Nói đến hàng xóm, ai cũng có câu chuyện kể về hàng xóm. Người may mắn là người có hàng xóm tốt bụng. Hàng xóm tốt coi sóc nhà hàng xóm như của chính mình. Hàng xóm tốt giả hình là người ngày đêm rình rập nhà người với mục đích riêng. Sau năm 1975 có nhiều chuyện kể về người hàng xóm. Sống nơi xóm làng chuyện đôi co giữa hàng xóm nhỏ bằng con gà, lớn hơn là con lợn và đôi khi to bằng con trâu. Gà nhà bà sang vườn nhà tôi. Lợn nhà bác ủi sạch luống rau sau nhà. Trâu nhà bác ăn lúa nhà tôi. Tất cả đều là những chuyện nhỏ được nuôi dưỡng trở thành chuyện lớn.

Hàng xóm cũng là người đầu tiên đến giúp đỡ, ủi an khi gia đình gặp tai biến. Hàng xóm cũng là người khiêng người thân mình ra nghĩa trang. Thông thường chúng ta coi hàng xóm là những người sống gần nhà mình, cùng trong xóm ngõ. Theo đó í nghĩa hàng xóm giới hạn đến độ người chung chuyến xe với mình từ quê ra tỉnh không phải là hàng xóm, người ngồi đợi đến lượt hớt tóc không phải là hàng xóm. Dụ ngôn người Samaritanô cho biết Đức Kitô muốn thay đổi quan niệm giới hạn về hàng xóm. Theo Ngài, mọi người đều là hàng xóm. Đã là con người, dù xấu tốt, cùng lí tưởng hay khác chính kiến, người đó cũng là hàng xóm. Đức Kitô dậy: 'Yêu Chúa hết sức mình... và yêu tha nhân như chính mình' Lc 10,27. Nghe thế có người luật gia hỏi Đức Kitô, xin Ngài nói rõ hơn 'Ai là người hàng xóm? c.29'.

Đức Kitô kể dụ ngôn một người đi đường bị cướp, còn bị đánh đập gần chết, để nằm dọc đường. Thầy Tư Tế đi qua lối đó, ông tránh sang một bên. Thầy Lêvi cũng trông thấy nhưng cũng tránh sang một bên. Cả hai đều không giúp nạn nhân. Người thương buôn thành Samaritanô trông thấy, ông ta xuống băng bó và gởi vào nhà trọ gần bên. Ông trả tiền cho chủ nhà trọ và hứa khi xong việc nếu còn thiếu ông sẽ trả thêm. Đức Kitô hỏi người luật gia, trong ba người ấy ai là người hàng xóm? (c.37). Người luật gia đáp người Samaritanô. Đức Kitô bảo ông. Đúng thế anh hãy đi và làm như vậy. Dụ ngôn cho biết người Samaritanô lần đầu tiên gặp nạn nhân và ông động lòng thương ra tay giúp đỡ, coi người đó như hàng xóm, bất kể người đó xấu tốt ra sao. Lòng nhân ái, thương người của ông vượt qua ngôn ngữ, màu da, phái tính và ngay cả quá khứ của nạn nhân. Câu chuyện cho biết tất cả đều là hàng xóm. Thầy Tư Tế, thầy Lêvi, và ngay cả bọn cướp đều là người hàng xóm. Thầy Tư Tế và thầy Lêvi là những người hàng xóm coi trọng luật, Họ cố gắng giữ mình khỏi bị ô uế khi chạm vào bệnh nhân mình mẩy bê bết máu. Vì lí do đó mà cả hai đều tránh sang một bên không giúp đỡ nạn nhân. Bọn cướp là hàng xóm rình rập, chỉ biết đến lợi nhuận, coi tiền bạc trọng hơn mạng sống người khác. Người Samaritanô là người có lòng thương tha nhân như chính mình và ông ta là mẫu người hàng xóm mà Đức Kitô kêu gọi mọi người sống theo hành động bác ái đó. 'Yêu người như yêu ta'.

