KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2010
CHƯƠNG 3: LẠM PHÁT TĂNG MẠNH.
Tại hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam khai mạc sáng ngày 07.12.2010 kéo dài trong hai hôm, hai vấn đề ‘lạm phát gia tăng’ và ‘sự mất giá của tiền đồng’ đã được các diễn giả lo ngại vì có thể làm ảnh hưởng lòng tin của họ tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê ngày 24.12.2010, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12.2010 tăng 1,98% so với tháng 11.2010, mức tăng cao nhất từ đầu năm đến nay, mức tăng cao nhất từ đầu năm đến nay, và tăng 11,75% so với tháng 12.2009; trong đó, tăng cao nhất là nhóm giáo dục (19,38%), kế tiếp là các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (tăng 16,18%). Trung bình năm 2010, tăng 9,19% so với trung bình năm 2009.
Trong tháng 12.2010, chỉ số giá tiêu dùng nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó nhóm lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Chỉ ngành bưu chính viễn thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.
Chúng ta cùng xem:
I.- LẠM PHÁT.
1.- Định nghĩa.
Đó là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền, đồng nghĩa với ‘vật giá leo thang’, giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng. Do đó, với cùng một số tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ.
Thí dụ: Ngày 05.12.2009, giá gạo tẻ chỉ bán 8.000 đồng/kg. Đến ngày 25.11.2010 thì phải trả 8.800 đồng để mua được một kg gạo tẻ, tức tăng 800 đồng hay 10%. Mãi lực của số tiền 8.000 đồng, lúc tháng 12.2009, mua được một kg gạo tẻ; và đến tháng 11.2010, chỉ mua được 0,91 kg gạo tẻ.
Lạm phát, theo một khái niệm khác, là khối lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát. Những ví dụ cùng cực nhất của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3,25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ.
Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền trong giới hạn cho phép của nền kinh tế là một hình thức thu ‘thuế lạm phát’. Chính phủ sử dụng khoản phụ trội này để quân bình ngân sách với hy vọng sang năm kinh tế tiếp tục phát triển sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn.
2. Cách tính chỉ số giá tiêu dùng CPI.
Việt-Nam khởi sự tính toán và sử dụng CPI (Consumer Price Index, tiếng Anh và Indice des prix à la consommation, tiếng Pháp) để đo mức độ tăng giá tiêu dùng chung từ năm 1995.
Để tính CPI, cần có hai yếu tố:
a.- Rổ hàng hóa và dịch vụ gồm những giá bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng phổ biến của người dân của các mặt hàng đại diện và được cập nhật và mở rộng từng thời kỳ, thời điểm được chọn làm năm gốc cũng thay đổi theo: năm gốc 1995 (với 296 mặt hàng hóa và dịch vụ), 2000 (390), 2005 (494) và 2010 (572, tăng 78 mặt hàng so với ‘rổ’ hàng hoá kỳ trước)… Các mặt hàng hóa và dịch vụ đại diện này được phân chia thành 10 nhóm sẽ kể duới đây.
Giá bán lẻ được điều tra định kỳ từng mặt hàng hóa và dịch vụ để so sánh phải trong cùng một chợ hay cửa hàng, cùng một hiệu và phẩm chất được chọn đại diện theo các địa bàn ở các địa phương thuộc tất cả các tỉnh/thành phố trên cả nước, trong ít nhất hai thời điểm khác nhau.
b.- Quyền số là số bách phân hay tỷ trọng mức tiêu dùng tương ứng của chúng trong tổng mức chi tiêu dùng cho đời sống hàng ngày của người dân. Quyền số dùng để tính CPI cho thời kỳ 2010-2015 được xây dựng từ kết quả của cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình và Điều tra quyền số chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê thực hiện trong năm 2008.
