Quí bạn đọc thân mến,
Vừa nghe nói, tôi hăm hở nhất định đi. Ðến lúc lên đường, lòng tôi lại rụt rè e ngại. Tôi không muốn mang cái tâm trạng của người thi ân đi bố thí cho người chịu ơn, tôi cũng không muốn rình rang như những kẻ nhà giàu đi tìm chút danh lợi, chỉ dám đứng xa xa, giả vờ ân cần với người bệnh để phóng viên chụp hình đăng báo, tôn vinh ca ngợi lòng từ thiện với chủ đích đánh bóng cá nhân. Nếu vậy, tôi phải làm sao? Xe đã dừng lại rồi! Người hướng dẫn chuyến đi, cậu tôi, linh mục Tống Phước Hậu, vừa bước ra khỏi xe đã niềm nở tươi cười bắt tay những người chung quanh. Bàn tay họ không đủ ngón, khuôn mặt họ méo mó khác lạ. Hít một hơi dài, tôi cũng bắt chước cậu, giơ tay cho mọi người bắt. Quí vị đừng tưởng tôi can đảm gì, vì trong cái cử chỉ thân tình lịch sự ấy, lòng tôi vẫn dấy lên một cảm giác ớn lạnh sợ hãi. Tôi vừa bắt tay, vừa quàng vai với những người mắc bệnh phong cùi.
Bên cạnh nhà nguyện, nằm ngay chính giữa lối vào trại, là ngôi mộ của một Ðức Cha người Pháp. Bẩy mươi năm trước đây, khi còn là linh mục, Ðức Cha đã lập ra trại cùi đầu tiên tại Việt Nam. Sau một thời gian dài phục vụ người dân tộc thiểu số, ngài được phong chức Giám Mục nên phải trở về nước hoạt động. Vào một buổi chiều, Ngài thấy trong mình khác lạ, với kinh nghiệm lâu năm, ngài biết mình đã có những triệu chứng của bệnh phong cùi. Sau khi từ nhiệm, Ngài xin về lại Di Linh, để được sống và chết với con cái yêu dấu của Ngài.
Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý tất cả 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên, ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu. Với đồng lương quá ít ỏi, với nguy hiểm lây bệnh luôn luôn rình rập, chẳng ai dại gì làm việc ở những nơi mà Chúa cũng ngậm ngùi, Phật cũng nhỏ lệ xót thương. Chỉ có những người với một lý tưởng phục vụ chân chính như các nữ tu, mới có thể chịu đựng tất cả những đắng cay khổ nhục của đời người, mới sẵn sàng chia sẻ với những bất hạnh, đớn đau của bệnh nhân phong cùi mà thôi! Trại phong Di Linh nằm trên một ngọn đồi, khung cảnh cao nguyên vẫn có những nét thơ mộng trữ tình. Ðường lên có hoa có lá, có những cây thông thẳng tắp hiền hòa. Chung quanh trại có nhiều mái nhà nhỏ, nơi tập trung những gia đình người Thượng bệnh cùi, sống đùm bọc nâng đỡ lẫn nhau từ đời này sang đời khác, từ đời ông bà, cha mẹ đến con cháu. Ngày xưa, người ta tưởng rằng bệnh do di truyền nên thường cản ngăn người mắc bệnh lập gia đình. Ðến bây giờ, với nền y học tân tiến, người ta biết chắc rằng thủ phạm lây bệnh là do cách sống chung đụng dơ dáy thiếu vệ sinh. Bởi vậy, các con cháu đời sau được tách riêng ra một khu, được cho đi học, thỉnh thoảng được tiếp xúc với bố mẹ ông bà. Tuy nhiên, các em vẫn ở trong trại vì xã hội bên ngoài chưa dám hòa nhập với con cháu của chứng bệnh nan y phong cùi. Nói nan y là nan y ở Việt Nam mà thôi, chứ thật ra bệnh này đã có thuốc ngăn ngừa chữa trị từ lâu, vì trong nhiều quốc gia văn minh trên thế giới, vi trùng phong cùi đã biến mất hoàn toàn.
Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn nhận trợ cấp 15 Úc kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết. Nhà nước giỏi cướp công, mỗi lần cần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫu. Xin được bao nhiêu vô túi ai không biết, vì Di Linh chẳng hề nhận được thêm đồng cắc nào. Xin lỗi quí vị, thật ra, Di Linh cũng vừa vinh dự được lãnh nhận huy chương lao động hạng ba. Chính vì cái huy chương mắc dịch này, sơ Giám Ðốc lại phải bỏ thêm một số tiền dựng sân khấu, khoản đãi khách khứa để cung kính ca tụng sự chiếu cố rộng lượng của nhà nước. Sơ giám đốc Josephine đã có hơn 33 năm phục vụ lăn lộn với người cùi. Bên cạnh sơ, còn có tám nữ tu khác, kiêm đủ mọi nhiệm vụ, từ lau chùi quét dọn, đến nấu nướng giặt giũ, từ khám bệnh cho thuốc, kiêm luôn việc nạo xương cắt thịt vất bỏ. Thật ra, vi trùng phong cùi chỉ tấn công giây thần kinh não bộ, khiến người mắc bệnh mất hẳn cảm giác đau đớn. Chính vì mất cảm giác, nên khi bị trầy trụa sây xát ngoài da, người ta không cảm thấy đau để lo chữa trị kịp thời, nên càng ngày vết thương càng làm độc mưng mủ ung thối, cuối cùng thì đành phải cắt bỏ thân thể. Hơn thế nữa, tập tục sống chung đụng gần gũi của người Thượng đã là hậu quả gây nên sự lan truyền rộng rãi của bệnh phong cùi giữa các nhóm dân tộc thiểu số trên vùng cao nguyên.
