Ngày 04.11.2011, vâng ý Đức cha Phêrô Nguyễn văn Nhơn, Tổng Giám mục Hà Nội, Linh mục Alphongsô Phạm Hùng, Chưởng ấn, gửi cho Cha Giuse Nguyễn văn Phượng DCCT, Chính xứ, và, qua Cha, đến các Cha và giáo dân Giáo xứ Thái Hà:

Tổng Giáo Phận Hà Nội luôn khẳng định và tôn trọng quyền sở hữu của Dòng Chúa Cứu Thế trên khu đất 61.455m2 của tu viện tại 180 Nguyễn Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nội, bao gồm cả cơ sở và những phần đất mà các cơ quan nhà nước đang sử dụng trên diện tích này.

Tổng Giáo Phận Hà Nội không chấp nhận những hành vi thiếu văn hóa và vi phạm pháp luật của nhóm người đã xâm nhập khuôn viên nhà thờ và tu viện Thái Hà với những lời lẽ xúc phạm, gây hấn và bạo lực trên.

Tổng Giáo Phận Hà Nội luôn hiệp cầu nguyện với tu viện và giáo xứ Thái Hà để nhờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và Thánh Alphongsô chuyển cầu, xin Chúa là Cha nhân từ ban cho tu viện và giáo xứ được bình an, mọi quyền lợi chính đáng được tôn trọng, những vấn đề tài sản đất đai sớm được giải quyết trong công bình, sự thật và yêu thương
.”

Lý do của bức thư là để trả lời thư ngày 03.11.2011 mà Cha Phượng đã gởi cho Đức cha để trình Người sự kiện ‘một toán người chừng 100 dân ùa vào sân Nhà thờ Thái Hà cầm loa tay chửi bới các tu sĩ, linh mục. Họ đã xô xát với các linh mục, tu sĩ và giáo dân’.
Từ ngày Đất Nước bị phân đôi Bắc Nam, các chính quyền cộng sản liên tiếp đàn áp các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) và giáo dân Giáo xứ Thái Hà, nhưng, nơi đây, luôn vẫn có những thế hệ can đảm tiếp nối nhau để bảo vệ tài sản của Giáo hội và cũng là của chính mình. Do sự phát triển kinh tế và dân số Hà nội tăng, nên những quan tham muốn chiếm đất của Nhà Dòng và Giáo xứ, bất chấp nhu cầu phục vụ số giáo dân và người nghèo ngày càng gia tăng trên phần đất mà DCCT là sở hữu chủ hợp pháp. Rất tiếc, người cộng sản, bất chấp Hiến pháp và luật pháp Việt Nam, cứ làm sai trái hay cải bướng. Khi thua lý, họ dùng vũ khí hay côn đồ để khủng bố tu sĩ và giáo dân.

1.- Sở hữu chủ hợp pháp.

Vào năm 1928, Đức cha Francois Chaize, Giám quản Tông toà Giáo phận Hà Nội, đứng tên mua giúp Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) khu đất nằm trên quốc lộ 6, nay là phố Nguyễn lương Bằng, với tổng diện tích 61.455m2.

Năm 1943, DCCT đã có bản vẽ và giấy phép xây dựng của Thành phố Hà Nội để cất Giáo đường trên khu đất này, nhưng, từ năm 1943-1946, chiến tranh lan tràn và nhất là nạn đói 1945, việc hình thành nhà thờ đã không thể thực hiện. Ngày 22.05.1944, Đức cha Francoise Chaize đã làm giấy nhượng quyền sở hữu đất đai và toàn bộ bất động sản trên khu đất này cho các tu sĩ.

Từ đó và liên tục, DCCT, dưới danh xưng ‘Les Pères Rédemptoristes’, đứng tên sở hữu hợp pháp do Bằng khoán Điền thổ số 42, ngày 16.08.1944 (xin xem sơ đồ của Consevation de la Propriété Foncière de Ha Noi – Sở Quản thủ Điền thổ Hà Nội).

Trên mảnh đất này, Nhà Dòng đã xây dựng Tu viện, Học viện, Nhà đệ tử, Nhà thờ và các cơ sở mục vụ và xã hội khác.

2.- Thời kỳ bách hại dã man.

Ngày 20.07.1954, Hiệp định Genèvre đình chỉ chiến sự ở Việt-Nam, ký giữa Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chia đôi Quê Hương thành hai quốc gia. Do đó, đa số các tu sĩ DCCT Thái Hà di chuyển vào miền Nam đất Việt. Các Cha Giuse Vũ ngọc Bích, Denis Paquette và Thomas Côté, cùng các Thầy Clément Phạm văn Đạt và Marcel Nguyễn tấn Văn còn lưu lại. Họ sống dưới sự đối xử khắc nghiệt của nhà nước vô thần. Hai Thầy Văn và Đạt bị bắt và đã qua đời trong ngục tù cộng sản. Hồ sơ phong Chân Phước cho Thầy Marcel Văn đã được mở tại Tòa Thánh. Cha Côté bị trục xuất và Cha Bích phải điều hành Giáo xứ một mình.

3.- Mượn hay chiếm đoạt.

Bất chấp những phản đối của Cha Bích, nhà cầm quyền Hà nội đã chiếm đoạt từng bước miếng đất này, từ 61.455 m2 giờ đây chỉ còn 2.700 m2. Họ đổi Tu viện thành bệnh viện Đống Đa và bán bất hợp pháp nhiều phần khác cho các công ty, các viên chức nhà nước và tư nhân.

Ngày 18.08.1996, Linh mục Vũ ngọc Bích đã gửi đơn khiếu nại tới Chính quyền. Những năm sau đó, DCCT và Giáo xứ Thái Hà tiếp tục gửi đơn khiếu nại tới các cấp chính quyền đề nghị tôn trọng quyền sở hữu và giao lại khu đất cho Nhà Dòng và Giáo xứ, nhưng đã không nhận được một trả lời về việc giải quyết.