Do đó, ‘Rổ hàng hóa và dịch vụ’ (572 mặt hàng đại diện) hiện dùng để tính chỉ số giá tiêu được chia thành 10 nhóm với quyền số như sau:
1. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (trong đó có lương thực (8,18%),
thực phẩm (24,35%) và ăn uống ngoài gia đình (7,40%): 39,93%
2. Đồ uống và thuốc lá: 4,03%
3. May mặc, mũ nón, giày dép: 7,28%
4. Nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm cả điện, nước, chất đốt): 10,01%
5. Thiết bị và đồ dùng gia đình: 8,65%
6. Dược phẩm y tế (thuốc và dịch vụ y tế): 5,61%
7. Giao thông: 8,87%
8. Bưu chính viễn thông: 2,73%
9. Giáo dục: 5,72%
10. Văn hóa, thể thao, giải trí (cả du lịch): 3,83%
11. Hàng hóa dịch vụ khác: 3,34%
Nhận xét. Theo cách tính CPI hiện hành với rổ hàng hóa mới sẽ thay đổi. Điểm quan trọng nhất là bách phân (hay tỉ quyền số của lương thực thực phẩm giảm xuống còn 39,93% thay vì là 42,85% như cách tính từ năm 2005, sau khi giảm 60,86% (1995) còn 47,90% (2000). Giá lương thực ở Việt Nam có độ dao động cao, với quyền số lớn của thực phẩm thì tổng chỉ số giá tiêu dùng bị ảnh hưởng rất lớn. Còn nhớ năm 2008 CPI đã tăng chóng mặt do giá thực phẩm tăng nhanh. Với việc giảm quyền số của thực phẩm trong rổ hàng hóa, chỉ số lạm phát của Việt Nam 2010 giảm nhẹ bớt đi.
Đáng chú ý hơn. Trong cuộc họp báo cuối năm tại Văn phòng Chính phủ ngày 31.12.2010, Phó Thủ tướng thường trực, ủy viên Bộ Chính trị Cộng đảng Việt Nam, Nguyễn sinh Hùng cho rằng con số 11,75% là do cách tính của cơ quan thống kê. Oâng nói rằng ‘phương pháp tính tăng giá của các nước không tính giá dầu, giá lương thực và nếu ta thực hiện theo cách này, chỉ số giá tiêu dùng của cả năm chỉ tăng 7,5%, không phải tăng 11,75% như cách tính hiện nay’. Tuy nhiên, ông không đưa ra tên một quốc gia nào để làm thí dụ.
Ông còn khằng định trong năm 2010, Việt Nam đã đạt được mục tiêu phục hồi kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm vừa qua là 6,78%, đứng thứ hai trong khu vực, sau Trung quốc. Điều đó không đúng vì Singapore có mức tăng trưởng kinh tế là 14,7% và Malaysia, một quốc gia ASEAN khác, đã tăng với mức 7% so với 2009. Chưa hết, báo cáo kinh tế giữa kỳ của Bộ Tài chính ở New Delhi dự báo kinh tế Ấn độ có thể tăng trưởng 9% trong tài khóa 2010-2011, bắt đầu từ ngày 01.04.2010. Bách phân lạm phát các quốc gia này thấp hơn nhiều so với Việt Nam.
3.- Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam.
Lạm phát tại Việt Nam năm 2010 đã lên cao tới 11,75%. Trong đó, mức tăng mạnh nhứt là về giáo dục đến 19,38%. Sự gia tăng giá này đã đẩy các trẻ em nghèo sớm phải bỏ việc học hành. Sau đó là hàng ăn 16,18%, thực phẩm đã lên đến 40%. Việc Việt Nam chỉ nhắm vào các con số tăng trưởng kinh tế, do đó, gây thâm hụt mậu dịch cao và cơ cấu quản lý yếu kém chính là những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng vọt trong năm những năm gần đây.
A.- Chạy theo chỉ thị Đảng Cộng sản.
Trong ‘nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam’, các thành viên Bộ chính trị, vốn ‘sùng bái số lượng’, đặt trọng tâm nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm. Họ mơ tưởng, với tốc độ tăng trưởng cao, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia công nghiệp vào năm 2020, nên cần phải có sự phát triển kinh tế bằng mọi cách. Qua chỉ thị của Đảng, trọng tâm của nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm.
a.- Để tiến tới mục tiêu đã định, chính phủ đã khuyến khích các nhà đầu tư ngoại quốc mang vốn vào trực tiếp kinh doanh và các doanh nghiệp quốc doanh được tạo điều kiện mượn nợ ngân hàng dễ dàng cho các dự án đầu tư.
