Sứ điệp Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Mục Vụ người Di Dân gửi CỘNG ĐOÀN CÔNG GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI
Tôi rất vui mừng chào thăm, từng người một, những thành phần của Cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại, tụ họp tại Roma từ ngày 24 đến 27 tháng 7 năm 2003, để tham dự cuộc ”Hội ngộ Niềm Tin” về đề tài: ”Hiệp nhất để Sống và Loan Báo Tin Mừng”. Với biến cố này, họ muốn khởi sự công tác mục vụ ”Nên Thánh và Truyền Giáo”.
Anh Chị Em Việt Nam thân mến, chắc chắn là các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu (1998) cũng đã nghĩ đến Anh Chị Em khi các vị hãnh diện nhắc nhớ rằng ”đông đảo các cộng đoàn Kitô Á châu đã bảo tồn đức tin qua bao thế kỷ, mặc dù phải chịu bao nhiêu sầu khổ, và họ vẫn gắn bó với gia sản tinh thần ấy trong tinh thần kiên trì anh dũng. Kho tàng bao la này, đối với họ, chính là một nguồn vui lớn lao và là đà tiến tông đồ” (Đề nghị 8).
Giống như các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu Kitô, Anh Chị Em đã rời bỏ quê hương, mang theo mình kho tàng đức tin bao la ấy, là chỉ nam cho những bước đi và là ánh sáng trên cuộc hành trình mà Thiên Chúa đã vạch ra cho Anh Chị Em. Thánh Phaolô đã không ngại quả quyết rằng Chúa có một ý định yêu thương cho mỗi người và đó là chúng ta hãy nên thánh (Xc 1 Tx 4,3). Việc nên thánh không phải chỉ liên hệ tới một vài Kitô hữu mà thôi. Vì ”tất cả các tín hữu, thuộc bất kỳ giai tầng và bậc sống nào, đều được mời gọi đạt tới sự sung mãn của đời sống Kitô và sự trọn lành của đức ái” (Ánh Sáng Muôn Dân 40).
Nhưng sự thánh thiện đòi chúng ta phải chia sẻ kho tàng của mình với tất cả mọi người, sự chia sẻ đó trở thành lời rao giảng cho đến tận bờ cõi trái đất, loan báo Con Thiên Chúa, vì yêu thương, đã làm người, chịu chết và sống lại vì tất cả mọi người để làm cho chúng ta trở thành con của Chúa Cha, và trong Chúa, chúng ta trở thành anh chị em với nhau. Trong viễn tượng này, nhân loại trở thành một gia đình duy nhất.
Vì thế chúng ta có thể coi sự kiện rời bỏ quê hương là một hồng ân của Chúa Quan Phòng, hoặc ít là một cơ hội thuận tiện, tuy là trong đau khổ, để tái trao tặng hồng ân của Chúa Giêsu Kitô cho những người, có lẽ trước kia đã từng biết Chúa, nhưng rồi đã xa lìa Ngài. Hồng ân ấy cũng phải trao tặng cho những người chưa được may mắn biết Chúa Giêsu, trong một xã hội, tuy có những căn cội Kitô sâu xa, nhưng không còn nhớ hoặc muốn quên lãng nguồn gốc vẻ đẹp và sự phong phú trong nền văn hóa của mình. Hồng ân ấy có thể trao tặng trước hết qua cuộc sống chứng tá của Anh Chị Em, vì chúng ta biết rằng ngày nay người ta không nghe các thầy dạy cho bằng nghe các chứng nhân. Nhưng họ nghe các thầy dậy đồng thời cũng là chứng nhân, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì thế nếu cuộc sống của Anh Chị Em có đặc tính Kitô chân chính, thì Anh Chị Em có thể rao giảng ”Chân Lý của Đấng đối với Anh Chị Em là “Sự Sống” và là ”Con Đường” dẫn tới hạnh phúc đích thực.
Tôi không thể kết thúc Sứ Điệp này mà không nhắc đến tấm gương ngoại thường của một người con đặc biệt của đất nước Anh Chị Em, đó là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận. Người cũng đã từng chịu đau khổ vì phải xa lìa quê hương yêu dấu của Anh Chị Em, nhưng Người đã chiến thắng đau khổ ấy bằng tình thương. Nghĩa là Người đã biết làm chứng bằng chính cuộc sống về tình thương của Chúa Kitô, cho đến tột cùng, và bằng cả tình thương đối với những kẻ giam giữ Người.