Dụ ngôn người Samaritanô còn dậy khôn về cách xử dụng tiền bạc, của cải. Không đủ tiền để sống chính mình là nạn nhân; khi tiền bạc dư giả người khác là nạn nhân. Nhan nhản trong xã hội khi thành công gia đình tan rã, ăn chơi, lên mặt dậy đời, ra lệnh cho người này, sai bảo kẻ nọ làm điều sai trái. Dùng tiền bạc hối lộ xuyên tạc sự thật, dùng quyền thế bao che hành vị tội ác. Người Samaritanô hành xử hoàn toàn khác, ông dùng tiền bạc của mình để cứu người. Ông không mong nạn nhân trả lại. Ông không mong chủ nhà trọ giảm giá. Ông ước mong nạn nhân được chăm sóc chu đáo vì thế ông hứa khi xong việc nếu cần phải trả thêm phí tổn ông sẵn sàng. Điều này chứng tỏ ông coi mạng sống con người trọng hơn tiền bạc. Ông dùng tiền một cách khôn ngoan, dùng tiền bảo vệ sự sống. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết cách xử dụng của cải Chúa ban cách khôn ngoan.

Trên phương diện lớn hơn, phương diện quốc gia. Nếu lãnh tụ các quốc gia trên thế giới học được bài học này, sống theo phong cách của người thành Samaritanô, chắc chắn sẽ không có chiến tranh biên giới, sẽ không có tranh chấp Biển Đông, sẽ không có đặc khu kinh tế, sẽ không có chạy đua vũ khí. Như thế tiền thay vì dùng vào việc chế tạo, chạy đua vũ khí, hoả tiễn đầu đạn nguyên tử, tầu ngầm, máy bay tàng hình, được chuyển vào quĩ giáo dục, bệnh viện và cứu đói sẽ dồi dào, do đó đời sống dân nghèo sẽ thoải mái, thảnh thơi hơn cuộc sống hiện tại.

TiengChuong.org

Neighbours

When talking about neighbours, everyone has a story to tell. It is a blessing to have a good neighbour, because your house is secured better than any commercial security company can provide. Others know very little about their next door neighbours. Others again, lament something like: 'it is horrible to know that my next door neighbour is a criminal or a terrorist and I knew nothing about it'. It is the benefit of the unknown, otherwise they'd live in fear all the time. The common understanding of neighbours includes people who live on our right or left, and at the back or opposite of our property. We may extend it to people either seated next to us at public places or public events. When we see victims on a road side we may show some concern for them, but certainly we don't count them as our neighbours.

Our concept of neighbouring is very limited. The biblical teaching about neighbouring is for everyone: 'Love your God with all your heart .... and your neighbour as yourself'. Lk 10,27 . When a lawyer asked Jesus 'who is our neighbour?(v.29). Jesus gave a concrete example; He told the parable of a man, who happened to be beaten by the bandits, who left him half-dead on the road. Both the priest and the Levite saw the victim, but neither of them helped the man. A Samaritan saw him. He anointed and bandaged the victim, and entrusted the man to the inn keeper nearby. He covered the expenses, and promised to give extra on his way back from business. After telling the parable, Jesus asked the lawyer: 'Which of these three, do you think, proved himself a neighbour to the man who fell into the brigands' hands?'(v.37). The Samaritan proved to be a neighbour of the victim. In this context, a neighbour is a stranger, a victim, whom the Samaritan met for the first time on his way to do business. He made no distinction of personal background, occupation or race. The lawyer's answer identified the Samaritan. It didn't mean the priest, the Levite, and even the bandits, weren't qualified to be neighbours of the victim. They were all neighbours, but the Samaritan was best suited to the concept of neighbouring Jesus was teaching: 'love your neighbour as yourself'. The Samaritan loved the victim as himself. The others loved themselves more and loved the neighbour less. The Samaritan was a good neighbour who showed his compassion for those in need; the bandits were criminal (or bad neighbours) and they loved money more than life, and had no trouble in violating the rights of others just because of their greed for money. The priest and Levite were neighbours who showed more concern for keeping the law of purity than for the life of the victim on the road.

There is wisdom in learning about the use of money. When we have little money, we are in trouble; when we have too much of it, others are in trouble. The Samaritan showed that money couldn't control him, but rather he was in control of his money. We pray for that wisdom.

At the national level, we have problems with our neighbouring countries. The Arms race means we strive constantly to protect our borders from invasion by neighbouring countries. If world leaders took heed of Jesus' teaching about the concept of neighbouring, there would be plenty of extra money for spending on education, and hospital services.