Do đó, tín dụng cấp cho hầu hết nhóm kinh tài quốc doanh tăng 28% so với năm 2009. Ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các lĩnh vực thiếu chuyên môn, đặc biệt vào các lĩnh vực bất động sản hoặc có nhiều rủi ro như cổ phiếu, v.v… Vì thiếu trình độ chuyên môn nên các khoảng đầu tư này thường thua lỗ, dẫn đến việc doanh nghiệp không thể hoặc không có khả năng trả được nợ ngân hàng.
b. Lãi suất tín dụng tăng cao. Nền kinh tế Việt Nam, trong thời gian qua, tăng trưởng nhờ đầu tư, chứ không vì tiêu thụ, nên khi tổng số tiền tiết kiệm trong nước không đủ cung ứng thì phải vay nơi các nhà đầu tư ngoại quốc (tương đương 40% tổng sản lượng quốc gia). Vì mức tín nhiệm hoàn trái của Việt Nam thấp và hệ thống tài chánh mang nhiều rủi ro, nên họ đòi hỏi lãi xuất cao, lên đến 20%/năm trong năm 2010 (số bách phân này đã tăng thêm sau khi Vinashin không thanh toán được khoản vay gốc 600 triệu mỹ kim nơi Ngân hàng Credit Suisse đáo hạn ngày 20.12.2010). Do đó, lạm phát từ lãi xuất tăng cao và doanh nghiệp phải trả tiền lãi cao làm tăng giá thành sản phẩm và dịch vụ. Hơn nữa, Việt Nam vay vốn ngoại quốc thúc đẩy nhu cầu ngoại tệ cao hơn nội tệ đến áp lực giảm giá trị tiền đồng Việt Nam.
c. Bây giờ, tiền đã có và việc kinh doanh bắt đầu. Công việc đầu tiên là phải tìm đất đai để xây cất văn phòng và cơ xưởng. Tại Việt Nam, đất đai thuộc về toàn dân (một danh từ mơ hồ: là ai ?), nhưng do Nhà nước (đảng viên cộng sản có mặt ở mọi cấp) quản lý. Nếu địa phương không sẳn đất thì Nhà nước can thiệp mà điển hình là các trường hợp Tòa Khâm sứ Hà nội hay nhà giáo dân Cồn dầu (nơi có ‘mục vụ đất đai’, cướp quan tài và Kitô–hữu bị đánh chết) hoặc của bao nhiêu ‘dân oan’ khác trên Quê hương rất hữu hiệu để giúp các nhà đầu tư ngoại quốc có nơi làm ăn. Dĩ nhiên, dịch vụ nào cũng phải có cái giá (trắng hay đen) phải trả !! và được tính vào giá thành.
Ngoài ra, cơ xưởng cần phải thiết bị máy móc mà các máy tốt thì Việt Nam không làm được, phải nhập cảng và trả bằng mỹ kim. Sau đó, xí nghiệp còn phải nhập cảng nguyên, nhiên liệu để sản xuất. Do đó, hai vấn đề được đặt ra:
- khiếm hụt các cân thương mãi khi tổng trị giá hàng hóa và dịch vụ nhập cảng cao hơn tổng trị giá hàng hóa và dịch vụ xuất cảng. Số khiếm hụt này trong năm 2010 là 12,4 tỷ mỹ kim. Trong số đó, bao gồm cả trị giá những hàng hóa xa hoa, không cần thiết như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v… Ngoài ra, sự yêu chuộng hàng ngoại hoá của dân chúng xuất phát từ ý thức vọng ngoại, không tin tưởng vào hàng nội địa.
[chúng ta ghi nhận: trong năm 2010, Việt Nam nhập cảng từ Trung quốc số lượng hàng hóa lên đến 20,01 tỷ mỹ kim và chỉ xuất bán sang Trung quốc chỉ được 6,5 tỷ mỹ kim đưa đến số nhập siêu là: 20,01 – 6,5 = 13,51 tỷ mỹ kim]
- tỷ giá đồng bạc Việt Nam so với đồng mỹ kim không ngừng phải điều chỉnh hạ giá trên thị trường chính thức cũng như thị trường tự do hay đen. Ngày 11.02.2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phá giá đồng Việt Nam 9,3% so với mỹ kim, tức cần phải có 20.693 đồng, thay vì 18.932 trước đó, để đổi lấy một mỹ kim. Đây là lần phá giá thứ tư trong 15 tháng qua, với khoảng giảm 20% tỷ giá trước đó.