Ði thăm bệnh xá, tôi ú ớ ngượng ngùng, vì không biết tiếng Thượng. Cậu Hậu huyên thuyên vừa hỏi thăm vừa thông dịch cho tôi. Bệnh nhân nào cũng niềm nở chào mừng, trên môi mấp mé nụ cười. Tôi ngạc nhiên lắm, vì thân thể họ lở loét sưng phồng. Hỏi đau không họ bảo đau nhiều chứ, đau mà vẫn cười. Ðau mà vẫn vui khi có người đến tiếp chuyện. Nỗi cô đơn chắc đã gậm nhấm lâu ngày, nỗi cô đơn của những khi bị ruồng bỏ né tránh, của những tủi hờn xót xa cho thân phận. Anh thanh niên chắc chỉ chừng 17, 18, tại sao lại có mặt nơi này? Dạ thưa em cũng chẳng biết đã bị lây bệnh lúc nào. Người vợ Việt Nam mới sinh đứa con đầu lòng, một hôm mặt mũi đỏ ửng sưng húp, bệnh phát ra, được đưa vội vào đây, chị kể chuyện mà cứ lo lắng bây giờ không biết ông chồng đang làm gì để sống, còn đứa con ai sẽ cho bú sữa, còn mẹ già ai sẽ chăm sóc ủi an? Tôi dè dặt vỗ vai thông cảm, tôi cẩn thận nắm nhẹ khoảng tay còn lành lặn để chia sẻ phần nào nỗi đau thống khổ của bệnh nhân. Quay lại sau lưng, một nữ tu đang bế xốc người cùi trên tay. Tôi ngập ngừng hỏi sơ Giám Ðốc: 'Bộ các sơ không sợ bị lây hay sao?' Sơ tỉnh bơ trả lời: 'Thì mình cũng phải cẩn thận chút xíu, nhưng có gì mà sợ? Nếu bị nhiễm bệnh thì chết ở đây với họ, càng vui chứ sao!'
Khi tôi ghé thăm, một người Thượng vừa nằm xuống. Theo tục lệ, người qua đời được đưa thẳng vào một căn chòi nhỏ, ở đó, gia đình bạn bè ngồi nói chuyện suốt đêm, họ uống rượu tì tì, say khướt thì nằm gục luôn bên cạnh xác chết ngủ vùi. Sống hay chết cũng vẫn là người thân, chẳng có biên giới nào ngăn cách. Ngay cả khi đem ra nghĩa trang, người sống không chôn người chết, không liệm trong quan tài vì sợ người chết bị ngộp, họ cứ để lộ thiên, chung quanh bao phủ bằng những đồ dùng khi còn sống. Mọi thứ của vợ chồng đều chia hai, quần áo, giầy dép, dao kéo, vật dụng thường ngày. Sống thì xài chết lại mang theo. Tập tục tống táng lộ thiên, sau này, vì mùi hôi thối xông ra nồng nặc, các sơ phải khuyên dạy mãi thì người Thượng mới chịu đem chôn xuống đất. Nghĩa trang cũng nằm trên dốc đồi thoai thoải, gần 500 mộ, nhiều người không còn bia, sống vô danh, chết cũng vô danh. Rải rác đây đó còn có những mảnh giấy 200, 500 tiền Việt Nam xé nhỏ phân chia cho mỗi linh hồn. Với những mảnh vụn nhỏ nhoi ấy, xuống âm phu,û linh hồn người chết chắc cũng không mua nổi một chén cơm cho đỡ đói lòng.
Tôi đem từ Úc về, bốn thùng kẹo cây, vì đoán trước sẽ có nhiều dịp xử dụng. Ði qua thăm khu cách ly của con cháu người cùi, các em vừa đi học về, sau khi cuốc bộ dốc đồi hơn ba cây số. Cặp sách thênh thang, những đôi mắt tròn xoe nhìn tôi lay láy. Tôi mỉm cười hỏi chuyện, các em trả lời bằng tiếng Việt thông thạo. Tôi phát kẹo cho các em, vụt nhớ tới câu hát trong bài 'một chút quà cho quê hương'của Việt Dũng. Các em thương mến, đây là chút quà mọn của quí vị ân nhân ở Úc, gởi về cho quê hương, các em hãy 'ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng'. Các em hãy can đảm mà sống, hãy can đảm học hành, để một mai vụt mình lớn lên, các em sẽ có đủ khả năng để bứt khỏi cùm gông bệnh tật, trở nên những con người đầy đủ tài năng và đức độ để giúp ích cho đời, để xóa hẳn dấu vết phong cùi tủi nhục của cha ông ngày trước. Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, số tiền ấy, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho tới mùa Tết tháng sau.
