Chuyện Ông Tư Dì Tư: Chữ tài chữ tâm


Ông Tư Dì Tư là một cặp vợ chồng định cư tại Little Saigon từ sau những ngày năm 75. Dì Tư tham gia Hội Legio ở giáo xứ Việt Nam tại Quận Cam. Ta nói ông Tư hồi xưa học trường Tây, răng bịt vàng, tóc chải láng o vuốt ngược, người trong thôn gọi cậu Tư Cường, con trai độc nhất của điền chủ Bạc Liêu, người của mấy tổng gọi ông Chủ Hào...

Họp Hội Legio về tới nhà, dì Tư có vẻ không vui. Mặt dì chầm bầm như bọ hung, chân tay tuồng như bứt rứt đứng ngồi không yên. Thoạt tiên dì đi từ nhà bếp lên phòng khách, rồi từ phòng khách đi ra ngoài sân, rồi từ sân nhà lại đi giáp một vòng vào lại trong nhà bếp. Cứ thế, dì vòng vòng xoay vần như con vụ của con nít chơi… Ông Tư ngồi trong phòng khách uống trà, dì cũng như không nhìn thấy. Nhận ra thái độ lạ kỳ của vợ, ông Tư ướm hỏi,

— Bà hôm nay làm sao lại cập rập đi tới đi lui như vậy?

Dì Tư nhìn chồng, nửa như muốn nói nửa như không. Biết tính vợ, ông Tư dừng lại chung trà,

— Bà có chuyện chi muốn nói phải không?

Được chồng mở lời, dì Tư thôi không xoay tròn con vụ,

— Ông thiệt là người tinh ý, bởi tui có điều muốn nói, nhưng vẫn không biết phải nói ra sao, nói như thế nào?

Ông Tư dò hỏi,

— Bà hôm nay hơi lạ đó nghen. Có chuyện chi thì cứ nói. Sao lại rào trước đón sau cẩn thận như vậy? Vợ chồng đầu ấp tay gối bao nhiêu năm nay sanh ra mấy mặt con rồi, cháu chắt có đứa cao trội như cây sào cắt cau, sao khi không giờ lại tự nhiên mần tuồng khách lạ với tui như vậy?

Dì Tư chép miệng,

— Thì ai lại không biết là vợ chồng mình mấy chục năm nay thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn. Nhưng tui không muốn hấp tấp không đầu không đuôi, người ngoài nghe được người ta cười. Mà cười tui thì cũng không sao, nhưng người ta đụng chạm tới ông, thì thiệt bụng là tui không chịu. Dầu sao đi nữa ông cũng là người có ăn có học, chữ nghĩa một bụng, vừa có danh lại vừa có phận…

…Mà nghĩ cho cùng, dì Tư cũng có cái lý của dì, bởi thời đó, cái thời dì còn đang là một thiếu nữ tuổi mười tám, thì ông Tư thuả đó đang là thanh niên tây học từ thành phố về quê nghỉ hè. Cô Thoan khi đó đã nghe tiếng cậu Tư Cường, con trai độc nhất của ông Hội Đồng Hương trong thôn làng từ lâu lắm rồi. Thiếu nữ trong xóm, ai mà lại không mơ ước được nâng khăn sửa túi cho cậu Tư Cường, con trai độc nhất của điền chủ kiêm chủ buôn xe hơi trên Sài Gòn. Thoảng đôi ba lần, cô Thoan nhìn thấy cậu Tư đi ngang qua cửa nhà; dáng cậu Tư cao thanh tú, tóc chải keo láng o, vuốt ngược lên trên vầng trán cao thông minh, đôi lông mày thanh tú với hàm răng trắng đều điểm hai cái răng bịt vàng chóe sáng ngớ ngẩn bao nhiêu cô gái trong làng khi cậu Tư nở nụ cười. Biết phận mình, cô Thoan không nghĩ tới chuyện hồn bướm mơ tiên, guốc mộc mà so với hài cườm. Nhưng ngày hôm đó, một buổi chiều nóng bức, cô Thoan vừa tắm xong, mái tóc dài còn ướt sũng nước. Phần nóng bức, phần tóc ướt, cô Thoan bước ra hiên nhà, đứng ẩn mình sau bụi tre hong khô tóc. Trời chiều, gió mát từ ruộng lúa kéo về thổi bay tung tóe những sợi tóc thơm mùi bồ kết lá chanh của cô Thoan. Cô Thoan nhìn xa xa lơ đãng tìm kiếm bóng dáng song thân trên cánh đồng cò bay thẳng cánh của ông Hội Đồng. Thiệt là bất ngờ cậu Tư Cường xuất hiện ngay trên đường làng. Nhận ra bóng dáng con ông chủ điền, cô Thoan muốn lánh mặt. Nhưng đã quá trễ, bởi cậu Tư Cường đã bước tới ngay trước sân nhà. Cô Thoan cố gắng thu nhỏ dấu mình nấp sau những nhánh tre xanh…