d.- Thâm hụt ngân sách quốc gia. Nhà nước Việt Nam dùng tiền thuế người dân đóng, bán dầu thô, viện trợ và vay nước ngoài để đầu tư vào các doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu quả nên bị thua lỗ. Do đó, sự tăng trưởng kinh tế cao theo chỉ thị của Cộng đảng đã phải trả một giá rất đắc đỏ, được đo lường bởi ‘hiệu quả đầu tư của một quốc gia’, tức hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) mà các chuyên gia thường dùng để tính bằng: tổng số vốn đầu tư chia cho tổng số tăng trưởng Tổng sản lượng nội địa (TSLNĐ). Theo phương pháp tính này, tăng trưởng TSLNĐ càng cao thì hệ số ICOR càng nhỏ. Năm 2007, Việt Nam có hệ số ICOR là 5,2; năm 2008 là 6,66 và năm 2009 là 8. Những con số vừa nêu là minh chứng hiệu quả đầu tư tại Việt Nam càng ngày càng xấu đi: năm 2007, Việt Nam cần 5,2 đồng vốn đầu tư để đạt được 1 đồng TSLNĐ và năm 2009, phải cần đến 8 đồng để đạt được 1 đồng TSLNĐ…
Hậu quả của sự thâm hụt này là:
- Nhà nước buộc phải vay thêm nợ. Nếu vay được nợ của người dân thì vấn đề tương đối không nghiêm trọng, vì tiền lưu chuyển trong nội địa nền kinh tế, nhưng tiền lãi nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước.
- Trường hợp nghiêm trọng hơn là khi Nhà nước cho in tiền để chi xài. Sự thâm hụt Ngân sách Nhà nước năm 2010 được Quốc hội quyết định là 119.700 tỷ đồng, bằng 6,2% TSLNĐ, trên cơ sở đánh giá thu, chi nêu trên, số bội chi Ngân sách dự kiến còn là 5,8% TSLNĐ, tức giảm 0,4% TSLNĐ so với mức Quốc hội đã định.
(Còn tiếp)
CHƯƠNG 3: LẠM PHÁT TĂNG MẠNH.
Tại hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam khai mạc sáng ngày 07.12.2010 kéo dài trong hai hôm, hai vấn đề ‘lạm phát gia tăng’ và ‘sự mất giá của tiền đồng’ đã được các diễn giả lo ngại vì có thể làm ảnh hưởng lòng tin của họ tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê ngày 24.12.2010, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12.2010 tăng 1,98% so với tháng 11.2010, mức tăng cao nhất từ đầu năm đến nay, mức tăng cao nhất từ đầu năm đến nay, và tăng 11,75% so với tháng 12.2009; trong đó, tăng cao nhất là nhóm giáo dục (19,38%), kế tiếp là các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (tăng 16,18%). Trung bình năm 2010, tăng 9,19% so với trung bình năm 2009.
Trong tháng 12.2010, chỉ số giá tiêu dùng nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31% trong đó nhóm lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28% so với tháng 11. Chỉ ngành bưu chính viễn thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.
Chúng ta cùng xem:
I.- LẠM PHÁT.
1.- Định nghĩa.
Đó là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền, đồng nghĩa với ‘vật giá leo thang’, giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng. Do đó, với cùng một số tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ.
Thí dụ: Ngày 05.12.2009, giá gạo tẻ chỉ bán 8.000 đồng/kg. Đến ngày 25.11.2010 thì phải trả 8.800 đồng để mua được một kg gạo tẻ, tức tăng 800 đồng hay 10%. Mãi lực của số tiền 8.000 đồng, lúc tháng 12.2009, mua được một kg gạo tẻ; và đến tháng 11.2010, chỉ mua được 0,91 kg gạo tẻ.
Lạm phát, theo một khái niệm khác, là khối lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát. Những ví dụ cùng cực nhất của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3,25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng hồ.
Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền trong giới hạn cho phép của nền kinh tế là một hình thức thu ‘thuế lạm phát’. Chính phủ sử dụng khoản phụ trội này để quân bình ngân sách với hy vọng sang năm kinh tế tiếp tục phát triển sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn.
