural and traditional ways of worshipping if they are not against the teachings of the church. Respect their popular devotions. At the same time, this pastoral care should foster their integration in the local church.

• Phải kính trọng và nhìn nhận giá trị các nét văn hóa và truyền thống phụng tự của họ, nếu các nghi thức này không ngược với giáo huấn của giáo hội. Hãy kính trọng các á bí tích. Đồng thời, việc mục vụ cũng cần giúp họ hội nhập vào đời sống giáo hội địa phương

• Mutually, the newcomers should also respect and recognize the values of the local cultural identity.

• Các người tỵ nạn và di cư cũng cần kính trọng và nhận ra giá trị của nền văn hoá địa phương

• Practically the newcomers focus more on "demonstration of faith," meanwhile the local people, especially, the Anglo-Saxon more on the "understanding of faith". Demonstration of faith (1) is expressed in the popular religious practices as procession, pilgrimage, praying the rosaries, Eucharistic adoration.. Understanding of faith (2) is seen in the bible, theology studies. In many cases, both ways of living need to complement each other, and both are lacking the living and understanding of the social justice (3). Ideally we should promote all these three aspects of our Christian life.

• Trên thực tế, người mới nhập cư thường hay chú trọng đến việc “biểu dương đức tin,” trong khi đó, người Hoa Kỳ chú tâm nhiều đến khía cạnh “hiểu biết đức tin.” Biểu dương đức tin (1) được nhận ra qua các “á bí tích” như rước kiệu, hành hương, đọc kinh mân côi, chầu thánh thể..; còn hiểu biết đức tin (2) được thể hiện qua việc học thánh kinh, thần học..

• Nhìn chung thì cả hai triết lý sống đều cần phát triển thêm đặc tính của phía kia; và nhất là cần

• Sống cũng như hiểu biết thêm về những lời dậy dỗ của giáo hội liên quan đến công bằng xã hội.

• Hay nhất, chúng ta phải phát triển cả 3 đặc tính này của giáo hội Công giáo.

THE LAST WORDS

Lời Cuối


Ask, and ask, and ask people to assist you. There are more volunteers, more people who are willing to help and to assist the social justice than you thought.

• Hãy mời, hãy mời, hãy mời thêm đi. Hãy mời thêm các người thiện nguyện đến giúp chúng ta đi. Có nhiều thiện nguyện viên sẵn lòng giúp và trợ giúp các việc công bằng, bác ái hơn bạn tưởng. Hãy cất tiếng mời đi.

• “For the kingdom of heaven is like a householder who went out early in the morning to hire laborers for his vineyard...And about the eleventh hour, he went out and found other standing; and he said to them “why do you stand here idle all day?” They said to him “because no one has hired us.” he said to them “You go into the vineyard too.” (And the evening came, the owner of the vineyard said to his steward “call the laborers and pay them their wages, beginning with the last, up to the first” (Mt. 20: 1; 6-8)

• Nước Trời giống như người chủ đi từ sáng sớm để thuê thợ làm vườn nho cho mình.. Đến giờ thứ 11, ông lại đi ra và thấy một số người khác đứng chờ. Ong nói với họ “Sao quý vị đứng ở đây?” Họ trả lời “bởi vì không có ai thuê chúng tôi ca.” Ông chủ nói với họ “Hãy vào làm vườn nho cho tôi.” (Chiều đến, chủ bảo người quản lý rằng “Gọi các người thợ đến và trả lương cho họ, bắt đầu từ người làm chót, cho đến người làm trước nhất.” (Mt. 20: 1; 6-9).