“Chúa Giêsu là Linh Mục theo nghĩa nào”

Vatican: Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI vào ngày thứ Năm 3 tháng 6, trước khi đi kiệu Thánh Thể tổ chức trong lễ trọng Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.

Đức Giáo Hoàng chủ sự Thánh Lễ trong sân Vương Cung Thánh Gioan Lateran, và cuộc kiệu theo con đường Merulana và kết thúc tại Vương Cung Đức Bà Cả. Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ.

* * *

Anh Chị Em thân mến!

Chức Linh Mục Tân Ước ràng buộc chặt chẽ với Thánh Thể. Vì lý do này, hôm nay, trong lễ trọng Mình Thánh Chúa và gần cuối Năm Linh Mục, chúng ta được mời suy gẫm mối tương quan giữa Thánh Thể và chức linh mục của Chúa Kitô. Cũng theo chiều hướng này, bài đọc thứ nhất và thánh vịnh đáp ca. biểu lộ gương mặt của Menkisêđê.

Đoạn ngắn từ Sách Sáng Thế (x. 14:18-20) nói rằng Menkisêđê, vua thành Salem, là “linh mục của Thiên Chúa Tối Cao,” và vì ông dâng “bánh và rượu” và “chúc phúc Abraham,” khi ông này trở về từ một chiến thắng trong trận chiến; Ông Abraham biếu ông một phần mười tất cả chiến lợi phẩm. Tới phiên mình, Thánh Vịnh chứa đựng trong câu cuối một kiểu nói long trọng, một lời thề của chính Chúa, Đấng công bố với Vua Messiah: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkisêđê” (Tv 110:4); như vậy Đấng Messiah không những được tuyên bố là vua, mà còn là linh mục.

Từ đọan này tác giả Thơ gởi tín hữu Do Thái rút ra cốt lõi cho sự trình bày rộng lớn và liên tiếp của ngài. Và chúng ta tái hồi âm sự đó trong câu điệp khúc: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế, lạy Chúa Kitô”; hầu như là một sự xưng đức tin, có một ý nghĩa đặc biệt trong lễ hôm nay. Đó là niềm vui của cộng đồng, niềm vui của toàn thể Giáo Hội, khi chiêm ngắm và thờ lạy Bí Tích Chí Thánh, nhận thấy trong đó sự hiện diện thật và vĩnh viễn của Chúa Giêsu như là Linh Mục Thượng Phẩm Đời Đời.

Bài đọc hai và bài Tin Mừng, ngược lại, lôi kéo sự chú ý tới mầu nhiệm Thánh Thể. Thơ thứ nhất gởi tín hữu Côrintô (x. 11:23-26) đề cập đoạn cơ bản trong đó Thánh Phaolô nhắc lại cho cộng đồng này ý nghĩa và giá trị của “Bữa Tiệc của Chúa,” mà Tông Đồ truyền lại và dạy, nhưng có nguy cơ bị mất. Bài Tin Mừng tường thuật phép lạ hóa bánh và cá. Theo Thánh Luca: một dấu chỉ được tất cả các tác giả Tin Mừng chứng minh, dấu đó báo trước quà tặng Chúa kitô sẽ thực hiện về chính mình, là ban cho nhân loại sự sống đời đời.

Cả 2 bản văn này đề cao sự cầu nguyện của Chúa Kitô, khi bẻ bánh. Dĩ nhiên có một sự khác biệt rõ rệt giữa hai lúc: Khi hóa bánh và cá ra nhiều cho dân chúng, Chúa Giêsu tạ ơn Cha trên trời vì sự Quan Phòng của Người, tin tưởng Người không để thiếu của ăn cho tất cả những người này. Trong bữa Tiệc Cuối, ngược lại, Chúa Giêsu biến bánh và rượu trở nên Mình và Máu Người, hầu các môn đệ có thể nuôi mình nhờ Người và sống trong sự hiệp thông sâu sắc và thật sự với Người.

Sự thứ nhất chúng ta phải nhớ là Chúa Giêsu không phải là một linh mục theo truyền thống Do Thái. Gia đình của Người không phải là một gia đình linh mục. Người không thuộc dòng dõi Aaron, nhưng đúng hơn dòng dỏi Judah; do đó, theo pháp lý, Người bị ngăn ngừa khỏi con đường tới chức linh mục. Con người và hoạt động của Chúa Giêsu thành Nadareth không được đặt trong hàng ngũ các linh mục xưa, nhưng đúng hơn trong hàng ngũ các tiên tri.