2. Cách tính chỉ số giá tiêu dùng CPI.
Việt-Nam khởi sự tính toán và sử dụng CPI (Consumer Price Index, tiếng Anh và Indice des prix à la consommation, tiếng Pháp) để đo mức độ tăng giá tiêu dùng chung từ năm 1995.
Để tính CPI, cần có hai yếu tố:
a.- Rổ hàng hóa và dịch vụ gồm những giá bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng phổ biến của người dân của các mặt hàng đại diện và được cập nhật và mở rộng từng thời kỳ, thời điểm được chọn làm năm gốc cũng thay đổi theo: năm gốc 1995 (với 296 mặt hàng hóa và dịch vụ), 2000 (390), 2005 (494) và 2010 (572, tăng 78 mặt hàng so với ‘rổ’ hàng hoá kỳ trước)… Các mặt hàng hóa và dịch vụ đại diện này được phân chia thành 10 nhóm sẽ kể duới đây.
Giá bán lẻ được điều tra định kỳ từng mặt hàng hóa và dịch vụ để so sánh phải trong cùng một chợ hay cửa hàng, cùng một hiệu và phẩm chất được chọn đại diện theo các địa bàn ở các địa phương thuộc tất cả các tỉnh/thành phố trên cả nước, trong ít nhất hai thời điểm khác nhau.
b.- Quyền số là số bách phân hay tỷ trọng mức tiêu dùng tương ứng của chúng trong tổng mức chi tiêu dùng cho đời sống hàng ngày của người dân. Quyền số dùng để tính CPI cho thời kỳ 2010-2015 được xây dựng từ kết quả của cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình và Điều tra quyền số chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê thực hiện trong năm 2008.
Do đó, ‘Rổ hàng hóa và dịch vụ’ (572 mặt hàng đại diện) hiện dùng để tính chỉ số giá tiêu được chia thành 10 nhóm với quyền số như sau:
1. Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (trong đó có lương thực (8,18%),
thực phẩm (24,35%) và ăn uống ngoài gia đình (7,40%): 39,93%
2. Đồ uống và thuốc lá: 4,03%
3. May mặc, mũ nón, giày dép: 7,28%
4. Nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm cả điện, nước, chất đốt): 10,01%
5. Thiết bị và đồ dùng gia đình: 8,65%
6. Dược phẩm y tế (thuốc và dịch vụ y tế): 5,61%
7. Giao thông: 8,87%
8. Bưu chính viễn thông: 2,73%
9. Giáo dục: 5,72%
10. Văn hóa, thể thao, giải trí (cả du lịch): 3,83%
11. Hàng hóa dịch vụ khác: 3,34%
Nhận xét. Theo cách tính CPI hiện hành với rổ hàng hóa mới sẽ thay đổi. Điểm quan trọng nhất là bách phân (hay tỉ quyền số của lương thực thực phẩm giảm xuống còn 39,93% thay vì là 42,85% như cách tính từ năm 2005, sau khi giảm 60,86% (1995) còn 47,90% (2000). Giá lương thực ở Việt Nam có độ dao động cao, với quyền số lớn của thực phẩm thì tổng chỉ số giá tiêu dùng bị ảnh hưởng rất lớn. Còn nhớ năm 2008 CPI đã tăng chóng mặt do giá thực phẩm tăng nhanh. Với việc giảm quyền số của thực phẩm trong rổ hàng hóa, chỉ số lạm phát của Việt Nam 2010 giảm nhẹ bớt đi.
Đáng chú ý hơn. Trong cuộc họp báo cuối năm tại Văn phòng Chính phủ ngày 31.12.2010, Phó Thủ tướng thường trực, ủy viên Bộ Chính trị Cộng đảng Việt Nam, Nguyễn sinh Hùng cho rằng con số 11,75% là do cách tính của cơ quan thống kê. Oâng nói rằng ‘phương pháp tính tăng giá của các nước không tính giá dầu, giá lương thực và nếu ta thực hiện theo cách này, chỉ số giá tiêu dùng của cả năm chỉ tăng 7,5%, không phải tăng 11,75% như cách tính hiện nay’. Tuy nhiên, ông không đưa ra tên một quốc gia nào để làm thí dụ.