Nếu vùng cao nguyên có trại cùi Di Linh lo cho người Thượng, thì ở đồng bằng miền Nam có khu Bến sắn lo cho người Tầu và người Việt. Thật ra, vùng này có bốn trại cùi: Bến Sắn, Thanh Bình, Bình Minh và Phước Tân. Hai trại do công nhân viên nhà nước điều khiển, hai trại do các nữ tu Công Giáo đảm trách. Chỉ cần đi một vòng quan sát cả bốn trại, hỏi chuyện sơ sơ với các bệnh nhân, chúng ta có thể đưa ra được một nhận định rõ ràng: Nhân viên nhà nước làm việc ăn lương, tới giờ thì đi về, bệnh nhân có đau đớn cần gì cũng bỏ mặc. Cách đối xử thiếu tế nhị, đôi khi còn tàn nhẫn, nổi nóng có thể quát tháo la mắng tỉnh bơ. Trong khi các nữ tu lại xả thân trọn vẹn, chăm sóc, lo lắng, ủi an nâng đỡ bệnh nhân hết mình vì lý tưởng phục vụ tha nhân. Cùng một nhiệm vụ, nhưng khác nhau ở tấm lòng, ở nhân đức khiêm nhường chịu đựng, ở một tình thương vô bờ bến cho những con người bất hạnh lẻ loi. Không phải người bệnh nào cũng dễ mến hiền lành, có người đau quá cũng chửi rủa các sơ tơi tả. Người nữ tu bật khóc, nhưng lại tự an ủi: 'Thôi kệ, họ bị bệnh chứ mình đâu có bị. Tội nghiệp họ'. Có người tưởng rằng các sơ giàu tiền lắm bạc, họ đòi hỏi đủ thứ, đôi khi các sơ phải cắn răng nhường nhịn cả những phần ăn vốn đã quá đạm bạc để dành tiền lo cho họ. Có người được chăm sóc cẩn thận, bệnh đã lành, chỉ còn chút tật nguyền trên thân thể, họ trốn trại đi ăn xin. Các ngày lễ trong năm, giáng sinh, phục sinh, quốc khánh, tết ta là những ngày người cùi hốt bạc. Một ngày lễ đi ăn xin, người cùi có thể kiếm được mấy trăm ngàn Việt nam, tương đương với năm sáu chục đô Úc. Bởi vậy, có người dám tự gây thêm vết thương, càng lở loét càng dễ kiếm tiền. Có tiền, họ lại ăn chơi xả láng. Xã hội người cùi, theo lời một vị bác sĩ làm việc lâu năm trong trại, cũng chẳng khác gì xã hội người thường, cũng có những điều tốt, nhưng cũng có những tệ đoan bài bạc nhậu nhẹt đĩ điếm lan tràn. Khi qua mùa lễ lạc, họ lại lê lết tấm thân tàn trở về với các sơ, để nhờ các sơ chăm sóc lo liệu giùm. Họ không dám nhờ đến những cơ sở do nhân viên nhà nước đảm nhiệm, vì họ sẽ bị chửi rủa và xua đuổi thẳng thừng. Họ chỉ dám cậy nhờ các sơ, vì các sơ sẵn lòng đón nhận, không cần biết họ đã làm gì. Có khi, đang chạy xe ngoài đường, gặp thấy bệnh nhân của mình, vị nữ tu còn năn nỉ bệnh nhân trở về để được chăm sóc cẩn thận, còn hơn là lê lết bên ngoài, bệnh càng nặng, thân thể càng bị cắt dần dần, đau đớn trăm chiều ngược xuôi. Dù sao, nhóm người cùi này cũng chỉ là một thiểu số chung quanh phạm vi Sài Gòn, một thành phố giàu sang dễ kiếm tiền, có nhiều du khách ngoại quốc, Việt kiều về thăm quê hương động lòng từ tâm bố thí, chứ còn đại đa số người cùi ở những nơi khác, nếu dại dột ra khỏi trại là tự mình tìm đến cái chết nhanh chóng. Vì dân chúng còn không có đủ tiền để tự nuôi sống, nói gì đến chuyện giúp đỡ người cùi.
