VIỆT CỘNG CÁO

(Họa vận Bài "Bình Ngô Đại Cáo" của nguyễn Trãi)

Nghĩ rằng:

Chế độ nào cũng cốt ở dân, đảng cộng sản là quân tàn bạo. Đạo Giáo nước ta từ trước, bác ái công bằng đã lâu. Thượng Kinh sắc tộc chẳng chia, hài hòa cùng tôn giáo khác. Mong non sông hoa gấm có ngày độc lập, hát khúc khải hoàn ca tô điểm muôn phương. Đất nước ta xây dựng cùng nhau, văn hóa Việt đắp bồi sẽ có.

Vậy mà:

Cộng sản làm dân mất vía, thế giới nghe tiếng giật mình. Cướp đất trắng trợn tại thủ đô, dỡ trò láu cá quân khuyển mã. Nói thì có tích, bằng chứng đã trưng!

Mới đây:

Cũng vì chuyện Giáo Xứ Thái Hà, vốn là dân quên thù kết bạn. Mong chính quyền đừng chơi trò ngạo ngược, để giáo dân còn có chỗ tôn vinh. Có ngờ đâu gặp một lũ hung tàn, thương tâm thay thấy chỉ toàn tai vạ. Âm mưu thâm độc mánh khóe, chác chia tham nhũng bao năm. Chợ thì dại mà nhà lại khôn, hải lãnh thổ tổ tiên phúc trạch. Bán ăn cho phồng mỏ, cướp để túi đầy châu, dưới thì đạp dân đen, trên thì nịnh suồng sã. Văn thư lếu láo tay đóng mộc, truyền thông bưng bít, mỏ ngoác lên. Lừa dư luận, lạc nhân tâm, đàn áp dân lành không biết chán. Đánh người này, bắt kẻ kia, hung bạo vô tâm mấy cho vừa. Tưởng rằng quyết dập tắt một phen, nào ngờ dân kéo đông mắc cửi. “Độc ác thay! Trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! Nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân chịu được.”

Lại nữa:

Đức Tổng Kiệt vị nghĩa, Tòa Giám Mục quên mình. Cầu xin cho đừng có hận thù, mong đối thoại với quân nghịch tặc. Cùng giáo dân cầu nguyện dù trời nắng hay mưa, xin công lý hòa bình từ hừng đông đến tối. Với chính sách bất bạo động ngài suy xét đã tinh; bằng phương pháp năng cầu nguyện ngài dặn dân rất kỹ. Bao khó khăn hay là cơn mộng mị, nỗi ưu tư ray rứt đến từng hồi. Trong niềm tin có Chúa phấn khởi lên, và đồng hành với Mẹ thêm sức mạnh.

Nghiệt ngã:

Hôm ấy còn đang rất sớm, Hà Nội cũng đã vào thu. Bọn việt cộng chơi kiểu ngu đần, lũ công an ra điều ác bạc. Đem chó săn, dùi cui, hung hăng xua đuổi đám đông. Lấy hàng rào, gai kẽm, khoanh vùng kín không thể tả. Í ới gọi nhau tay thì ngoắc ngoắc, đại diện chính quyền mặt lại giương giương. Thì ra chúng đã tính đã toan, chơi cây bài tưởng ăn chắc nịch. Nền Công Lý xe ủi ngang dọc, Tòa Khâm Sứ đập chẳng khó khăn. Xây công viên chỉ trong một tuần, phá Linh Địa cũng cùng một lũ. Xưa quân dữ bắt Chúa còn tha Mẹ, nay chúng vô thần quá quỉ ma; sách có câu uống nước còn hòng cấn. mà chúng uy quyền hơn thiên tử. Thư cảnh cáo, dọa trên đe dưới, đúng là lũ con cháu bác hồ; lệnh tịch thu, la xóm la làng, hỡi ơi cái thứ quân nghịch tử. Cứ tưởng thế, Giáo Hội không chịu nổi; nào ngờ đâu, dân chúng nguyện cầu luôn.