Ông còn khằng định trong năm 2010, Việt Nam đã đạt được mục tiêu phục hồi kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm vừa qua là 6,78%, đứng thứ hai trong khu vực, sau Trung quốc. Điều đó không đúng vì Singapore có mức tăng trưởng kinh tế là 14,7% và Malaysia, một quốc gia ASEAN khác, đã tăng với mức 7% so với 2009. Chưa hết, báo cáo kinh tế giữa kỳ của Bộ Tài chính ở New Delhi dự báo kinh tế Ấn độ có thể tăng trưởng 9% trong tài khóa 2010-2011, bắt đầu từ ngày 01.04.2010. Bách phân lạm phát các quốc gia này thấp hơn nhiều so với Việt Nam.
3.- Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam.
Lạm phát tại Việt Nam năm 2010 đã lên cao tới 11,75%. Trong đó, mức tăng mạnh nhứt là về giáo dục đến 19,38%. Sự gia tăng giá này đã đẩy các trẻ em nghèo sớm phải bỏ việc học hành. Sau đó là hàng ăn 16,18%, thực phẩm đã lên đến 40%. Việc Việt Nam chỉ nhắm vào các con số tăng trưởng kinh tế, do đó, gây thâm hụt mậu dịch cao và cơ cấu quản lý yếu kém chính là những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng vọt trong năm những năm gần đây.
A.- Chạy theo chỉ thị Đảng Cộng sản.
Trong ‘nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam’, các thành viên Bộ chính trị, vốn ‘sùng bái số lượng’, đặt trọng tâm nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm. Họ mơ tưởng, với tốc độ tăng trưởng cao, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia công nghiệp vào năm 2020, nên cần phải có sự phát triển kinh tế bằng mọi cách. Qua chỉ thị của Đảng, trọng tâm của nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm.
a.- Để tiến tới mục tiêu đã định, chính phủ đã khuyến khích các nhà đầu tư ngoại quốc mang vốn vào trực tiếp kinh doanh và các doanh nghiệp quốc doanh được tạo điều kiện mượn nợ ngân hàng dễ dàng cho các dự án đầu tư.
Do đó, tín dụng cấp cho hầu hết nhóm kinh tài quốc doanh tăng 28% so với năm 2009. Ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các lĩnh vực thiếu chuyên môn, đặc biệt vào các lĩnh vực bất động sản hoặc có nhiều rủi ro như cổ phiếu, v.v… Vì thiếu trình độ chuyên môn nên các khoảng đầu tư này thường thua lỗ, dẫn đến việc doanh nghiệp không thể hoặc không có khả năng trả được nợ ngân hàng.
b. Lãi suất tín dụng tăng cao. Nền kinh tế Việt Nam, trong thời gian qua, tăng trưởng nhờ đầu tư, chứ không vì tiêu thụ, nên khi tổng số tiền tiết kiệm trong nước không đủ cung ứng thì phải vay nơi các nhà đầu tư ngoại quốc (tương đương 40% tổng sản lượng quốc gia). Vì mức tín nhiệm hoàn trái của Việt Nam thấp và hệ thống tài chánh mang nhiều rủi ro, nên họ đòi hỏi lãi xuất cao, lên đến 20%/năm trong năm 2010 (số bách phân này đã tăng thêm sau khi Vinashin không thanh toán được khoản vay gốc 600 triệu mỹ kim nơi Ngân hàng Credit Suisse đáo hạn ngày 20.12.2010). Do đó, lạm phát từ lãi xuất tăng cao và doanh nghiệp phải trả tiền lãi cao làm tăng giá thành sản phẩm và dịch vụ. Hơn nữa, Việt Nam vay vốn ngoại quốc thúc đẩy nhu cầu ngoại tệ cao hơn nội tệ đến áp lực giảm giá trị tiền đồng Việt Nam.
c. Bây giờ, tiền đã có và việc kinh doanh bắt đầu. Công việc đầu tiên là phải tìm đất đai để xây cất văn phòng và cơ xưởng. Tại Việt Nam, đất đai thuộc về toàn dân (một danh từ mơ hồ: là ai ?), nhưng do Nhà nước (đảng viên cộng sản có mặt ở mọi cấp) quản lý. Nếu địa phương không sẳn đất thì Nhà nước can thiệp mà điển hình là các trường hợp Tòa Khâm sứ Hà nội hay nhà giáo dân Cồn dầu (nơi có ‘mục vụ đất đai’, cướp quan tài và Kitô–hữu bị đánh chết) hoặc của bao nhiêu ‘dân oan’ khác trên Quê hương rất hữu hiệu để giúp các nhà đầu tư ngoại quốc có nơi làm ăn. Dĩ nhiên, dịch vụ nào cũng phải có cái giá (trắng hay đen) phải trả !! và được tính vào giá thành.