Trước khi về Việt Nam, đúng ra, tôi không hề có ý định đi thăm các trại phong, vì đinh ninh rằng đã có nhiều đoàn thể tại hải ngoại chuyên lo việc gây quỹ trợ giúp cho người cùi. Bệnh phong cùi là mặt nổi, rất dễ làm động lòng quí vị ân nhân và động lòng những cơ quan từ thiện ngoại quốc. Bởi vậy, dễ kiếm tiền, và có lẽ vì thế, nhà nước đã rộng tay quản lý toàn bộ. Chỉ khi tôi được trực tiếp đi thăm và nói chuyện với những người trong cuộc, tôi mới hiểu thấu trọn vẹn vấn đề. Vấn đề nổi cộm là, tất cả số tiền do nước ngoài viện trợ đều nằm trong tay nhà nước, bao nhiêu không ai biết. Nhà nước chỉ cấp phát nhỏ giọt cho mỗi trại một ít, ngoại trừ những trại kiểu mẫu thì được thêm một ít nữa. Với cái số ít nhỏ nhoi ấy, không có trại nào sống nổi nếu không có thêm sự trợ giúp âm thầm của quí vị ân nhân trong nước cũng như ngoài nước. Ðiều quan trọng là, khi chuyển tiền về, các đoàn thể cần điều tra kỹ lưỡng, cần có những người mình thật sự tín nhiệm để giao tiền. Phải làm như thế, thì hy vọng số tiền mồ hôi nước mắt của quí vị ân nhân sẽ đến được những kẻ bất hạnh phong cùi, tránh đi tình trạng thất thoát to lớn khi tiền vào tay những kẻ bất lương ăn trên ngồi chốc. Một bữa nhậu sương sương của họ, số tiền trả nhà hàng dư khả năng nuôi sống vài trăm gia đình bằng vài trăm bữa ăn đủ cơm canh đồ mặn hai ba món.
Về Việt Nam kỳ này, tôi đem theo số tiền quyên góp của Hội Giáo Chức Tiểu Bang Victoria, của Câu Lạc Bộ Nghệ Thuật Springvale, của độc giả báo Dân Chúa, của tiền bán dĩa CD nhạc tại nhiều nơi khắp Melbourne và Perth, của quí vị ân nhân rải rác trên toàn nước Úc. Có người mua CD trả tiền còn ủng hộ thêm. Có quí cụ gom góp ký cóp tiền già đưa tôi, có cô thiếu nữ trong bóng tối dúi tiền vào tay tôi rồi lặng lẽ bước đi, không cần lời cảm ơn. Có bà Bác Sĩ ký cheque gởi tiền tùy Cha định liệu. Có anh thanh niên hằng năm vẫn đưa tiền đều đều qua tôi để giúp Việt Nam. Có người làm may mỗi ngày được vài ba chục, lại dám can đảm đưa phong bì vài trăm đô giúp người nghèo. Có một cậu bé xin mẹ đập heo tiền dành dụm đưa hết cho cha để cha đem về giúp những trẻ mồ côi thiếu thốn. Ði đến nơi nào người Việt cũng nhớ câu ca dao 'Bầu ơi thương lấy Bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.' Tôi vô cùng cảm động trước những tấm lòng quá sức rộng lượng này. Họ không bố thí của dư thừa, họ cho đi những gì chính họ cũng đang thiếu thốn, nhưng họ lại sẵn sàng chia sẻ với những kẻ bất hạnh thiếu thốn hơn mình. Chắc chắn rằng, họ không cần lời cảm ơn của tôi hay của những người đã được nhận lãnh. Họ làm việc bác ái, rất âm thầm, lặng lẽ, chẳng cần được vinh danh tên tuổi. Tôi thật sự bị choáng ngợp vì sự tin tưởng của mọi người. Tôi ngần ngại với trách vụ mà mọi người đã ưu ái trao phó cho tôi. Bởi vậy, đi đến đâu, được cảm ơn, tôi vội vàng đính chính, xin hãy cảm ơn quí vị ân nhân đã nhờ tôi chuyển giao lại cho những kẻ bất hạnh tại đây. Và ở bất cứ nơi nào, lời yêu cầu duy nhất của tôi chỉ là: Xin hãy cầu nguyện cho quí vị ân nhân.
Tết năm nay, ít nhất ra, đã có nhiều nơi nhận được 'chút quà cho quê hương' nhờ vào tấm lòng rộng lượng của quí vị ân nhân tại Úc. Chút quà ấy chắc chắn sẽ tạo được những niềm vui nho nhỏ trong gia đình, khi bữa ăn có cái bánh chưng, có dĩa dưa hành, có dăm miếng thịt kho mặn chát nhưng lại ngọt ngào tình nghĩa. Ở những nơi mà ngậm một cục kẹo đã đủ thấy thiên đường thì chút quà ngày Tết đó thật sự rất to lớn. To lớn hơn nữa, là tấm lòng tiềm ẩn đằng sau món quà. Khi phát kẹo cho các em người Thượng, tôi đã thì thầm nói nhỏ, đây là tặng phẩm của một cậu bé Việt Nam tại Úc gởi đến các em. Nhìn đôi mắt trẻ thơ sáng rực, nhìn nụ cười vang vang trong gió, tôi cứ ước mong rằng lòng mình sẽ mãi mãi nhân từ như trái tim non trẻ của cậu bé, sinh trưởng ở Úc, nhưng tâm hồn thì vẫn luân lưu dòng máu độ lượng Việt Nam.