Đang bước tới những bước chân đều đặn, bất ngờ cậu Tư quay ngang nhìn, ánh mắt chiếu thẳng vào bụi tre rậm rạp nơi cô Thoan đang núp. Bốn cặp mắt đụng nhau. Cô Thoan e lệ cúi xuống nhìn nền đất đen, bàn tay bám vào cành tre khẳng khiu. Nhận ra cô con gái bẽn lẽn đứng dấu mình bên bụi tre, tới phiên cậu Tư Cường trở nên tượng muối. Cậu Tư lặng im, cặp mắt đăm đăm nhìn vào một khoảng không gian nơi cô Thoan đang đứng. Trước tình huống bất ngờ, cô Thoan lặng người, rồi cắm đầu bỏ chạy thẳng vào trong nhà, đôi bàn chân líu ríu vướng víu cuống quýt đan vào nhau. Chỉ là một sân đất trơ dài năm thước, mà sao cô Thoan thấy đất gò chông chênh xa vời vợi. Nhưng rồi cũng tới cánh cửa nan tre, cô đưa hai tay hấp tấp cài lại then cửa. Vội vã chạy xuống nhà bếp, cô Thoan mở vung nồi cơm đã chín, rồi ngớ ngẩn đóng nắp nồi cơm lại. Cô chầm chậm bước chân lên nhà, hai tay ôm má, len lén nhìn qua khung cửa sổ. Ngoài đường, cậu Tư vẫn đang tiếp tục như người mất hồn ngớ ngẩn nhìn thẳng vào bụi tre. Cô Thoan hồi hộp, tay ôm ngực, rón rén đi về lại nhà bếp. Ngồi xuống trước bếp lửa chỉ còn trơ lại tro than âm ỉ, cô nghe được tiếng tim đập thình thịch và hơi thở của chính mình vang dội trong một khoảng không gian tĩnh mịch của gian nhà bếp.

Một tháng sau, đám cưới con trai ông Hội Đồng Hương tưng bừng pháo đỏ với cô dâu Thoan e ấp bước lên xe hơi về nhà chồng. Hồi đó có nhiều tiếng đồn nói cô Thoan lên núi Tà Lơn mua bùa yêu ểm con trai ông Hội Đồng, chứ ở đâu tự nhiên lại lòi ra tuồng đỉa bám dính chân hạc. Lời đồn bay tới tai, cô Thoan không buồn phiền, không giận hờn. Cô hồi hộp nhớ lại cuộc tương ngộ bất ngờ bên bụi tre. Cô Thoan vẫn không hiểu lý do tại sao cậu Tư lại lậm tình si mê một người thôn nữ không danh phận như mình. Nhưng cô Thoan chưa bao giờ hỏi, mà cậu Tư Cường cũng chưa bao giờ hé miệng nói với vợ chuyện này…


Thấy ông Tư yên lặng, vẻ chờ đợi, dì Tư đưa vào miệng miếng trầu cay, chậm rãi nói,

— Chiện là như thế này. Ông cũng biết gia đình tui không phải gia đình có chức tước, có địa vị, có của ăn của để trong làng. Tía má tui cũng chỉ ngày ngày cày thuê cấy mướn cho người trong thôn. Cho nên tui không học nhiều, chữ nghĩa chưa đong đầy bằng cái lá bình bát. Thiệt tình mà nói, nhiều khi tui cũng muốn được như ông, học hành cho nở mặt rỡ ràng với bà con thiên hạ lối xóm. Tiếng tây tiếng u cũng rổn rảng rộn ràng như ông vậy. Như thế, có đi ra ngoài cũng không thua chị kém em. Nhưng số tui số con nhà nghèo, học hành chữ nghĩa chẳng được bao nhiêu.

Dì Tư phân bua,

— Ông còn lạ chi. Vợ chồng mình ở Mỹ bao nhiêu năm rồi. Mà tên mấy cái tiểu bang tui nói còn chưa thông. Cái tiểu bang chi đó…

Dì Tư chép miệng,

— Cái tên chi mà tui cứ đọc sai hoài? Ông sửa bao nhiêu lần rồi mà cái đầu nó cứ xụi lơ cứng đơ, nhớ trước quên sau. Cái chi mà in tuồng như là…là… tiểu bang “Cô ló đầu ra”! Có đúng không ông?

