Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha (17/7/1936 – 1/4/1939) là cuộc xung đột lớn nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử nước này. 498 Chân Phước Tử Đạo được tôn phong ngày hôm nay 28/10/2007 là một phần trong số hơn 7000 các linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân Công Giáo bị giết trong thời kỳ này.

Bối cảnh dẫn đến cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha

Từ thời chiến tranh Napôlêông, vào đầu thế kỷ thứ 19, xã hội Tây Ban Nha đã trải qua những thay đổi sâu xa trong guồng máy cai trị với triều đại vua Alfonso XIII, kéo dài từ năm 1887 tới 1924; tiếp nối với chính quyền độc tài quân sự của tướng Primo de Rivera cho tới năm 1928; và hai năm sau đó với chế độ quân chủ; cho tới khi nhà nước Cộng Hòa lần thứ hai được thành lập vào năm 1931.

Tây Ban Nha
Những người Cộng Hòa là từ chỉ chung những ai thuộc liên minh cánh tả thân cộng sản và những người theo khuynh hướng cải cách. Sau khi lên nắm quyền, hàng loạt những đạo luật gây tranh cãi đã được những người Cộng Hòa thông qua vội vã như Luật Cải Cách Ruộng Đất vào năm 1932 với những vụ tịch thu đất của các chủ điền để chia lại cho nông dân nghèo, trục xuất những người Hồi Giáo, cắt giảm binh bị, cho giải ngũ hàng loạt, và đặc biệt là kích thích trào lưu bài tôn giáo. Điều 24 và 26 của hiến pháp 1932 cấm các cha Dòng Tên được hoạt động tại Tây Ban Nha.

Những thay đổi chóng vánh và cực đoan đã dẫn đến những chia rẽ trầm trọng trong xã hội. Theo thống kê chính thức từ năm 1932 đến tháng 7 năm 1936 đã có 160 nhà thờ, tu viện và các cơ sở của Giáo Hội Công Giáo bị đốt phá; 330 người bị ám sát vì lý do chính trị, 1,511 người bị thương trong các cuộc bạo động liên quan đến chính trị; 213 vụ ám sát hụt đã xảy ra; cùng với 113 vụ tổng đình công gây tê liệt đời sống.

Trong cuộc bầu cử tháng Hai năm 1936, những người Cộng Hòa gồm đảng Xã Hội, đảng cộng sản, và hai đảng có khuynh hướng thân cộng sản là đảng Cộng Hòa Cánh Tả của Manuel Azaña, và Đảng Công Đoàn Cộng Hòa đã thành lập Mặt Trận Bình Dân quy tụ cả những thành phần thông thường không đồng chính kiến với họ chẳng hạn những kẻ theo chủ nghĩa vô chính phủ trong công đoàn Confederación Nacional del Trabajo; và những thành phần ly khai tại Basque. Nhờ liên minh hổ lốn này, họ giành được 34.3% số phiếu trong khi đảng Quốc Gia Tây Ban Nha giành được số phiếu sát nút là 33.2%.

Tuy nhiên, sau khi đã giành được chính quyền, tranh chấp trong nội bộ của Mặt Trận Bình Dân càng ngày càng trở nên gay gắt. Lãnh tụ đảng cộng sản là Largo Caballero, người thường được tờ Pravda của Liên Sô gọi là “Lênin của Tây Ban Nha” tẩy chay không tham dự vào trong nội các liên minh và tuyên bố với đám đông rằng nội chiến là không thể tránh khỏi. Lãnh tụ của đảng Xã Hội là Indalecio Prieto, theo một đường lối trung hòa hơn, gọi việc kích động nội chiến của Largo Caballero là điên rồ và mạnh mẽ lên án cuộc biểu tình bạo động do cộng sản tổ chức ngày 1/5/1936. Tranh chấp trong nội bộ Mặt Trận Bình Dân đã dẫn đến việc Manuel Azaña (đảng Cộng Hòa Cánh Tả) làm thủ tướng, lãnh đạo một chính quyền thiểu số, không có thực quyền trong một đất nước ngày càng bị lũng đoạn bởi cộng sản và những thành phần cánh tả khác.

Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha

Ngày 12/7/1936, José Castillo, thành viên của đảng Xã Hội, trung tá thuộc Biệt Đội Đàn Áp, một lực lượng đặc biệt của cảnh sát nhằm đàn áp những cuộc nổi dậy tại thành thị, bị ám sát chết tại Madrid. Ngay hôm sau José Calvo Sotelo, lãnh tụ của khối bảo thủ trong quốc hội Tây Ban Nha bị Luis Cuenca ám sát như một hành động trả đũa. Luis Cuenca là quân nhân trong biệt đội của thiếu tá Fernando Condés Romero, một người thân thiết của Indalecio Prieto – lãnh tụ đảng Xã Hội. Vụ giết hại José Calvo Sotelo đã gây phản ứng mạnh trong giới quân nhân Tây Ban Nha. Giới quân nhân Tây Ban Nha đã có dự trù đảo chính từ trước nhưng vụ ám sát José Calvo Sotelo đã như giọt nước cuối cùng.