Vừa nghe nói, tôi hăm hở nhất định đi. Ðến lúc lên đường, lòng tôi lại rụt rè e ngại. Tôi không muốn mang cái tâm trạng của người thi ân đi bố thí cho người chịu ơn, tôi cũng không muốn rình rang như những kẻ nhà giàu đi tìm chút danh lợi, chỉ dám đứng xa xa, giả vờ ân cần với người bệnh để phóng viên chụp hình đăng báo, tôn vinh ca ngợi lòng từ thiện với chủ đích đánh bóng cá nhân. Nếu vậy, tôi phải làm sao? Xe đã dừng lại rồi! Người hướng dẫn chuyến đi, cậu tôi, linh mục Tống Phước Hậu, vừa bước ra khỏi xe đã niềm nở tươi cười bắt tay những người chung quanh. Bàn tay họ không đủ ngón, khuôn mặt họ méo mó khác lạ. Hít một hơi dài, tôi cũng bắt chước cậu, giơ tay cho mọi người bắt. Quí vị đừng tưởng tôi can đảm gì, vì trong cái cử chỉ thân tình lịch sự ấy, lòng tôi vẫn dấy lên một cảm giác ớn lạnh sợ hãi. Tôi vừa bắt tay, vừa quàng vai với những người mắc bệnh phong cùi.
Bên cạnh nhà nguyện, nằm ngay chính giữa lối vào trại, là ngôi mộ của một Ðức Cha người Pháp. Bẩy mươi năm trước đây, khi còn là linh mục, Ðức Cha đã lập ra trại cùi đầu tiên tại Việt Nam. Sau một thời gian dài phục vụ người dân tộc thiểu số, ngài được phong chức Giám Mục nên phải trở về nước hoạt động. Vào một buổi chiều, Ngài thấy trong mình khác lạ, với kinh nghiệm lâu năm, ngài biết mình đã có những triệu chứng của bệnh phong cùi. Sau khi từ nhiệm, Ngài xin về lại Di Linh, để được sống và chết với con cái yêu dấu của Ngài.
Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý tất cả 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên, ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu. Với đồng lương quá ít ỏi, với nguy hiểm lây bệnh luôn luôn rình rập, chẳng ai dại gì làm việc ở những nơi mà Chúa cũng ngậm ngùi, Phật cũng nhỏ lệ xót thương. Chỉ có những người với một lý tưởng phục vụ chân chính như các nữ tu, mới có thể chịu đựng tất cả những đắng cay khổ nhục của đời người, mới sẵn sàng chia sẻ với những bất hạnh, đớn đau của bệnh nhân phong cùi mà thôi! Trại phong Di Linh nằm trên một ngọn đồi, khung cảnh cao nguyên vẫn có những nét thơ mộng trữ tình. Ðường lên có hoa có lá, có những cây thông thẳng tắp hiền hòa. Chung quanh trại có nhiều mái nhà nhỏ, nơi tập trung những gia đình người Thượng bệnh cùi, sống đùm bọc nâng đỡ lẫn nhau từ đời này sang đời khác, từ đời ông bà, cha mẹ đến con cháu. Ngày xưa, người ta tưởng rằng bệnh do di truyền nên thường cản ngăn người mắc bệnh lập gia đình. Ðến bây giờ, với nền y học tân tiến, người ta biết chắc rằng thủ phạm lây bệnh là do cách sống chung đụng dơ dáy thiếu vệ sinh. Bởi vậy, các con cháu đời sau được tách riêng ra một khu, được cho đi học, thỉnh thoảng được tiếp xúc với bố mẹ ông bà. Tuy nhiên, các em vẫn ở trong trại vì xã hội bên ngoài chưa dám hòa nhập với con cháu của chứng bệnh nan y phong cùi. Nói nan y là nan y ở Việt Nam mà thôi, chứ thật ra bệnh này đã có thuốc ngăn ngừa chữa trị từ lâu, vì trong nhiều quốc gia văn minh trên thế giới, vi trùng phong cùi đã biến mất hoàn toàn.
Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn nhận trợ cấp 15 Úc kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết. Nhà nước giỏi cướp công, mỗi lần cần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫu. Xin được bao nhiêu vô túi ai không biết, vì Di Linh chẳng hề nhận được thêm đồng cắc nào. Xin lỗi quí vị, thật ra, Di Linh cũng vừa vinh dự được lãnh nhận huy chương lao động hạng ba. Chính vì cái huy chương mắc dịch này, sơ Giám Ðốc lại phải bỏ thêm một số tiền dựng sân khấu, khoản đãi khách khứa để cung kính ca tụng sự chiếu cố rộng lượng của nhà nước. Sơ giám đốc Josephine đã có hơn 33 năm phục vụ lăn lộn với người cùi. Bên cạnh sơ, còn có tám nữ tu khác, kiêm đủ mọi nhiệm vụ, từ lau chùi quét dọn, đến nấu nướng giặt giũ, từ khám bệnh cho thuốc, kiêm luôn việc nạo xương cắt thịt vất bỏ. Thật ra, vi trùng phong cùi chỉ tấn công giây thần kinh não bộ, khiến người mắc bệnh mất hẳn cảm giác đau đớn. Chính vì mất cảm giác, nên khi bị trầy trụa sây xát ngoài da, người ta không cảm thấy đau để lo chữa trị kịp thời, nên càng ngày vết thương càng làm độc mưng mủ ung thối, cuối cùng thì đành phải cắt bỏ thân thể. Hơn thế nữa, tập tục sống chung đụng gần gũi của người Thượng đã là hậu quả gây nên sự lan truyền rộng rãi của bệnh phong cùi giữa các nhóm dân tộc thiểu số trên vùng cao nguyên.