Và trong hàng ngũ này, Chúa Giêsu lánh xa quan niệm nghi thức tôn giáo, Người phê bình phương pháp đánh giá những luật nhân bản liên kết với sự nghi thức hơn là tuân giữ các điều răn Chúa, đó là, tình yêu Chúa và tha nhân, mà như Tin Mừng nói, “qúi hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:33).- Cả trong Đền Thờ Jerusalem, nơi thánh hoàn hảo, Chúa Giêsu thực hiện một cử chỉ tiên tri tuyệt diệu, khi Người xô đuổi những kẻ đổi tiền và buôn bán súc vật, tất cả những sự này phục vụ việc dâng những hy lễ truyền thống. Do đó, Chúa Giêsu không được thừa nhận là một Messiah linh mục, nhưng là Messiah tiên tri và vương giả. Cũng vậy, sự chết của Người, mà chúng ta những Kitô hữu gọi “hy lễ,” không có gì thuộc những hy lễ xưa; đúng hơn, là hoàn toàn đối nghịch: việc thi hành án tử qua sự đóng đinh, án ô nhục nhất, xảy ra ngoài những bức tường Jerusalem.

Bây giờ, Chúa Giêsu là linh mục theo nghĩa nào? Thánh Thể nói điều này. Chúng ta có thể bắt đầu từ những lời đơn sơ này diễn tả ông Menkisêđê: “ ông dâng bánh và rượu” (St 14:18). Đó là sự Chúa Giêsu làm trong bữa Tiệc Cuối: Người dâng bánh và rượu, và trong cử chỉ này Người tóm kết tất cả của Người và tất cả sứ vụ của Người. Trong hành vi này, trong sự cầu nguyện đi trước đó và trong những lời đồng hành sự đó, có tất cả ý nghĩa mầu nhiệm Chúa Kitô, như được diễn tả trong Thơ tín hữu Do Thái trong một đoạn quyết định, cần phải trích dẫn. “Khi còn sống kiếp phàm nhân,” tác gỉa viết qui chiếu về Chúa Giêsu, “ Chúa Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. và Người được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, và Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Menkisêđê” ( 5:7-10).

Trong bản văn này, rõ ràng ám chỉ sự hấp hối thiêng liêng tại vườn Giệtsêmani, sự thương khó của Chúa Kitô được trình bày như một kinh nguyện và một sự dâng lễ. Chúa Giêsu đối mặt “giờ’ của Người, dẫn Người tới sự chết trên thánh giá, đang khi chìm ngập trong một sự cầu nguyện thâm sâu, hệ tại sự kết hợp ý muôn của Người với ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn nhân đôi và duy nhất này là một ý muốn tình yêu. Được sống trong sự cầu nguyện này, cơn thử thách thê thảm Chúa Giêsu đối mặt biến thành lễ phẩm, thành hy lễ sống động.

Thơ gởi tín hữu Do Thái nói rằng Chúa Giêsu “được nhậm lời.” Theo nghĩa nào ? Theo nghĩa là Chúa Cha cứu Người khỏi chết và phục sinh Người. Người được nhận lời chính xác vì sự từ bỏ hoàn toàn của Người để theo Ý Chúa Cha: Chương trình tình yêu của Chúa có thể được hoàn thành trong Chúa Giêsu, Đấng, đã vâng lời cho tới điểm cuối cùng là chết trên thánh giá, trở thành “nguyên nhân cứu độ” cho tất cả những ai vâng lời Người. Tức là Người trở thành Thượng Tế vì đã gánh lấy tất cả tội lỗi thế giới, như “Con Chiên Thiên chúa.” Chúa Cha ban cho Người chức linh mục này chính lúc Chúa Giêsu đi qua sự chết và phục sinh của Người. Đó không phải là chức linh mục theo phẩm trật Luật Moisen (x. Lêvi 8-9), nhưng “theo phẩm trật Menkisêđê” theo môt phẩm trật tiên tri, chỉ tùy thuộc vào tương quan đặc biệt với Chúa.

Chúng ta hãy trở lại kiểu nói trong Thơ gởi tín hữu Do Thái: “Mặc dầu người là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Chức linh mục của Chúa Kitô lôi kéo theo sự đau khổ, và Người làm như vậy là vì chúng ta. Người là người Con và không cần học vâng phục với Chúa, nhưng chúng ta thì phải học, chúng ta đã cần và luôn luôn cần. Vì lẽ này, Người Con mặc lấy nhân tính chúng ta và vì chúng ta “chịu giáo dục trong thử thách đau khổ, Người để mình biến đổi bởi đau khổ, như hột lúa mì muốn sinh trái phải mục nát đi dưới đất.”