Ông Tư cười,

— Tiểu bang Colorado.

— Đó, đó, cái tên người ta là Colorado, mà tui cứ đọc sai hoài, sửa tới sửa lui. Rồi thêm cái tiểu bang chi tui quen miệng cứ đọc trợt ra tiểu bang “Mỹ nó sợ ta”. Thiệt tình! Tui thấy có cái chi không ổn ở đây. Mình đang ở bên Mỹ, nếu phải nói sợ, thì mình sợ Mỹ, chứ ở đâu lại lòi ra cái tuồng diều hâu trên trời mà sợ gà con lẹt đẹt dưới đất. Rồi lại thêm cái tiểu bang chi đọc giống như “Heo quay”. Không biết ở đó có heo quay thật hay không, mà tui cứ te te uốn lưỡi đọc ra heo quay. Mà hễ mở miệng trợt chân một cái là người chung quanh bụm miệng cười khiến tui sượng sùng, quê một cục...

Dường như đã hiểu chuyện, ông Tư nhẩn nha ngồi xuống, lưng dựa vào thành ghế, một tay đưa ra mời gọi,

— Bà, bà ngồi xuống ghế. Mần chi mà cứ đứng riết, bắt tui đứng theo như học trò gặp thầy đồ khiến tui mỏi chân lắm rồi. Bà ngồi xuống ghế đi. Tui cũng có câu chuyện muốn tâm sự với bà.

Đợi dì Tư ngồi hẳn xuống ghế, miệng nhai bỏm bẻm miếng trầu đỏ tươi, ông Tư mới cầm ống vố lên tay, điệu bộ thong thả nhưng giọng ông sắc gọn,

— Từ ngày tui với bà trở nên vợ chồng, có bao giờ tui ỉ thế có danh phận rồi tui coi thường bà hay chưa? Bà cứ thiệt tình nói đi.

— Tui hiểu. Tui biết…

— Khoan, khoan! Bà cứ trả lời tui đi, một tiếng thôi, tiếng sắt hoặc tiếng vàng, tiếng có hoặc tiếng không.

Thấy điệu bộ dứt khoát của chồng, dì Tư lắc đầu,

— Chưa! Tui biết ông đâu phải con người như vậy.

— Nếu vậy, vợ chồng mình ở với nhau bao nhiêu năm rồi, tui tưởng bà phải biết tánh tôi chứ. Tôi đâu phải rau muống rỗng ruột vô tâm, ăn ở vô nghì, tham phú phụ bần.

Ông Tư đưa lên miệng ống thuốc vố, rồi lại bỏ xuống. Yên lặng trong vòng một giây, ông Tư đưa lên miệng chung trà,

— Thiên hạ ưa trọng người có quyền thế, có kiến thức, có danh phận. Nói chuyện với nhau người ta ưa lôi bằng cấp ra như một cái thước đo để thẩm định giá trị một người.

Ông Tư hưỡn đãi,

— Đó cũng là lẽ thường tình nhân gian. Làm sao mình đi ngược lại được với con nước của con sông cái lạch?

Ông Tư chép miệng,

— Nhưng tui thấy con người không phải chỉ là bằng cấp, hoặc danh phận, hoặc là kiến thức, hoặc nói theo kiểu của bà là rổn rảng rộn ràng tiếng tây tiếng u. Bà còn nhớ cái thời Đồng Minh và phe Trục đánh nhau, thời có cái máy bay Nhật bị phe Đồng Minh bắn rớt xuống cánh đồng của xóm, người trong thôn rần rần kéo nhau đi coi, bà còn nhớ không?

Dì Tư gật đầu,

— Nhớ chứ! Buổi chiều hôm đó cái máy bay Nhật cắm đầu đâm thẳng xuống ruộng thím Tám nổ tung. Bữa đó tui cũng chạy te te ra ngoài ruộng đứng coi. Chuyện đó làm sao tui quên cho được.

Ông Tư giải thích,

— Phe Trục của Nhật hồi đó còn có Hittler. Mà nhắc tới tên người này thì thiệt là ai tranh bá vương, ai tranh thiên hạ tài giỏi cho bằng. Nhưng người này có nhiều tài mà lại vô tâm như rau muống. Cho nên bao nhiêu triệu triệu nấm mộ đã chất gò chất đống, bởi sự xuất hiện của một người tài nhưng lại vô tâm như Hitler.