Ði thăm bệnh xá, tôi ú ớ ngượng ngùng, vì không biết tiếng Thượng. Cậu Hậu huyên thuyên vừa hỏi thăm vừa thông dịch cho tôi. Bệnh nhân nào cũng niềm nở chào mừng, trên môi mấp mé nụ cười. Tôi ngạc nhiên lắm, vì thân thể họ lở loét sưng phồng. Hỏi đau không họ bảo đau nhiều chứ, đau mà vẫn cười. Ðau mà vẫn vui khi có người đến tiếp chuyện. Nỗi cô đơn chắc đã gậm nhấm lâu ngày, nỗi cô đơn của những khi bị ruồng bỏ né tránh, của những tủi hờn xót xa cho thân phận. Anh thanh niên chắc chỉ chừng 17, 18, tại sao lại có mặt nơi này? Dạ thưa em cũng chẳng biết đã bị lây bệnh lúc nào. Người vợ Việt Nam mới sinh đứa con đầu lòng, một hôm mặt mũi đỏ ửng sưng húp, bệnh phát ra, được đưa vội vào đây, chị kể chuyện mà cứ lo lắng bây giờ không biết ông chồng đang làm gì để sống, còn đứa con ai sẽ cho bú sữa, còn mẹ già ai sẽ chăm sóc ủi an? Tôi dè dặt vỗ vai thông cảm, tôi cẩn thận nắm nhẹ khoảng tay còn lành lặn để chia sẻ phần nào nỗi đau thống khổ của bệnh nhân. Quay lại sau lưng, một nữ tu đang bế xốc người cùi trên tay. Tôi ngập ngừng hỏi sơ Giám Ðốc: 'Bộ các sơ không sợ bị lây hay sao?' Sơ tỉnh bơ trả lời: 'Thì mình cũng phải cẩn thận chút xíu, nhưng có gì mà sợ? Nếu bị nhiễm bệnh thì chết ở đây với họ, càng vui chứ sao!'
Khi tôi ghé thăm, một người Thượng vừa nằm xuống. Theo tục lệ, người qua đời được đưa thẳng vào một căn chòi nhỏ, ở đó, gia đình bạn bè ngồi nói chuyện suốt đêm, họ uống rượu tì tì, say khướt thì nằm gục luôn bên cạnh xác chết ngủ vùi. Sống hay chết cũng vẫn là người thân, chẳng có biên giới nào ngăn cách. Ngay cả khi đem ra nghĩa trang, người sống không chôn người chết, không liệm trong quan tài vì sợ người chết bị ngộp, họ cứ để lộ thiên, chung quanh bao phủ bằng những đồ dùng khi còn sống. Mọi thứ của vợ chồng đều chia hai, quần áo, giầy dép, dao kéo, vật dụng thường ngày. Sống thì xài chết lại mang theo. Tập tục tống táng lộ thiên, sau này, vì mùi hôi thối xông ra nồng nặc, các sơ phải khuyên dạy mãi thì người Thượng mới chịu đem chôn xuống đất. Nghĩa trang cũng nằm trên dốc đồi thoai thoải, gần 500 mộ, nhiều người không còn bia, sống vô danh, chết cũng vô danh. Rải rác đây đó còn có những mảnh giấy 200, 500 tiền Việt Nam xé nhỏ phân chia cho mỗi linh hồn. Với những mảnh vụn nhỏ nhoi ấy, xuống âm phu,û linh hồn người chết chắc cũng không mua nổi một chén cơm cho đỡ đói lòng.
Tôi đem từ Úc về, bốn thùng kẹo cây, vì đoán trước sẽ có nhiều dịp xử dụng. Ði qua thăm khu cách ly của con cháu người cùi, các em vừa đi học về, sau khi cuốc bộ dốc đồi hơn ba cây số. Cặp sách thênh thang, những đôi mắt tròn xoe nhìn tôi lay láy. Tôi mỉm cười hỏi chuyện, các em trả lời bằng tiếng Việt thông thạo. Tôi phát kẹo cho các em, vụt nhớ tới câu hát trong bài 'một chút quà cho quê hương'của Việt Dũng. Các em thương mến, đây là chút quà mọn của quí vị ân nhân ở Úc, gởi về cho quê hương, các em hãy 'ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng'. Các em hãy can đảm mà sống, hãy can đảm học hành, để một mai vụt mình lớn lên, các em sẽ có đủ khả năng để bứt khỏi cùm gông bệnh tật, trở nên những con người đầy đủ tài năng và đức độ để giúp ích cho đời, để xóa hẳn dấu vết phong cùi tủi nhục của cha ông ngày trước. Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, số tiền ấy, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho tới mùa Tết tháng sau.