Nhờ thủ tục này Chúa Giêsu “nên trọn lành,” trong tiếng Hy lạp “teleiotheis.” Chúng ta phải suy nghĩ về từ ngữ này vì nó rất có ý nghĩa. Nó chỉ sự hoàn thành một cuộc hành trình, tức là, chính cuộc hành trình giáo dục và sự biến đổi của người Con Thiên Chúa qua sự đau khổ, qua sự Thương Khó đầy đau thương. Và nhờ sự biến đổi này Chúa Giêsu Kitô trở thành “Linh Mục Thượng Phẩm” và có thể cứu chuộc tất cả những kẻ phó mình cho Người.

Từ ngữ “teleiotheis, “dịch cho đúng là “nên trọn lành,” thuộc về một gốc động tự mà, trong bản dịch Hy Lạp sách Ngũ Thư, tức là năm quyển đầu Cựu Ước, luôn luôn được dùng để chỉ sự hiến thánh các linh mục xưa. Sự khám phá này rất quí báu, bởi vì nó nói với chúng ta rằng sự Thương Khó đối với Chúa Giêsu là một sự hiến thánh linh mục. Người không phải là một linh mục theo Luật, nhưng Người cơ bản trờ thành là vậy trong sự Thương Khó, sự Chết và sự Phục Sinh của Người: Người hiến mình đền tội và Chúa Cha, nâng cao Người trên mọi tạo vật, đặt Người làm kẻ Trung Gian Phổ Quát của sự cứu độ.

Chúng ta trở lại, trong bài suy niệm của chúng ta, tới Thánh Thể, trong chốc lát sẽ thành trung tâm cuộc hợp phụng vụ của chúng ta và của sự rước kiệu trọng thể tiếp theo. Trong đó Chúa Giêsu báo trước hy lễ của Người, không phải là một hy lễ nghi thức nhưng là một hy lễ cá nhân. Trong Bữa Tiệc Cuối Người hành động do thúc đẩy bởi “ Thần Khí Đời Đời”, với Thần Khi này sau đó Người sẽ hiến mình trên Thánh Giá (x. Dt 9:14). Khi tạ ơn và với một sự chúc tụng, Chúa Giêsu biến đổi bánh và rượu. Đó là tình yêu thần linh biến đổi: tình yêu mà Chúa Giêsu chấp nhận trước hầu hiến mình trọn vẹn cho chúng ta. Tình yêu này không là ai khác ngoài Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Cha và của Con, tình yêu hiến thánh bánh và rượu và thay đổi bản chất của chúng thành Mình và Máu Chúa, làm thành hiện diện trong Bí Tích cũng một hy lễ được thực hiện sau đó một cách đổ máu trên thánh giá.

Chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Kitô là một linh mục thật sự và đang tồn tại bởi vì Người đầy quyến năng Chúa Thánh Thần, Người là sự kết thúc cuối cùng của tất cả sự viên mãn tình yêu của Chúa “trong đêm Người bị nộp,” chính trong “giờ đen tối (x.Luke 22:53). Chính quyền năng thần linh này, cũng một quyền năng thần linh mang lại sự Nhập Thể Ngôi Lời, biến đổi sự bạo động quá khích và sự bất công quá khích [thuộc sự chết của Người] thành một hành vi tình yêu và sự công chinh cao nhất.

Đó là công trình thuộc chức linh mục của Chúa Kitô, mà Giáo Hội thừa hưởng và tiếp tục kéo dài mãi mãi, trong hai hình thức chức linh mục bình thường của kẻ được rửa tội và chức linh mục của những thừa tác viên được phong, hầu biến hình thế giới với tình yêu của Chúa. Tất cả, các linh mục và tín hữu, được nuôi dưỡng bởi cũng một Thánh Thể, tất cả chúng ta sấp mình thờ lạy Thánh Thể, bởi vì Thầy và Chúa chúng ta hiện diện trong Thánh Thể, hiện diện trong Mình thật của Chúa Giêsu, là Vật Hy Sinh và Linh Mục, là sự cứu độ thế giới. Hãy đến, chúng ta hãy nhảy mừng với những bài ca và niềm vui. Hãy đến, chúng ta hãy thờ lạy! Amen.