Lành thay:

Muôn hoa nở thắm giữa hung tàn, người dân hết sợ quân cường bạo. Khắp thế giới lương tâm thức dậy, cờ Tự Do Dân Chủ tung bay. Chính nghĩa rõ thêm, đức tin càng mạnh. Bạo lực cộng sản thế nào cũng tan, lò lửa hỏa ngục làm sao mà tránh. Chống lại dân tức là làm giặc, bán nước non mấy thuở xa xưa?!!! Giết Thị Vải chết một dòng sông, gào công lý công viên Hà Nội. Dân oan đòi đền mạng, nhà nước sẽ banh thây. Kinh tế hết mức đo lường, lạm phát vô phương chống đỡ. Trị dân ác hơn Trụ, Kiệt, mở mồm biết nói làm sao?!!! Đi đêm ngoan cùng Mỹ, Tàu, hèn hạ khom lưng chịu khuất. Quan thầy bảo làm sao phải dạ, hết nẻo tới lui; tai ương giáng họa khắp tứ phương, càng thêm tội nghiệt. Không biết lẽ phải, uổng cho một kiếp làm người; chẳng hiểu thế thời, chỉ quen bày trò dơ duốc. Cha ăn mặn thì con lại khát nước, ác báo đó thôi; bụng làm ác thì tội lại càng tăng, cơ đồ phải cháy. Nay thời cơ đã chín, trang lịch sử tất phải lật sang; trắng đen rõ mười mươi, cuộc đấu tranh nhân quyền phải đến. Ta anh dũng vùng lên quyết sống mái với cộng quân; Ta đoàn kết một lòng gào lên đòi ngay công đạo. Đòi lại thác Bản Giốc, ải Chi Lăng, đòi lại lãnh hải, Hoàng Trường Sa. Đòi lại giang sơn sắp tử vong, bắt đảng cộng sản phải tự vẫn. Thẳng đường ta cứ tiến; xanh mặt đảng phải lùi. Khắp nơi cứ vùng lên biểu tình, diệt bạo lực diệt tham ô dâm tặc; muôn người cứ gào đòi Dân Chủ, đòi Tự Do đập nát cửa quan nha. Ta kiên gan tấc dạ chẳng mòn; đảng kiệt quệ kế mưu cũng cạn. Nhân tâm hoán cải loài cầm thú, công chính câu lưu lũ sói muông. Mồ ma cộng sản đã chết khô, non nước thanh bình vui như cũ. Ai lầm đường khôn thì hối lỗi, ra trước quốc dân mà xin hàng. Cửa từ bi cũng sẽ mở đường, còn hơn bưng bô lũ bán nước. Văn minh nhân loại ngày càng mới đổi, thiên đường cộng sản đã quá nhạt mờ. Ăn bánh vẽ những tưởng thơm tho, béo bổ ngọt mật; lừa lương tâm nào ngờ cắn rứt cho khổ tấm thân. Có nghe thấy chăng tiếng dân rên rĩ; từ Nam chí Bắc lệ khổ đầm đìa. Khắp nơi tranh đấu đừng mong trốn chạy, cả nước đồng lòng bắt chúng quy đầu. Trước bàn thờ tổ tiên, chúng phải cúi đầu chịu tội, cho non sông gấm vóc khả dĩ ngửa mặt hồi sinh. Hỡi những quân bố mác bác mao lê, đã đến lúc chúng bay đấm ngực; ôi hồn thiêng sông núi dân Viêm Việt, đã đến giờ quét sạch tanh hôi. Ta làm cho bọn cộng sản cúi đầu khuất phục; ta tranh đấu trường kỳ làm chúng chẳng được nghỉ ngơi.

Chúng tưởng chúng gian xảo cực khôn, lừa thế giới xưa nay chưa có. Cháy nhà chuột mới lòi mặt, ta xây Dân Chủ vững nền. “Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.”

Than ôi!

Làm người dân sống dưới chế độ cộng sản, không bao giờ ta thấy được cảnh bình thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.

Eagle Phượng Hoàng

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

Tượng mảng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu cung sợ mất vía, Triệu Tiết nghe giật mình. Cửa hàm tử giết trươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng.

Vừa rồi:

Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm vét không son trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về nhưng nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận sách thao lược suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thửa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay.. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông; bến Tụy Động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, Hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong; hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay! Sắc phong vân cũng đổi; ảm đạm thay! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn dân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn ngàn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi!

Vẫy vùng một mảng nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.

Nguyễn Trãi