Nếu vùng cao nguyên có trại cùi Di Linh lo cho người Thượng, thì ở đồng bằng miền Nam có khu Bến sắn lo cho người Tầu và người Việt. Thật ra, vùng này có bốn trại cùi: Bến Sắn, Thanh Bình, Bình Minh và Phước Tân. Hai trại do công nhân viên nhà nước điều khiển, hai trại do các nữ tu Công Giáo đảm trách. Chỉ cần đi một vòng quan sát cả bốn trại, hỏi chuyện sơ sơ với các bệnh nhân, chúng ta có thể đưa ra được một nhận định rõ ràng: Nhân viên nhà nước làm việc ăn lương, tới giờ thì đi về, bệnh nhân có đau đớn cần gì cũng bỏ mặc. Cách đối xử thiếu tế nhị, đôi khi còn tàn nhẫn, nổi nóng có thể quát tháo la mắng tỉnh bơ. Trong khi các nữ tu lại xả thân trọn vẹn, chăm sóc, lo lắng, ủi an nâng đỡ bệnh nhân hết mình vì lý tưởng phục vụ tha nhân. Cùng một nhiệm vụ, nhưng khác nhau ở tấm lòng, ở nhân đức khiêm nhường chịu đựng, ở một tình thương vô bờ bến cho những con người bất hạnh lẻ loi. Không phải người bệnh nào cũng dễ mến hiền lành, có người đau quá cũng chửi rủa các sơ tơi tả. Người nữ tu bật khóc, nhưng lại tự an ủi: 'Thôi kệ, họ bị bệnh chứ mình đâu có bị. Tội nghiệp họ'. Có người tưởng rằng các sơ giàu tiền lắm bạc, họ đòi hỏi đủ thứ, đôi khi các sơ phải cắn răng nhường nhịn cả những phần ăn vốn đã quá đạm bạc để dành tiền lo cho họ. Có người được chăm sóc cẩn thận, bệnh đã lành, chỉ còn chút tật nguyền trên thân thể, họ trốn trại đi ăn xin. Các ngày lễ trong năm, giáng sinh, phục sinh, quốc khánh, tết ta là những ngày người cùi hốt bạc. Một ngày lễ đi ăn xin, người cùi có thể kiếm được mấy trăm ngàn Việt nam, tương đương với năm sáu chục đô Úc. Bởi vậy, có người dám tự gây thêm vết thương, càng lở loét càng dễ kiếm tiền. Có tiền, họ lại ăn chơi xả láng. Xã hội người cùi, theo lời một vị bác sĩ làm việc lâu năm trong trại, cũng chẳng khác gì xã hội người thường, cũng có những điều tốt, nhưng cũng có những tệ đoan bài bạc nhậu nhẹt đĩ điếm lan tràn. Khi qua mùa lễ lạc, họ lại lê lết tấm thân tàn trở về với các sơ, để nhờ các sơ chăm sóc lo liệu giùm. Họ không dám nhờ đến những cơ sở do nhân viên nhà nước đảm nhiệm, vì họ sẽ bị chửi rủa và xua đuổi thẳng thừng. Họ chỉ dám cậy nhờ các sơ, vì các sơ sẵn lòng đón nhận, không cần biết họ đã làm gì. Có khi, đang chạy xe ngoài đường, gặp thấy bệnh nhân của mình, vị nữ tu còn năn nỉ bệnh nhân trở về để được chăm sóc cẩn thận, còn hơn là lê lết bên ngoài, bệnh càng nặng, thân thể càng bị cắt dần dần, đau đớn trăm chiều ngược xuôi. Dù sao, nhóm người cùi này cũng chỉ là một thiểu số chung quanh phạm vi Sài Gòn, một thành phố giàu sang dễ kiếm tiền, có nhiều du khách ngoại quốc, Việt kiều về thăm quê hương động lòng từ tâm bố thí, chứ còn đại đa số người cùi ở những nơi khác, nếu dại dột ra khỏi trại là tự mình tìm đến cái chết nhanh chóng. Vì dân chúng còn không có đủ tiền để tự nuôi sống, nói gì đến chuyện giúp đỡ người cùi.