Trước đó, Casares Quiroga (đảng Cộng Hòa Cánh Tả), người vừa thay Manuel Azaña trong vai trò thủ tướng vào tháng 5/1936, đã nghi ngờ âm mưu đảo chính của quân đội nên đã bắt giam hai tướng Manuel Goded y Llopis và Francisco Franco đầy ra quần đảo Balearic và quần đảo Canary.

Sáng ngày 17/7/1936, quân đội Tây Ban Nha phát thanh trên làn sóng điện quốc gia bài “Trên khắp vùng trời Tây Ban Nha, bầu trời quang đãng”. Đó là nhạc hiệu cho cuộc tổng nổi dậy của quân đội Tây Ban Nha. Tại hai quần đảo Balearic, và Canary, các tướng Manuel Goded y Llopis và Francisco Franco nhanh chóng chiếm được chính quyền. Cuộc đảo chính dự định sẽ diễn ra rất chóng vánh nhưng kết quả đã không đúng như dự liệu. Quân đội Tây Ban Nha đã không chiếm được bất cứ một thành phố lớn nào trong năm ngày đầu nổ súng. Trong khi đó, các lực lượng cảnh sát và các biệt đội do chính phủ Bình Dân kiểm soát đã thành công trong việc đẩy lui các cuộc tấn công của quân đội. Tại Madrid, quân đội bị vây trong trại Montaña. Chỉ trong ngày hôm sau, trại này thất thủ với cuộc tắm máu các quân nhân Tây Ban Nha. Tại Barcelona, những kẻ theo chủ nghĩa vô chính phủ tự võ trang cho mình và đánh bại quân nổi dậy. Tướng Manuel Goded y Llopis, người vừa đến Barcelona từ quần đảo Balearic bị bắt sống và bị xử tử ngay sau đó.

Mặt Trận Bình Dân làm chủ được Madrid, các thành phố lân cận, Valencia và hầu hết khu vực miền duyên hải phía Đông Tây Ban Nha. Quân đội Tây Ban Nha chỉ làm chủ được phía Bắc và Tây Bắc Tây Ban Nha; khu vực Andalusia và Seville.

Mặt Trận Bình Dân dưới chiêu bài hổ lốn từ cộng sản đến cấp tiến được nhiều thành phần trên thế giới ủng hộ. Sự ủng hộ mạnh nhất cố nhiên đến từ Liên Sô. Những thành phần cực đoan trong chính quyền Mễ Tây Cơ cũng giúp đỡ Mặt Trận Bình Dân. Một số thành phần thân cộng tại Hoa Kỳ cũng đến giúp trong cái gọi là Sư Đoàn Abraham Lincohn.

Trong khi đó quân đội Tây Ban Nha được sự giúp đỡ chủ yếu của nước láng giềng Bồ Đào Nha và sau đó của cả Đức và Ý dưới chiêu bài chống cộng.

Tại các vùng do Mặt Trận Bình Dân kiểm soát, bọn cộng sản và những thành phần cánh tả khác đã lợi dụng thời cơ này để thực hiện một cuộc bách hại Giáo Hội Công Giáo với quy mô chưa từng có. Các thành phần cực đoan trong Mặt Trận Bình Dân đổ lỗi cho Giáo Hội là gây ra những “bệnh hoạn” cho đất nước và hô hào một cuộc thanh tẩy tôn giáo. Nhiều vụ tàn sát tập thể các Kitô hữu xảy ra. Hơn 7000 các giáo sĩ bị giết, nhiều nhà thờ và tu viện bị tấn công. Trong số các vị bị giết có 13 Giám Mục, 4184 linh mục triều, 2365 nam tu sĩ trong đó có 114 vị thuộc dòng Tên là những người bị săn đuổi gắt gao nhất, và 283 nữ tu. Có bao nhiêu giáo dân bị giết là một con số không thống kê nổi. Nhiều người bị buộc phải nuốt tràng chuỗi Mân Côi và bị xô xuống giếng. Đa số các linh mục bị giết đều bị buộc tự đào hố chôn cho mình để rồi bị chôn sống.

Đa số các vụ tàn sát người Công Giáo là do bọn Stalinist NKVD (biệt đội cảnh sát đặc biệt Sô Viết) tiến hành. Trong số những nhà lãnh đạo thuộc phe Cộng Hòa, cũng có những người không đồng quan điểm với bọn cộng sản. Ông Lluís Companys, chủ tịch Generalitat de Catalunya, phong trào đòi tự trị cho vùng Catalunya là người thường can thiệp để tránh không cho bọn cộng sản tàn sát các tín hữu Công Giáo.

Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha là hình ảnh thu nhỏ của một cuộc thế chiến vì nhiều nước trên thế giới tham dự vào. Chiến tranh khốc liệt đã để lại trong lòng người những thù hận khó phai. Ngày 1/4/1939, tướng Franco tuyên bố chiến tranh kết thúc nhưng những hậu quả sau đó tiếp tục kéo dài. Hàng chục ngàn những người Cộng Hòa bị bắt bớ tù đầy và ít nhất 30,000 người bị giết. Khoảng 500,000 người có dính líu với Mặt Trận Bình Dân lánh nạn sang Pháp và Mễ Tây Cơ.