Ông Tư chỉ lên tấm hình của Mẹ Têrêsa treo trong phòng khách,

— Tuy nhiên trái đất này không phải chỉ có Hittler, nhưng còn có Mẹ Têrêsa, một người tầm thường mà lại dư thừa một trái tim để chữa lành vết thương do người vô tâm tạo ra. Mẹ Têrêsa có đậu bằng cấp gì đâu, nhưng mẹ lại có nguyên vẹn cả một tâm hồn. Tui nhớ chuyện kể có người hành khất ghẻ lở đầy mình, ngày ngày sống lăn lóc trên những con phố què cụt Ấn Độ. Khi gặp người ăn mày, Mẹ Têrêsa mang ông ta về nhà băng bó vết thương, đổ cháo đổ thuốc cho người bất hạnh. Sau cùng người hành khất cũng qua đời. Nhưng trước khi lìa trần, ông ta nói, “Tôi đã từng sống trên những con đường phố như một con thú, nhưng tôi đã được săn sóc, và giờ đây nhắm mắt lại chết đi như một con người”.

Ông Tư tiếp tục,

— Cụ Nguyễn Du cũng nói, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Một người có tâm thương yêu, sở hữu một trái tim nhân hậu, thì người này bằng cả ba người có dư thừa tài năng cộng lại.

Ông Tư miệng cười móm mém,

— Bởi bà nói, tui mới nhắc lại câu chuyện hồi xưa. Mà chuyện này tình thiệt là tui cũng chưa bao giờ tâm sự với ai. Hồi đó, ba má, theo lời năn nỉ của tui, sai ngươi tới gặp tía má đặt trầu cau xin hỏi bà làm con dâu. Hồi đó có người đồn tui ăn phải bùa trên núi Tà Lơn cho nên lậm tình. Nhưng tui nhớ in tuồng sau lần nhìn thấy bà đang đứng bên bụi tre hong tóc, tui đi về nhà hỏi han bà con làng xóm trong thôn, ai ai cũng nói trong làng có cô thôn nữ vừa nết na lại vừa nhân hậu, vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, hành khất bước vào nhà cô này, không bao giờ bước ra với hai bàn tay không…

Ông Tư kết luận,

— Bà cũng biết tui đâu phải là hạng người vọc nước giỡn trăng. Tui may mắn được ba má cho đi ăn học trên Sài Gòn, nhưng ba má vẫn dậy tui làm người phải có cái tâm. Đừng tham phú phụ bần. Đừng ham tốt nước sơn nhưng lại mục nước gỗ. Ba má ăn hiền ở lành cho nên phước đức run rủi khiến tui gặp người vừa đẹp nước sơn vừa tốt nước gỗ, lại vừa có cái tâm. Tui hỏi bà, nếu vậy, mần chi mà tui không chạy về nhà năn nỉ ba má nhờ người mai mối mang trầu cau sang xin gặp tía má ở bển.

Ông Tư nhỏ nhẹ,

— Bà không biết đọc tin tức, không nghe được đài Mỹ, thì hỏi tui, tui nói cho bà nghe. Mà nếu nói không đúng, thì tui giúp bà sửa lại, nói cho đúng. Có “chiện” chi mà phải mắc cở. Cái tiểu bang bà đọc “Mỹ nó sợ ta” là tiểu bang Minnesota, tiểu banh lạnh nhất của nước Mỹ đó. Còn tiểu bang Heo quay là tiểu bang Hawaii. Nhưng bà đọc heo quay thì cũng đâu có sai, bởi người Hawaii họ hay ăn thịt heo quay chiên dòn lắm.

Ông Tư đổi sang giọng điệu bông lơn,

— Mà nếu có ai trong Hội Legio cười ngạo tiếng Anh của bà, cứ để họ hả miệng cười, gió chui vô bụng đau ráng chịu. Lúc đó đừng có mà than trời!

Lời Chúa

…Ðức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Jêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy Tư Tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác’” (Luke 10: 30-35).

Suy Niệm

Giữa ba người, thầy Tư Tế, thầy Lêvi, và người Samaria thuộc về sắc dân thù nghịch với người Do Thái nạn nhân, ai người có tâm?, ai người có tài?

Lời Nguyện

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim bằng xương bằng thịt biết rung động, và một khả năng nhạy bén nhận ra khi nào trái tim chúng con không còn rung một tần số, một nhịp điệu với trái tim khốn khó của nhân loại.

www.nguyentrungtay.com