Ngoài ra, cơ xưởng cần phải thiết bị máy móc mà các máy tốt thì Việt Nam không làm được, phải nhập cảng và trả bằng mỹ kim. Sau đó, xí nghiệp còn phải nhập cảng nguyên, nhiên liệu để sản xuất. Do đó, hai vấn đề được đặt ra:
- khiếm hụt các cân thương mãi khi tổng trị giá hàng hóa và dịch vụ nhập cảng cao hơn tổng trị giá hàng hóa và dịch vụ xuất cảng. Số khiếm hụt này trong năm 2010 là 12,4 tỷ mỹ kim. Trong số đó, bao gồm cả trị giá những hàng hóa xa hoa, không cần thiết như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v… Ngoài ra, sự yêu chuộng hàng ngoại hoá của dân chúng xuất phát từ ý thức vọng ngoại, không tin tưởng vào hàng nội địa.
[chúng ta ghi nhận: trong năm 2010, Việt Nam nhập cảng từ Trung quốc số lượng hàng hóa lên đến 20,01 tỷ mỹ kim và chỉ xuất bán sang Trung quốc chỉ được 6,5 tỷ mỹ kim đưa đến số nhập siêu là: 20,01 – 6,5 = 13,51 tỷ mỹ kim]
- tỷ giá đồng bạc Việt Nam so với đồng mỹ kim không ngừng phải điều chỉnh hạ giá trên thị trường chính thức cũng như thị trường tự do hay đen. Ngày 11.02.2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phá giá đồng Việt Nam 9,3% so với mỹ kim, tức cần phải có 20.693 đồng, thay vì 18.932 trước đó, để đổi lấy một mỹ kim. Đây là lần phá giá thứ tư trong 15 tháng qua, với khoảng giảm 20% tỷ giá trước đó.
d.- Thâm hụt ngân sách quốc gia. Nhà nước Việt Nam dùng tiền thuế người dân đóng, bán dầu thô, viện trợ và vay nước ngoài để đầu tư vào các doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu quả nên bị thua lỗ. Do đó, sự tăng trưởng kinh tế cao theo chỉ thị của Cộng đảng đã phải trả một giá rất đắc đỏ, được đo lường bởi ‘hiệu quả đầu tư của một quốc gia’, tức hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) mà các chuyên gia thường dùng để tính bằng: tổng số vốn đầu tư chia cho tổng số tăng trưởng Tổng sản lượng nội địa (TSLNĐ). Theo phương pháp tính này, tăng trưởng TSLNĐ càng cao thì hệ số ICOR càng nhỏ. Năm 2007, Việt Nam có hệ số ICOR là 5,2; năm 2008 là 6,66 và năm 2009 là 8. Những con số vừa nêu là minh chứng hiệu quả đầu tư tại Việt Nam càng ngày càng xấu đi: năm 2007, Việt Nam cần 5,2 đồng vốn đầu tư để đạt được 1 đồng TSLNĐ và năm 2009, phải cần đến 8 đồng để đạt được 1 đồng TSLNĐ…
Hậu quả của sự thâm hụt này là:
- Nhà nước buộc phải vay thêm nợ. Nếu vay được nợ của người dân thì vấn đề tương đối không nghiêm trọng, vì tiền lưu chuyển trong nội địa nền kinh tế, nhưng tiền lãi nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước.
- Trường hợp nghiêm trọng hơn là khi Nhà nước cho in tiền để chi xài. Sự thâm hụt Ngân sách Nhà nước năm 2010 được Quốc hội quyết định là 119.700 tỷ đồng, bằng 6,2% TSLNĐ, trên cơ sở đánh giá thu, chi nêu trên, số bội chi Ngân sách dự kiến còn là 5,8% TSLNĐ, tức giảm 0,4% TSLNĐ so với mức Quốc hội đã định.
(Còn tiếp)