Trước khi về Việt Nam, đúng ra, tôi không hề có ý định đi thăm các trại phong, vì đinh ninh rằng đã có nhiều đoàn thể tại hải ngoại chuyên lo việc gây quỹ trợ giúp cho người cùi. Bệnh phong cùi là mặt nổi, rất dễ làm động lòng quí vị ân nhân và động lòng những cơ quan từ thiện ngoại quốc. Bởi vậy, dễ kiếm tiền, và có lẽ vì thế, nhà nước đã rộng tay quản lý toàn bộ. Chỉ khi tôi được trực tiếp đi thăm và nói chuyện với những người trong cuộc, tôi mới hiểu thấu trọn vẹn vấn đề. Vấn đề nổi cộm là, tất cả số tiền do nước ngoài viện trợ đều nằm trong tay nhà nước, bao nhiêu không ai biết. Nhà nước chỉ cấp phát nhỏ giọt cho mỗi trại một ít, ngoại trừ những trại kiểu mẫu thì được thêm một ít nữa. Với cái số ít nhỏ nhoi ấy, không có trại nào sống nổi nếu không có thêm sự trợ giúp âm thầm của quí vị ân nhân trong nước cũng như ngoài nước. Ðiều quan trọng là, khi chuyển tiền về, các đoàn thể cần điều tra kỹ lưỡng, cần có những người mình thật sự tín nhiệm để giao tiền. Phải làm như thế, thì hy vọng số tiền mồ hôi nước mắt của quí vị ân nhân sẽ đến được những kẻ bất hạnh phong cùi, tránh đi tình trạng thất thoát to lớn khi tiền vào tay những kẻ bất lương ăn trên ngồi chốc. Một bữa nhậu sương sương của họ, số tiền trả nhà hàng dư khả năng nuôi sống vài trăm gia đình bằng vài trăm bữa ăn đủ cơm canh đồ mặn hai ba món.
Về Việt Nam kỳ này, tôi đem theo số tiền quyên góp của Hội Giáo Chức Tiểu Bang Victoria, của Câu Lạc Bộ Nghệ Thuật Springvale, của độc giả báo Dân Chúa, của tiền bán dĩa CD nhạc tại nhiều nơi khắp Melbourne và Perth, của quí vị ân nhân rải rác trên toàn nước Úc. Có người mua CD trả tiền còn ủng hộ thêm. Có quí cụ gom góp ký cóp tiền già đưa tôi, có cô thiếu nữ trong bóng tối dúi tiền vào tay tôi rồi lặng lẽ bước đi, không cần lời cảm ơn. Có bà Bác Sĩ ký cheque gởi tiền tùy Cha định liệu. Có anh thanh niên hằng năm vẫn đưa tiền đều đều qua tôi để giúp Việt Nam. Có người làm may mỗi ngày được vài ba chục, lại dám can đảm đưa phong bì vài trăm đô giúp người nghèo. Có một cậu bé xin mẹ đập heo tiền dành dụm đưa hết cho cha để cha đem về giúp những trẻ mồ côi thiếu thốn. Ði đến nơi nào người Việt cũng nhớ câu ca dao 'Bầu ơi thương lấy Bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.' Tôi vô cùng cảm động trước những tấm lòng quá sức rộng lượng này. Họ không bố thí của dư thừa, họ cho đi những gì chính họ cũng đang thiếu thốn, nhưng họ lại sẵn sàng chia sẻ với những kẻ bất hạnh thiếu thốn hơn mình. Chắc chắn rằng, họ không cần lời cảm ơn của tôi hay của những người đã được nhận lãnh. Họ làm việc bác ái, rất âm thầm, lặng lẽ, chẳng cần được vinh danh tên tuổi. Tôi thật sự bị choáng ngợp vì sự tin tưởng của mọi người. Tôi ngần ngại với trách vụ mà mọi người đã ưu ái trao phó cho tôi. Bởi vậy, đi đến đâu, được cảm ơn, tôi vội vàng đính chính, xin hãy cảm ơn quí vị ân nhân đã nhờ tôi chuyển giao lại cho những kẻ bất hạnh tại đây. Và ở bất cứ nơi nào, lời yêu cầu duy nhất của tôi chỉ là: Xin hãy cầu nguyện cho quí vị ân nhân.
Tết năm nay, ít nhất ra, đã có nhiều nơi nhận được 'chút quà cho quê hương' nhờ vào tấm lòng rộng lượng của quí vị ân nhân tại Úc. Chút quà ấy chắc chắn sẽ tạo được những niềm vui nho nhỏ trong gia đình, khi bữa ăn có cái bánh chưng, có dĩa dưa hành, có dăm miếng thịt kho mặn chát nhưng lại ngọt ngào tình nghĩa. Ở những nơi mà ngậm một cục kẹo đã đủ thấy thiên đường thì chút quà ngày Tết đó thật sự rất to lớn. To lớn hơn nữa, là tấm lòng tiềm ẩn đằng sau món quà. Khi phát kẹo cho các em người Thượng, tôi đã thì thầm nói nhỏ, đây là tặng phẩm của một cậu bé Việt Nam tại Úc gởi đến các em. Nhìn đôi mắt trẻ thơ sáng rực, nhìn nụ cười vang vang trong gió, tôi cứ ước mong rằng lòng mình sẽ mãi mãi nhân từ như trái tim non trẻ của cậu bé, sinh trưởng ở Úc, nhưng tâm hồn thì vẫn luân lưu dòng máu độ lượng Việt Nam.