Ước gì tấm gương Đức Cố Hồng Y của Anh Chị Em soi sáng cho sự dấn thân mục vụ của Anh Chị Em, làm cho Anh Chị Em nên thánh và rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Mục Vụ người Di Dân và Lưu Động
Tôi rất vui mừng chào thăm, từng người một, những thành phần của Cộng đồng Công Giáo Việt Nam hải ngoại, tụ họp tại Roma từ ngày 24 đến 27 tháng 7 năm 2003, để tham dự cuộc ”Hội ngộ Niềm Tin” về đề tài: ”Hiệp nhất để Sống và Loan Báo Tin Mừng”. Với biến cố này, họ muốn khởi sự công tác mục vụ ”Nên Thánh và Truyền Giáo”.
Anh Chị Em Việt Nam thân mến, chắc chắn là các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu (1998) cũng đã nghĩ đến Anh Chị Em khi các vị hãnh diện nhắc nhớ rằng ”đông đảo các cộng đoàn Kitô Á châu đã bảo tồn đức tin qua bao thế kỷ, mặc dù phải chịu bao nhiêu sầu khổ, và họ vẫn gắn bó với gia sản tinh thần ấy trong tinh thần kiên trì anh dũng. Kho tàng bao la này, đối với họ, chính là một nguồn vui lớn lao và là đà tiến tông đồ” (Đề nghị 8).
Giống như các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu Kitô, Anh Chị Em đã rời bỏ quê hương, mang theo mình kho tàng đức tin bao la ấy, là chỉ nam cho những bước đi và là ánh sáng trên cuộc hành trình mà Thiên Chúa đã vạch ra cho Anh Chị Em. Thánh Phaolô đã không ngại quả quyết rằng Chúa có một ý định yêu thương cho mỗi người và đó là chúng ta hãy nên thánh (Xc 1 Tx 4,3). Việc nên thánh không phải chỉ liên hệ tới một vài Kitô hữu mà thôi. Vì ”tất cả các tín hữu, thuộc bất kỳ giai tầng và bậc sống nào, đều được mời gọi đạt tới sự sung mãn của đời sống Kitô và sự trọn lành của đức ái” (Ánh Sáng Muôn Dân 40).
Nhưng sự thánh thiện đòi chúng ta phải chia sẻ kho tàng của mình với tất cả mọi người, sự chia sẻ đó trở thành lời rao giảng cho đến tận bờ cõi trái đất, loan báo Con Thiên Chúa, vì yêu thương, đã làm người, chịu chết và sống lại vì tất cả mọi người để làm cho chúng ta trở thành con của Chúa Cha, và trong Chúa, chúng ta trở thành anh chị em với nhau. Trong viễn tượng này, nhân loại trở thành một gia đình duy nhất.
Vì thế chúng ta có thể coi sự kiện rời bỏ quê hương là một hồng ân của Chúa Quan Phòng, hoặc ít là một cơ hội thuận tiện, tuy là trong đau khổ, để tái trao tặng hồng ân của Chúa Giêsu Kitô cho những người, có lẽ trước kia đã từng biết Chúa, nhưng rồi đã xa lìa Ngài. Hồng ân ấy cũng phải trao tặng cho những người chưa được may mắn biết Chúa Giêsu, trong một xã hội, tuy có những căn cội Kitô sâu xa, nhưng không còn nhớ hoặc muốn quên lãng nguồn gốc vẻ đẹp và sự phong phú trong nền văn hóa của mình. Hồng ân ấy có thể trao tặng trước hết qua cuộc sống chứng tá của Anh Chị Em, vì chúng ta biết rằng ngày nay người ta không nghe các thầy dạy cho bằng nghe các chứng nhân. Nhưng họ nghe các thầy dậy đồng thời cũng là chứng nhân, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì thế nếu cuộc sống của Anh Chị Em có đặc tính Kitô chân chính, thì Anh Chị Em có thể rao giảng ”Chân Lý của Đấng đối với Anh Chị Em là “Sự Sống” và là ”Con Đường” dẫn tới hạnh phúc đích thực.
Tôi không thể kết thúc Sứ Điệp này mà không nhắc đến tấm gương ngoại thường của một người con đặc biệt của đất nước Anh Chị Em, đó là Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận. Người cũng đã từng chịu đau khổ vì phải xa lìa quê hương yêu dấu của Anh Chị Em, nhưng Người đã chiến thắng đau khổ ấy bằng tình thương. Nghĩa là Người đã biết làm chứng bằng chính cuộc sống về tình thương của Chúa Kitô, cho đến tột cùng, và bằng cả tình thương đối với những kẻ giam giữ Người.
Ước gì tấm gương Đức Cố Hồng Y của Anh Chị Em soi sáng cho sự dấn thân mục vụ của Anh Chị Em, làm cho Anh Chị Em nên thánh và rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Mục Vụ người Di Dân và Lưu Động