4.- Tai họa đến cho Thái Hà năm 2008.

Ngày 05.01.2008, giáo dân nhận thấy Công ty cổ phần May Chiến Thắng vi phạm trên khu đất đang tranh chấp bằng làm đường và tiến hành xây dựng, nên phản đối. Công an hứa sẽ buộc Công ty này dừng thi công. Tin lời công an, giáo dân ra về. Sáng Chúa Nhật 06.01.2008, giáo dân phát hiện các cảnh sát, với roi điện, súng cắm lưỡi lê bảo vệ việc thi công trái phép. Ý thức đây là tài sản chung của Giáo hội, tức tốc bà con giáo dân điện báo cho nhau kéo ra khu đất bị chiếm dụng để bảo vệ và phản đối bằng cách dựng lều bạt, treo ảnh tượng và cầu nguyện bên ngoài khu đất này. Do đó, ngày 07.01.2008, Ủy ban Nhân dân (UBND) Hà Nội quyết định lập Đoàn Thanh tra Liên ngành, để ‘kiểm tra, xác minh làm rõ và thông báo kết quả tới nhà thờ’. Như vậy, dù với tư cách là một chủ thể có liên quan quyền lợi và trách nhiệm, Giáo xứ Thái Hà đã không được có đại diện trong Đoàn Thanh tra Liên ngành và cũng không được họ gặp gỡ, trao đổi.

Ngày 11.04.2008, Đoàn Thanh tra mời đại diện Giáo xứ ra Sở Tài nguyên-Môi trường để thông báo kết luận tạm thời. Các đại diện này đã mạnh mẽ phản bác khi Đoàn Thanh tra cho rằng:

- Ngày 24.10.1961, Linh mục Vũ Ngọc Bích đã ký giấy bàn giao đất cho nhà nước quản lý và việc Giáo xứ đòi lại/xin lại đất đai mà Công ty Chiến Thắng đang quản lý là không có cơ sở để giải quyết.

Đại diện Giáo xứ Thái Hà hỏi lại:

- Chính quyền nói ngày 24.10.1961 Cha Bích mới giao đất cho nhà nước, tại sao ngày 30.01.1961 chính quyền đã có quyết định giao đất cho Xí nghiệp Dệt Thảm Len Đống Đa, tức là 10 tháng trước khi cho rằng Cha Bích đã ký giấy bàn giao? Chính quyền đã chiếm đất của Giáo xứ mà không hề có giấy tờ, và, giấy bàn giao do Cha Vũ ngọc Bích ký là giả mạo. Cho đến khi qua đời, Cha không bao giờ ký giấy hiến phần đất này cho nhà nước quản lý và nhà nước cũng chưa bao giờ có quyết định trưng thu khu đất nầy, nên nó vẫn thuộc quyền sở hữu của DCCT và Giáo xứ Thái Hà.

Thật vậy, Đoàn Thanh tra, lúc đầu, không chịu trưng giấy bàn giao do Cha Bích ký vì cho rằng đó là ‘tài liệu mật’. Ngày 26.08.2008, UBND TP.Hà Nội đã gửi công văn số 680/UBND-NNĐC về việc cung cấp tài liệu giải quyết khiếu nại và gửi kèm 4 bản phóng ảnh để chứng minh cơ sở cho việc chiếm đoạt đất đai của mình. Do đó, trong phiên họp giữa các linh mục và giáo dân Thái Hà với các lãnh đạo thành phố Hà Nội ngày 17.09.2008, khi phía DCCT và Giáo xứ đề cập đến tính bất nhất của những giấy tờ mà phía nhà nước đưa ra để nói là Cha Vũ ngọc Bích đã ký (có tới 4 giấy bàn giao đất đai cho nhà nước quản lý, trong khi chỉ có một miếng đất), thì ông Vũ hồng Khanh, phó chủ tịch UBND Thành phố nhắc bảo thuộc cấp của mình: “Thôi thì các đồng chí xem xét bốn giấy tờ ấy, rồi thống nhất chọn lấy một thôi”.

Ngoài ra, nếu ngày 24.10.1961, ‘Linh mục Bích’ ký bàn giao toàn khu đất (trừ nhà thờ) cho nhà nước quản lý thì họ không đem biên bản này trước bạ theo qui định của Sắc lệnh số 85-SL ngày 29.02.1952 của Phủ Chủ tịch nước VNDCCH và sang tên trong địa bộ và sổ thuế.

Vì các cán bộ Thành phố dối trá và thua lý, nên khuya ngày 21.09.2008, đêm kinh hoàng đầy bạo lực, ma quỷ và bóng tối, ‘chánh quyền’ huy động đông đảo đám ‘quần chúng nhân dân tự phát’ gồm côn đồ và xã hội đen, đến bao vây Tu viện DCCT và Giáo xứ Thái Hà. Công an đứng canh cho chúng ném gạch đá vào trong khuôn viên nhà thờ và tu viện. Chúng còn hô hào những khẩu hiệu đầy bạo lực: “Giết giết giết Kiệt*, giết giết giết Phụng”. Chúng hò la kéo đổ cổng Đền Thánh Giêrađô để cố ý kích động bạo lực lên tới cực điểm.

[*‘Kiệt’ là Đức cha khả kính Giuse Ngô quang Kiệt, Tổng Giám mục ‘từ chức’ Hà nội và ‘Phụng’ là Cha Vũ khởi Phụng, DCCT, Bề trên Tu viện Hà nội, cựu Chính xứ Thái Hà.]

(Còn tiếp)